Phần 25 Chín ngày trong một đời người
Bao triều vua phế đi rồi.
Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ
Nguyễn Duy.
Cách!..
Tiếng bập khô khô khốc vang lên sau tiếng "rầm" của cánh cửa sắt xà lim sập mạnh... Thế là tôi đã được ở trong nhà tù, một cái nhà tù đích thực theo nghĩa đen mà cách đây ít phút tôi chưa hình dung được nó một cách cụ thể. Thậm chí tôi cũng chưa nghĩ tới nó cách đây hơn hai năm khi tôi làm bài thơ " Gửi anh công an an ninh chính trị!" Khi dám dấn thân đi vào con đường thế sự đầy gai góc thì cứ coi ngày này là điều tất yếu.
Lúc đó là khoảng 17 giờ ngày 25-4-2001, cái ngày định mệnh ở cái tuổi xấp xỉ cổ lai hy của tôi. Vừa bất hạnh và cũng vừa "vinh dự" được ở trong cái nhà tù nổi danh của thành phố Hải Phòng được xây dựng từ thời mồ ma "đế quốc Pháp", và được bàn giao lại cho chế độ XHCN tiếp tục quản lý sử dụng, nằm trên con đường mang tên ông Tổng bí thư đầu tiên của ĐCSĐD kèm theo câu xú ngôn nổi tiếng từng làm ghê rợn của một thời:
"TRÍ-PHÚ-ĐỊA-HÀO, đào tận gốc, trốc tận rễ" mà cung bậc âm hưởng của nó lên cao hay xuống thấp đã tưởng rằng chỉ còn "vang bóng một thời" mà vẫn còn tác oai, tác quái đến hôm nay.
Để minh chứng cho lời hù doạ có hiệu lực của ông, cái đập vào mắt đầu tiên của tôi là ở góc tối của buồng tù có một cái cùm chân bằng những thanh sắt đen xì cực to đang giương mắt nhìn tôi như đe doạ. Quả thật đã từng trải qua bọn "trâu điên, ó đỏ" nguỵ và những làn đạn lửa tử thần khi xung phong mà khi thấy "con quái vật cùm đen xì" tự nhiên cảm thầy chờn chợn, ghê ghê vừa sợ hãi, vừa căm giận. Tự nhiên bên tai tôi văng vẳng câu nói của ai đó: "La méchanceté boit elle même la plus grande parti de son poison".. ("Sự tàn bạo tự nó uống một phần lớn thuốc độc của nó!").
° ° °
Trên chiếc taxi vận tải nhỏ bon bon hướng Hà Nội-Hải Phòng có 2 người: Tôi và thằng cháu, con cô em ruột tôi lái xe chở bột đá xuất đi ý cho một doanh nghiệp ở Hải Phòng.
Tuýt...tuýt....tuýt...
Tiếng còi giật giọng chói tai trước mũi xe cắt ngang cơn lơ mơ của tôi và sau đó vang lên tiếng loa pin cầm tay oang oang: "Chú ý! Được nhân dân phát hiện và báo trên ô tô có mang hàng cấm, phải dừng lại để kiểm tra".
Nhờ tiếng loa mà tôi tỉnh hẳn giấc lơ mơ và tự nhủ thầm: "Thôi thế là mình bị rồi".... Lúc đó là khoảng gần 13 giờ ngày 24-4-2001. Tôi bị bắt tại trạm giao thông Quán Toan cách Hải Phòng chừng 10 cây số.
Chẳng hiểu từ lúc nào, 2 xe U-oát và nhiều xe máy cùng hơn một chục CA vừa mặc cảnh phục, vừa mặc thường phục đã vây quanh xe ô tô của tôi. Một CA nhảy lên buồng lái ép tôi ngồi sát vào trong và ra lệnh cho cháu tôi lái theo 1 cái U-oát dẫn đường, còn các xe khác bám theo sau. Cũng chẳng rõ vài ba trăm mét hay một cây số gì đó thì đoàn xe dừng lại trước một căn nhà mà tôi chắc là Trạm giao thông Quán Toan. Nói là dân Hải Phòng qua lại nhiều lần trên Đường 5, quả thật tôi chưa hề biết cụ thể Trạm Quán Toan là "khắc tinh" của các anh hùng xa lộ.
Họ ra lệnh cho tôi mang hành lý vào Trạm. Tôi khoác cái ba lô du lịch nhỏ chỉ có một bộ quần áo dự phòng và khăn mặt cùng bàn chải đánh răng. Còn cái túi nilông xách tay trong đó đựng một số sách và tài liệu của bạn bè Hà Nội gửi đọc cho "vui" và cho biết những cuộc đời ẩn sau những cuộc đời, trọng lượng khoảng trên dưới 1 kg, tôi để lại xe không mang theo vì mấy ông CA an ninh đâu có phải "tay mơ" mà để lọt tang chứng. Vây xung quanh tôi, một ông già nhỏ thó tới mười mấy anh CA cao to, lực lưỡng.
Trạm là một căn phòng lớn như một căn phòng tiếp khách của một cơ quan, có một cái bàn to dài xung quanh đầy đủ ghế tựa. Không phải là qua cơn "hoạn nạn" thì tha hồ "bốc phét", nhưng quả là lúc ấy lòng tôi bình thản chẳng phải vì tôi can đảm gì mà là tôi chủ quan suy nghĩ mình có tội gì mà bắt. Tôi toan ngồi xuống nghỉ cái đã rồi muốn ra sao thì ra. Nhưng không được... họ giục tôi đứng lên và tự mở ba lô các đồ linh tinh để họ khám. Tiếp theo họ ra lệnh tôi phải cửi thắt lưng và lột cái áo len ngắn tay để họ kiểm tra. Tôi phản ứng gay gắt: "Các anh có từng đấy người mà định làm nhục người già như tôi sao? Muốn khám cởi quần áo thì cũng phải có nơi khám riêng đàng hoàng chứ".
"Bác cứ bình tĩnh, đây chỉ là thủ tục bắt đầu thôi". Lời thốt ra từ một anh CA to, cao, đẹp trai với bộ mặt đằng đằng nghiêm nghị. Sau đó họ mang cái túi nilon tài liệu vào và hỏi: "Túi này có phải của bác không? Tôi gật đầu và họ ra hiệu cho tôi tự lấy các tài liệu ra để lên bàn. Khi lục lấy tài liệu ra tôi liếc mắt thì ngoài một người ghi biên bản còn có cả camera đang chĩa vào mặt tôi. Thì ra họ đã chuẩn bị chu đáo đón lùng tôi mà nào tôi có biết. Trong số CA đã thấy thì tôi thấy xuất hiện thêm một nhân vật mới, một người mặc bộ comlê màu nâu nhạt đã hơi cũ. Ông ta trạc hơn sáu mươi tuổi theo bộ mặt và mái tóc đã bạc. Trông ông có dáng một ông giáo già về hưu, hiền lành gây một cảm giác nhẹ nhõm trong tôi. Nhưng vì thấy ông chắp tay sau lưng, đi đi lại lại ngoài hành lang, trầm ngâm không nói một câu, tuy thỉnh thoảng có trao đổi một vài câu gì đó có vẻ chỉ đạo. Vậy là "cốp" rồi, tôi nghĩ vậy và bắt đầu cảnh giác với ông ta dù tôi biết mình cảnh giác cũng bằng thừa, vì tôi đã sa vào cái lưới của ông rồi. Đột nhiên rất nhanh tôi nghĩ đến chuyện ngụ ngôn của hai mẹ con nhà Chuột. Chuột con lần đầu tiên đi quanh sân quan sát những người sống quanh nó. Khi nó về khoe với mẹ:" Mẹ ơi! Con sợ quá, con gặp một ông cao to ghê gớm, đầu ông đội một cái mũ đỏ chót, có bộ lông óng ánh và đôi chân có vẩy cùng với một cái cựa rất dài và nhọn. Khi ông quạt cánh gió thổi vù vù và hét lên "cúc cù cu" váng cả tai. Con sợ quá chạy chối chết. Rồi sao nữa... mẹ chuột hỏi. Sau đó con thấy một ông già hiền lành có bộ lông vằn vàng mượt mắt lim dim đang nằm sưởi nắng. Chuột mẹ khuyên con ra sao tôi không dám dài lời kể tiếp. Nhưng mai ngày mà đối thoại hay bị hỏi cung trước ông già CA hiền lành này thì từ câu chuyện ngụ ngôn trên hẳn cũng răn dạy đựoc tôi một điều gì. Nhưng sau này khi tiếp xúc nói chuyện với ông, tôi mới thấy tôi nhầm.
Tiếp tục việc kiểm tra "tang vật". Gồm: quyển "Nền Kinh Tế Trí Thức" rất dày, một quyển viết về "Giáo sư Dương Quảng Hàm" của Nhà xuất bản ĐH Quốc gia Hà Nội, một quyển "Hồi ức tháng Năm" của nhà cách mạng lão thành Phí Văn Bái do Nhà xuất bản Thanh niên. Ba quyển trên là của anh Lê Hồng Hà tặng tôi. Ba lá thư gửi Bộ chính trị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của nguyên Uỷ viên BCT Nguyễn Đức Tâm và của 3 ông tướng viết chung: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, Trung tướng Lê Tự Đồng và một số các bài viết của Tiến sĩ Viện sĩ Nguyễn Thanh Giang, của nguyên Viện trưởng Viện Marx-Lénie Hoàng Minh Chính và một vài bài viết khác tôi chưa kịp đọc. Đến thăm các bạn, các anh ấy cho thì cứ đút bừa vào túi để về Hải Phòng đọc sau. Riêng có quyển "Tổ quôc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng thì tôi chịu không nhớ là của ai cho. Và cũng chỉ có quyển này mà CA truy hỏi tôi nhiều hơn cả. Họ bắt tôi tự ghi ngày tháng năm hôm bị bắt, ký tên và ghi rõ họ và tên dưới chữ ký từng tài liệu. Nếu là quyển thì phải ký tờ đầu tiên và tờ cuối cùng. Nếu là tài liệu chỉ có hai, ba trang thì cũng phải ghi vào trang đầu và ký vào trang cuối. Tôi viết và ký liên tục đến mỏi tay. Tôi có thói quen ký tên rồi mới ghi ngày tháng năm, cho nên khi tôi vừa mới ghi tên thì đã có tiếng dục nói gay gắt của một CA "đằng đằng sát khí": "Bác phải ghi rõ ngày tháng năm vào". Tôi bực mình mỉa mai: "Ông yên tâm đi, cả một đống tài liệu này chưa làm tôi ngại thì trốn vài chữ ngày tháng năm để làm gì". Một bầu không khí căng thẳng xung quanh tôi. Tôi nghĩ: "Không hiểu khi CA bắt được một tên trùm buôn ma tuý thì cũng căng thẳng đến thế này là cùng chứ gì?"... Mọi thủ tục đã hoàn tất bước đầu và chuẩn bị giải tôi về Hải Phòng. Trước khi đi tôi yêu cầu họ một điều: "Nếu những gì xẩy ra ngày hôm nay mà các ông cho tôi là phạm tội thì tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn là do tôi. Còn thằng cháu tôi, cháu hoàn toàn không hề biết việc bác nó làm, nên tôi xin các ông trả tự do cho cháu để cháu đi giao hàng cho chủ". Lời đề nghị của tôi được họ chấp nhận, sau khi khám xét lật từng ngóc ngách của xe, họ áp giải cháu tôi tới nơi giao hàng và 18 giờ họ trả tự do cho cháu tôi về Hà Nội. Họ áp giải tôi ra xe U-oát. Trước khi mở cửa xe cho tôi lên, chú lái xe CA nói vui với tôi một câu: "Chả mấy khi "bá" đi xe của CA, vậy cũng đi để cho biết". Tôi cũng đáp đùa vui một câu: "Đúng vậy. Cũng cần biết đệm xe của CA có êm không?". Có một điều thấy cũng cần nói ngay là tôi chuẩn bị sẵn sàng đón nhận cái còng số 8 bập vào nhưng điều đó đã không xẩy ra.
Đoàn xe bon bon về Hải Phòng. Qua cơn mưa nhẹ, bầu trời Hải Phòng như bừng sáng hơn. Vẫn những xe cộ, dòng người hối hả ngược xuôi, nhịp sống của tự do loang loáng hiện qua mắt, bỗng dưng tôi tự cường điệu hoàn cảnh của mình lên một chút và lẩm bẩm:
"Chết vì Tổ quốc.
Chết vì vinh quang
Lòng ta sung sướng
Trí ta nhẹ nhàng".
Bốn câu thơ của nhà thơ yêu nước vĩ đại Nguyễn Thái Học chợt đến với tôi để tự động viên, để che bớt sự sợ hãi, sự hèn nhát căn bệnh cố hữu nấp trong sâu thẳm của con người sau khi chia tay với khói lửa chiến tranh đã 26 năm trời lại xuất hiện. Sống nín nhịn, sống cam chịu đã thành thói quen mài nhẵn con người tôi gần hết cả một đời người, mà mới "u, ơ" một vài suy nghĩ vượt ra ngoài khuôn phép thì lại đã dính vào vòng lao lý. Đang mung lung suy nghĩ bỗng một thoáng rùng mình, lần đầu tiên kể từ khi bị bắt tôi nghĩ đến vợ và các con tôi. Chả có gì để chứng minh thần giao cách cảm là có thực, nhưng sau này được trả tự do tôi mới được biết cái giờ phút kỳ diệu đó là lúc nước mất của vợ tôi, của các con tôi khóc vì sợ hãi khi nhà tôi bị lục soát tanh bành.
Xe đi trên đường Điện Biên rồi rẽ trái, tôi chợt hiểu tôi được đưa về số 14 Lê Quýnh mà đến hôm nay tôi cũng chưa biết tên thật đúng của cái cơ quan CA đó.
Xe đỗ trên một cái sân rộng có kẻ đường biên của một bãi cầu lông. Trước mặt tôi là ngôi nhà chính 2 tầng khang trang. Tôi được giải xuống một phòng ở dãy nhà ngang một tầng. Người hướng dẫn tôi vào và nhiệt tình xách giúp tôi cái xô nhưạ to có đựng rượu nếp cái ngâm trứng gà của cô em ruột cho là Trung tá VL, một anh CA đặc biệt có đôi mắt như luôn xói vào tâm can người đối diện và trên môi như luôn thường trực một nụ cười mỉm mà không rõ anh có cười thực hay không. Phòng có kê một cái giường một, trải chiếu hoa sạch sẽ. Một cái tủ bằng tôn kẽm trắng to để tài liệu và một bộ bàn ghế làm việc kiểu cơ quan thường thấy.
Tôi vừa đặt chiếc ba lô xuống giường thì một anh CA khác đi vào cầm hai cái bánh mỳ kẹp patê. Nếu tôi nhớ không nhầm thì đó là trung tá P (sau này tôi mới biết chức vụ vì khi anh là người bắt tôi anh mặc thường phục). Vừa đưa một cái bánh mỳ cho Trung tá VL anh vừa nói với VL đồng thời cũng liếc mắt sang tôi như để nói với cả hai người: "Này cậu cầm lấy ăn đi. Bác ạ. Từ sáng đến giờ chúng tôi đã được ăn uống gì đâu". Trung tá VL cấm lấy cái bánh mỳ nhưng một thoáng lúng túng vì anh chợt nhận thấy tôi là một kẻ cũng cần phải được ăn nên anh nhường cái bánh mỳ cho tôi và mời tôi. Tôi lịch sự từ chối vì nhu cầu ăn của một ông già như tôi có thể nhịn qua bữa là thường, huống chi ở tình huống này còn bụng dạ đâu mà ăn. Tôi xin phép ra sân để các anh ăn cho tự nhiên. Ăn xong VL yêu cầu tôi vào tiếp tục làm việc, có nghĩa là bắt đầu cuộc hỏi cung sơ bộ. Xấp giấy trắng kẻ học sinh và cái bút bi trước mặt anh bắt đầu hỏi và tự ghi chép. Bỗng nhiên anh có một cử chỉ hết sức bất ngờ và gây một thoáng xúc động trong tôi. Anh tự chỉ tay vào mặt anh và nói: "Bác Quận ạ. Bác trông mặt cháu có phải là bộ mặt của kẻ bất lương không? Mấy năm nay tôi chỉ nghe tên bác hôm nay mới được biết mặt. Tôi hiểu bác và mong bác cũng hiểu tôi để chúng ta tiến hành công việc cho được thuận lợi". Và trong 10 ngày được anh hỏi cung liên tục, anh đã nói đúng. Anh tên thật là VL một CA họ Vũ lương thiện hỏi cung một tù nhân cũng họ Vũ, cũng dám tự nhận mình là một người lương thiện. Lúc "bác cháu" lúc "bác tôi" các đại từ nhân xưng giữa tôi và VL hơi lộn xộn. Nhưng khi chính thức làm việc, VL gọi tôi là anh và xưng tôi. Trước mắt tôi lúc này một VL sởi lởi được thay thế bằng một Trung tá CA VL khó đăm đăm và nghiêm nghị.
Hỏi: Anh cho biết họ tên, tuổi, chỗ ở?
Đáp: Tôi là Vũ Cao Quận, 69 tuổi ở số 1C - Ngõ 246B - Đường Đà Nẵng - Phường Câù Tre - Hải Phòng.
Hỏi: Anh có nhận tội là đã mang theo những tài liệu cấm, chống Đảng không?
Đáp: Tôi nhận là có mang theo một số sách, tài liệu, nhưng nội dung của các quyển sách đó lại do một số Nhà xuất bản được phép in ấn. Còn các tài liệu thì toàn là các bài viết gửi Bộ Chính trị góp ý kiến về Đại hội IX của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, của nguyên Uỷ viên BCT Nguyễn Đức Tâm, của 3 ông tướng: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo và Trung tướng Lê Tự Đồng, của Tiến sĩ Viện sĩ Nguyễn Thanh Giang và một số các bài viết khác mà tôi cũng chưa kịp xem. Những bài tôi đã đọc qua chẳng thấy nội dung có gì chống Đảng, và đáng cấm cả. Còn nếu theo các ông đó là những tài liệu cấm thì đài, báo chí công bố cho toàn dân biết để mà tránh chứ, theo lôgic hợp lẽ với lẽ đời, hợp với luật pháp thì các ông phải điều quân đi truy bắt các ông viết các tài liệu trên chứ. Bắt người viết chứ sao bắt người đọc... tôi toan nói tiếp thì bị cắt ngang...
Hỏi: Làm sao mà anh quen và có mối liên hệ với các ông: Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà và Nguyễn Thanh Giang...?
Đáp: Trình bày thì dài nhưng tôi xin nói ngắn gọn. Tình đời, tình người thôi... Khi ông Độ là tướng tôi mới là anh tiểu đội trưởng, không có mối liên hệ nào trực tiếp cả. Cách đây có dễ hơn 40 năm, tôi có được nghe, được đọc một số bài viết về thanh niên của ông Độ. Ông Độ hiểu thanh niên công nông đồng thời ông cũng hiểu những tâm tư của bọn thanh niên tiểu tư sản và tầng lớp trên chúng tôi tự nhiên nẩy sinh trong tôi lòng kính trọng vu vơ thôi, vì địa vị xã hội của ông so với tôi lúc đó xa cách quá. Tôi đến với ông khi ông bị "thất sủng" và đau yếu, một người lính già đến với một chủ tướng già. Giản đơn có vậy thôi, chứ không phải thấy người sang bắt quàng làm họ. Còn quen với các ông khác chẳng qua cũng là tất yếu, tình bạn của sự nổi dậy của tư duy.
Đang nói dở thì một CA từ bên ngoài đi vào không nói, không rằng quẳng một băng Video vào trước mặt tôi. Hành động nghiệp vụ này hơi non một chút nên họ chẳng tìm thấy một phản ứng gì thay đổi trên nét mặt tôi. Tôi vẫn bình thản ngồi lặng lẽ để chờ câu hỏi tiếp nhưng lòng thầm nghĩ: "Thế là các chú em đã đến khám nhà tôi rồi". Các băng Video đó là của anh Trần Độ tặng tôi quay cảnh các anh: Trần Độ, Nguyễn Văn Đào (nguyên bí thư Thành uỷ Hà Nội), Trần Khuê, Trần Dũng Tiến, Đại tá Thế Kỷ, Đại tá Võ Hạ, trung tá Vũ Đức Tĩnh, Vũ Cao Quận được vợ chồng Viện sĩ, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang và Tuyết Mai (con gái nhà báo lão thành cách mạng Thôi Hữu) mời đi viếng mộ Nhà báo lão thành cách mạng Thôi Hữu ở Thái Nguyên. Mãi về sau này lắm lúc tôi tự hỏi: Các CA nghiệp vụ có tự cảm thấy xấu hổ khi mình vi phạm pháp luật đi thu những thứ không thuộc về chứng cứ phạm pháp. Những người trong băng Video đều là những công dân tự do đi thăm viếng liệt sĩ và họ thu cả ảnh tôi chụp chung với vợ chồng Trần Trọng Hải và Anbina Trebontasova cùng cháu Ella Trần Hải Yến trong dịp ra thăm và tặng tiền cho vợ chồng cô gái Nga bán bia ở Cẩm Phả. Họ tịch thu cả chiếc máy chữ nhỏ của tôi.
Rồi giờ nghỉ cũng đã tới, sau khi ký vào biên bản hỏi đáp Trung ta VL thu xếp nhường giường ngủ ở phòng làm việc của anh. Khoảng 18 giờ vợ tôi mang cặp lồng phở đến cho tôi và được VL đưa vào tận phòng cho tôi. Tôi tuyên bố: "Tôi tuyệt thực sẽ không ăn cho đến khi nào tôi được gặp vợ tôi". Và tôi bỏ đi nằm, khoảng 30 phút sau, anh VL vào gặp tôi và nói: "Bác phải ăn đi, chả lẽ bác lại để tôi lập biên bản không ăn thì thật buồn cười quá". Tôi nói: "Lập biên bản là quyền của các ông, còn nếu tôi không được gặp vợ tôi thì tôi đã sẵn sàng chuẩn bị cho cái chết của tôi rồi. Tôi sẽ tuyệt thực đến chết vì tôi chẳng còn gì để mất cả". Lại khoảng 1 giờ 30 phút sau (tức là khoảng 20 giờ) anh VL lại vào phòng dục tôi ăn. Tôi kiên quyết không ăn. Thấy vậy anh đấu dịu: "Thôi bác ăn đi. Sau khi bác ăn xong tôi sẽ để bác gái vào gặp bác". Tôi cảnh giác hỏi lại: "Anh bảo đảm chứ". VL đáp có vẻ hơi bực: "Chẳng lẽ tôi lại nói dối bác sao...?".
Dù suốt từ sáng tôi mới uống một tách cà phê mầu ở Hà Nội với Đắc Kính cho tới bây giờ tôi cũng không hề thấy đói. Bởi lẽ sau biến cố bệnh tật hôm 27 tết âm lịch, tôi bị liệt nửa người phải đi bệnh viện quân đội 203 cấp cứu nên đầu tôi luôn bị như say sóng và nhu cầu ăn tôi có thể nhịn vài ba ngày cũng được. Để có sức "chiến đấu" cho ngày mai tôi chỉ ăn hết nửa xuất phở, chủ yếu là ăn hết số thịt bò để tăng thêm sức chịu đựng.
Giữ đúng lời hứa, sau khi tôi ăn xong Trung tá Vũ Lương cho phép vợ tôi vào gặp tôi. Khi vợ tôi bước vào phòng, tôi vội quệt nước mắt trong bóng tối và lòng thấy thanh thản lạ thường.
Chỉ có biết được mình sắp bước vào cuộc đời giam giữ, lao tù mới thấy việc được gặp vợ là quý giá biết chừng nào. Tội nghiệp vợ tôi, khi thấy chồng mới mặc chiếc áo cưới hôm trước thì hôm sau đã phải khoác áo tang trắng trong đám ma của bố chồng. Ở với chồng chưa kịp bén hơi nhau thì lại tiễn đưa chồng vào Nam chiến đấu. Cuộc chiến tranh chống Mỹ ngày càng ác liệt, người vợ trẻ tiễn chồng ra mặt trận hẳn biết rằng cái ngày trở về là không hẹn trước.
- Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi... Liệu có mấy người chinh chiến trở về. Đằng đẵng chờ chồng, gánh nặng đè lên vai với đồng lương kế toán ít ỏi nuôi mẹ đẻ lẫn mẹ chồng. Hoà bình trở lại cũng chưa được một ngày sung sướng thì hôm nay... chồng chưa đỡ đần được bao nhiêu thì lại mang gánh nặng vì chồng. Với bản lĩnh vững vàng vợ tôi không hề khóc lóc, vẫn bình tĩnh kể sơ qua việc nhà tôi bị lục soát một cách vô cớ. Các con lo lắng và thương bố lắm. Về phần tôi cũng chưa hình dung những gì sẽ xẩy ra tiếp theo với số phận tôi, nhưng trong suốt chiều dài về lịch sử đàn áp của đất nước này như: Vụ H 122, CCRĐ, "Nhân văn giai phẩm", "Nhóm chống Đảng".... thì tôi lại trở lại với bản năng của người lính: Cảnh giác và sẵn sàng ứng phó với hoàn cảnh xấu nhất. Thật là trớ trêu, gần hết cả cuộc đời cầm súng chiến đấu từ lúc tóc còn xanh đến khi đầu bạc luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và cảnh giác với mọi kẻ thù thì hôm nay... cũng lại cảnh giác và sẵn sàng ứng phó với cái trước mặt: chẳng bạn, chẳng ta cũng chẳng phải thù.
Đêm ấy (24-4-2001) sau những thao thức rồi tôi cũng thiếp đi sau một ngày căng thẳng. Khoảng 5 giờ 30 sáng tôi bị đánh thức bởi tiếng mở khoá buồng tạm giữ và tiếng oang oang của viên CA trực: "Dậy đi ông. Sáng rồi. Rất chu đáo anh chỉ cho tôi chỗ rửa mặt và các nhu cầu vệ sinh khác. Chỉ ít phút sau tôi biết anh là Trung tá Th với vóc dáng to đậm, ngăm ngăm, khuôn mặt mang dáng dấp của một nông dân, với vẻ hồn nhiên, chất phác và thái độ ân cần, vồn vã. Tất nhiên đây chỉ là một nhận xét bên ngoài của tôi... chợt chuyện ngụ ngôn về mẹ con nhà Chuột lại hiện trong tôi. Cách đây hai hôm trước khi bị bắt, một ông bạn tôi đã từng có chức vụ cỡ thứ, vụ trưởng của ngành CA bảo tôi: "Ông chớ có tin bọn CA". Tôi nói vui hỏi lại: "Thế thì chính tôi tin ông sao được. Vì ông cũng cỡ tổ sư của ngành CA đó sao?". Nhưng riêng với Trung tá Th đã gây cho tôi một cảm giác nhẹ nhõm khi tiếp xúc. Và cũng Trung tá Th là người cùng Trung tá VL là người hỏi cung tôi nhiều nhất trong 9 ngày bị giam giữ.
8 giờ sáng ngày 25-4-2001, ngày làm việc thứ hai của CA với tôi. Người hỏi cung tôi là thiếu tá VNC cùng trung tá VL. Hình như VNC có quân hàm thấp hơn nhưng chức vụ lại cao hơn VL. Sau khi bố trí đặt micro trước mặt tôi và thợ camera đã sẵn sàng chĩa máy thẳng vào mặt tôi, VNC nói: "Chúng ta bắt đầu làm việc, trước khi làm việc anh có ý kiến gì không?".
Đáp: "Thứ nhất tôi lấy quyền của một công dân, tôi xin được xem lệnh bắt tôi. Thứ hai nêu tôi có tội, tôi yêu cầu được xét xử trước toà án. Thứ ba là khi nói với các ông về nỗi thống khổ của nhân dân, của đồng đội tôi, tôi hay dễ xúc cảm, tôi mong các ông đừng xuyên tạc những giọt nước mắt xúc động của tôi thành biểu lộ của sự ăn năn hối lỗi trước cơ quan CA như kiểu Như Phong làm trên báo AN NINH Thế giới để bôi xấu, để vu khống một số nhà trí thức và nhân sĩ".
Tôi có cảm tưởng họ chẳng hề có lệnh bắt tôi, nhưng đòi hỏi của tôi đối với họ chẳng có ý nghĩa gì, vì chỉ khoảng 5 phút sau họ đã mang tới cho tôi xem lệnh bắt giữ tôi có đủ chữ ký của Viện kiểm sát nhân dân thành phố. Có nghĩa là họ có hàng mớ lệnh ký lưu không của VKS, còn khi họ định bắt ai thì cứ việc bắt chứ không cần qua thủ tục bắt giữ, khám xét công dân của pháp luật.
VNC: "Tôi xin trả lời yêu cầu thứ hai của ông là ông yên tâm nêú ông phạm tội thì chúng tôi sẽ đưa ông ra toà xét xử.
Tiếp theo, sự hỏi cung tôi cũng chẳng có một quy trình trật tự nào, theo kiểu tiện đâu hỏi đó hay đó là thủ pháp của CA thì tôi cũng không rõ.
VNC: "Tôi đã đọc những bài viết của anh. Anh có nhiều ngoa ngôn lắm".
Đáp: "Xin ông cho dẫn chứng".
VNC: Trong một đoạn bài viết của ông có câu: "Vợ tôi khóc không phải vì cái lý tưởng quái đản này mà vì sợ tôi theo chân anh vào nhà đá". (Câu này trích trong thư riêng của tôi gửi cho Thanh Giang, thư hoàn toàn riêng tư giữa tôi và Thanh Giang. Thanh Giang đưa cho một ông bạn đọc. Rồi chả hiểu từ lúc nào lá thư được vi tính cho nhiều người đọc). Vậy theo ông cái cụm từ "lý tưởng quái đản" đó, ông định nói lên điều gì?
Đáp: Thưa ông, từ lý tưởng chỉ là một danh từ chung, nó chẳng chỉ rõ một vấn đề cụ thể nào. Nó chỉ có ý nghĩa cụ thể khi nó gắn liền với một mục đích nào đó. Ví như: Lý tưởng vì lợi nhuận, vì danh lợi, vì đồng tiền. Còn tôi nói chữ "lý tưởng quái đản" đó theo nghĩa của riêng tôi. Tôi đang ở trong một tổ chức, cùng theo một ý tưởng, một mục đích tốt đẹp, một lý tưởng cao cả. Đang là đồng chí, đồng đội của nhau, chỉ vì tự ái vì nột câu nói hoặc một ứng xử hoặc một phản ánh trung thực dễ bị lãnh đạo bực mình nhưng cũng chỉ có tính chất giữa cá nhân với cá nhân. Thế mà cậy có chút quyền lực cấp phường vu cáo đẩy đồng chí mình về phía đối kháng. Tìm mấy kẻ cò mồi, chân gỗ dưới quyền moi móc chuyện cũ đã qua bốn năm năm "dám đề nghị đổi tên nước, đổi tên Đảng, đổi cờ Đảng". Và trắng trợn đến bẩn thỉu vu cho là "hay bàn chuyện đa nguyên, đa Đảng". Cho nên tôi dùng cụm từ "lý tưởng quái đản" là để chỉ một cái mục đích đẹp đẽ, một "lý tưởng cao cả" lại sản sinh ra lũ quái đản này.
Nhân đây nói ngoài lề về chuyện đề nghị “đổi tên nước, đổi tên Đảng, đổi cờ Đảng” của tôi. Khoảng năm 1995 hay 1996, nhân cuộc hội nghị mở rộng của Đảng bộ Phường tới các bí thư, phó bí thư học tập, thảo luận NQ Đại hội VIII, nhân danh cá nhân đảng viên tôi đề nghị lên Đảng bộ cấp trên và xin bảo lưu ý kiến của mình gồm 3 điều:
- Thứ nhất: Xin đề nghị đổi tên Đảng Cộng Sản Việt Nam trở về tên Đảng Lao Động Việt Nam thân thương vì suốt mấy chục năm nhân dân VN đã chiến đấu và chiến thắng khi chiếc xe tăng húc đổ cổng dinh Độc lập của Nguỵ quyền Sài Gòn, giang sơn thống nhất thu về một mối là dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao Động Việt Nam quang vinh. Cái tên Đảng Lao Động Việt Nam rất thân thương ăn sâu, bám rễ trong lòng nhân dân rồi, trong lòng người lao động rồi.
- Thứ hai: Xin trả lại tên nước "Việt Nam Dân chủ Cộng hoà" vì cái tên thiêng liêng đó do Bác Hồ vĩ đại là người khai sinh, đặt tên cho Nước. Ngày nào chưa thực sự có CNXH thì ngày đó tên Nước vẫn phải là Việt nam Dân chủ Cộng hoà.
- Thứ ba: Giang sơn Việt Nam là hương hoả của tổ tiên ông cha để lại cho con Hồng cháu Lạc, của cả dân tộc, của những thân phận nhỏ bé như: Chị bán rau, anh xe thồ đến các thân phận cao quý như các nhà khoa học, trí thức, các văn nghệ sĩ chứ không phải là của riêng giai cấp Công Nông. Cương lĩnh chính trị của Đảng cũng xác nhận là ĐCSVN là Đảng của toàn dân tộc. Vậy nếu Đảng muốn là Đảng được toàn dân tôn vinh thì trên lá cờ của Đảng phải là biểu trưng của toàn dân tộc, của bốn ngàn năm lịch sử, chứ không thể là mô hình búa liềm của riêng công nông. Và mẫu cờ búa liềm cũng là mẫu cờ ngoại lai của Liên Xô, một đất nước mang lá cờ này đã sụp đổ thảm hại.
Khi hội nghị lấy biểu quyết về 3 vấn đề của tôi thì chỉ có một mình tôi thui thủi giơ tay. Tôi liếc nhìn những ngưòi vừa là đồng chí, vừa là đồng ngũ CCB của tôi, mới cách đây ít hôm khi nhâm nhi bia bọt với nhau đa số gần như tuyệt đối của "tiểu hội nghị bia bọt" đó là đều luyến tiếc cái thời VN dân chủ cộng hoà, cái thời Đảng Lao Động Việt Nam, đều im lặng.
Thế mới biết:
“Trước uy quyền, líu giọng đến lặng câm
Thân ngang dọc đành âm thầm uốn lưỡi...”
Nhưng lúc ấy chẳng cấp nào "buộc tội" tôi cả. Cho đến năm 1999, tôi làm "giấy xin ra Đảng" một phần vì niềm tin, phần khác tôi không đồng tình với cách đối xử với tướng Trần Độ. Thế là họ "cộng" cái tội từ những năm 1995 vào biến người Đảng viên xin ra Đảng thành bị khai trừ khỏi Đảng.
Hỏi: Anh nghĩ gì về những người như: Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Thanh Giang, Phạm Quế Dương... và đánh giá về họ?
Đáp: Hãy để lịch sử đánh giá và phán xét về họ. Còn riêng đối với tôi thì về tuổi tác có người vào bậc cha chú. Về hiểu biết cuộc đời, về trí thức họ bậc thầy của tôi. Về công lao đối với Tổ quốc, họ đều là những bậc công thần xin đừng ai quên điều này. Còn về nhân cách, tôi kính trọng họ.
Trong buổi sáng hỏi cung đó có thể có nhiều điều nữa mà tôi không nhớ hết mà chỉ nhớ một số ý hỏi đáp chính. Buổi chiều vợ tôi được mời đến để chứng kiến việc mở niêm phong những gì đã thu giữ ở nhà tôi trong một cái hộp các tông lớn. Bởi vì buổi chiều hôm trước khi thu giữ tài liệu nghiên cứu lý luận, thư tín và các sách báo tài liệu khác của tôi không thể ghi vào biên bản thu giữ chi tiết được nên CA đã cho tất cả vào hộp các tông niêm phong lại có chữ ký của vợ tôi. Sau khi vợ tôi ký nhận là việc niêm phong còn nguyên vẹn rồi ra về. Xung quanh một cái bàn rất dài kiểu bàn họp hộp các tông được phá niêm phong, tài liệu, sách báo, thư tín, sổ tay kể cả những tấm ảnh chụp với bạn bè được trải ra. Cả buổi chiều hôm đó tôi phải ký và viết đến mỏi tay để xác nhận của tôi. Nhưng rồi cũng không xong, lại phải đóng niêm phong số tài liệu còn lại để ngày mai ký tiếp. Lúc đó là 16 giờ 30 ngày 25-4-2001. Mọi người ra về chỉ còn lại VNC và VL ở lại làm việc tiếp với tôi. Tôi đề nghị với thiếu tá VNC: "Thưa ông, 24 tiếng tạm giữ tôi đã hết. Nếu còn bị giữ tiếp thì xin ông cho xem lệnh mới của VKS thành phố".
Dù biết rằng lời đề nghị đó cũng chỉ bằng thừa, vì chỉ một loáng Trung tá VL đã có lệnh tạm giam 3 ngày của VKS. Tôi ký vào 3 bản đó thì họ đề nghị tôi chuẩn bị đồ đoàn để chuyển đến trại giam trung tâm. Tôi vơ vội cái màn bọc vào cái chăn len vợ tôi mới gửi tối qua rồi ra xe.
Chờ tôi ở cổng là chiếc xe con chở tù chuyên dụng loại nhỏ. Khi tôi lom khom chui vào xe thì đã thấy một bạn tù là một thanh niên chừng 25, 26 tuổi gì đó. Xe chạy trên đường phố quen thuộc mà mới mấy hôm trước tôi cùng bạn bè chơi bóng bàn xong ra ngồi nhâm nhi bia bọt, nói chuyện trên trời, dưới biển đâu có nghĩ tới thân chim lồng, cá chậu thế này. Mải nghĩ mới chừng dăm phút xe đã tới cổng trại giam. Đáng lẽ xe đi thẳng vào trong sân trại nhưng vì vướng mấy bà bàn hàng gồng gánh nên xe đỗ ở ngoài đường. Một thoáng xấu hổ khi chui ra khỏi xe. Ôi. Cái thân trai đã từng "gươm đàn nửa gánh, một thời dọc ngang" mà giờ đây trong cái thân hình còm cõi của một ông già vai đeo một quai ba lô, một tay ôm bọc chăn màn gói vội lôi thôi lếch thếch, mặt mũi hốc hác bước vào lúc này nhỉ?... bọn bạn bè cũ và cả mấy ông già bạn bè mới cũng khó tưởng tượng nổi là Vũ Cao Quận thảm hại thế này. Nếu bạn nào vẽ được tranh biếm hoạ thì cũng được bữa cười nôn ruột, cười ra nước mắt. Khoảng 17 giờ ngày 25-4-2001 tôi công dân Vũ Cao Quận chính thức bị nhà cầm quyền nước CHXHCNVN bắt bỏ tù, một nhà tù thực sự 100%. Còn ngôn từ tạm giam hay tạm giữ chỉ là câu chữ của giấy tờ. Đến hôm nay dù chỉ là những dòng hồi ký, tôi cực lực phản đối việc bắt giữ vì hiến và vi pháp này.
... Qua cổng chính đến một cái sân nhỏ, có lẽ là phòng giam của tù nữ vì tôi thấy mấy cô khoảng 35, 40 tuổi gì đó đang lao động quét dọn, vừa làm vừa chuyện trò, vẫn vô tư, vui vẻ. Nhìn cảnh lạc quan của mấy nữ tù nhân, tuy lạ lẫm bỡ ngỡ nhưng tôi tự thấy hình như họ truyền niềm tin một điều gì tốt đẹp ở cái nơi khốn khổ này cho tôi. Rồi qua một sân lớn có căng lưới bóng chuyền họ dẫn tôi vào một căn phòng hình lục lăng thì phải, vì có nhiều cửa sắt dẫn đến các khu nhà giam. Giữa sàn có kê một cái bàn làm việc dài và ghế băng. Ngồi ở đó có khoảng 5, 6 CA quản giáo cấp Đại uý hay Thiếu tá gì đó, ở cạnh tường tôi đã thấy có một hai tù nhân đã ngồi ở ghế đó, tôi toan ngồi vào nhưng một CA giọng lạnh tanh: "Này, ngồi xuống đất". Tôi vừa căm phẫn, vừa cam phận của một người tù tôi ngồi bệt xuống đất. Ngồi cạnh tôi là một cháu thanh niên mặt mũi sáng sủa. Cháu chủ động hỏi tôi: "Bác bị bắt về tội gì?" Tôi trả lời: "Chính tôi cũng chưa hiểu tôi bị bắt vế tội gì!". Có thể cháu tưởng tôi là một ông già lẩm cẩm nên không hỏi nữa. Chợt một câu nói tưởng như bâng quơ, nhưng đây là một lời dằn mặt hay nhắc khéo của một tù "tự giác" có vẻ là tổ trưởng gì đó nói: "Mẹ kiếp. Vào đến đây mà cứ làm như... lại còn đội mũ...". Tôi chợt nhớ đến "cái mũ vải" lão ông của đời thường tôi đang đội. Nghĩ bụng, ai vào tù bao giờ mà biết vào tù phải bỏ mũ. Tôi vo viên cái mũ đút vào túi quần. Chưa yên, trong khi chờ bàn giao tôi cho trại giam, mấy cặp mắt quản giáo trừng trừng nhìn tôi như nhìn một con vật lạ. Quả có thế, những lão già có tuổi gần 70 như tôi sa chân vào đây không nhiều. Một CA có bộ mặt to béo đỏ hồng như tây hỏi dật giọng: "Này. Dắt gái hay ma tuý hả?" Tôi nhẫn nhục không trả lời. Nhưng lại một tiếng vu vơ khác, lần này từ miệng một Thiếu tá CA mang phù hiệu quân y (chắc là bác sĩ): "Già rồi mà còn chống Đảng". Có lẽ bị sự kìm nén về "môi trường" và thái độ khinh bạc, tôi phản ứng ngay: "Này. Anh biết gì về tôi mà chống Đảng với không chống Đảng". Một giọng đáp lại ngay: "Im cái mồm, vào đây đừng có lý sự.", ở chốn tù đầy này lời nói đầy quyền lực ấy là một chân lý, trước "dùi cui" đừng có lý sự. Tôi "tiếp thu" và câm miệng ngay.
Bàn giao xong, họ ra lệnh khám xét tư trang. Trên nền đất bẩn thỉu, họ bắt tôi lôi quần áo từ ba lô ra và cả chăn màn, họ sai cái cậu tù có vẻ tổ trưởng tới lộn tùng phèo đồ đoàn của tôi. Họ thu lại cái bàn chải, hộp sữa bột vợ tôi mới gửi có vỏ bằng sắt. May mà có cái kinh và mấy trăm ngàn nhờ VL chuyển giúp cho vợ tôi. Nhưng chưa xong... tay Thiếu tá bác sĩ gọi tôi lại gần bàn đo huyết áp cho tôi. Khi tôi vén tay áo thì lộ ra cái đồng hồ nữ tí síu của con gái tôi, họ nói: "Ồ. Lại hãy còn định dấu đồng hồ hả". Nghĩ bụng thân còn chẳng tiếc, tiếc gì cái đồng hồ. Đã bao giờ vào tù đâu mà biết đồng hồ tí síu mà cũng bị thu, ừ nộp thì nộp. Họ lập biên bản thu giữ cái đồng hồ, nhưng hôm được trả tự do tôi cũng chẳng đòi lại. (khoảng 6 tháng sau, khi trung tá P biết việc này anh đã nhiệt tình lên tận trại giam nhận lại đồng hồ trao cho tôi). Mọi thủ tục đã xong, một Đại uý to béo như tây hất hàm ra lệnh cho tôi theo anh ta. Qua hai lần cửa sắt, tôi đến khu buồng giam mà hôm sau tôi mới biết tên nó. Đó là khu G. Tôi được dẫn vào phòng G1 được đề biển bên ngoài là "Phòng tạm giam". Qua cánh cửa sắt vào phòng tạm giam là một cái sân nhỏ chừng 10m2 có xây một bể nước chứa khoảng gần khối nước và một cái chạn để thức ăn và bát đũa cho tù nhân. Khi cửa buồng giam được mở, tôi bước vào đã thấy có hai bạn tù đã ở trong đó. Họ thu dọn và chỉ chỗ nằm cho tôi. Đây là một căn phòng có diện tích khoảng 12m2, chỗ ở là 9m2 còn lại là nhà vệ sinh và chỗ tắm. Nhưng trước khi tả về chi tiết căn phòng thì cái cùm chân bằng sắt đen xì nằm ở góc phòng làm tôi vừa ghê sợ lẫn ghê tởm vì nếu không "may mắn" được ở trong nhà tù của chế độ XHCN tốt đẹp và nhân đạo thì sao thấy được sự hiện hữu của nó ở đây. Vì có giàu trí tưởng tượng thì cũng tưởng nó phải ở những căn hầm xà lim cầm cố hoặc những chuồng cọp của Mỹ-Nguỵ ở mãi tận ngoài Côn Đảo tít mù khơi. Và nhất là nó có mặt ngay ở cái phòng tạm giam này thì sự vô nhân đạo, vi hiến, vi pháp luật nhân lên gấp trăm lần.
Sau khi xếp cái ba lô lên giá, tôi trải chiếc chăn len thay cho chiếu chuẩn bị chỗ ngủ xong tôi mới quay sang làm quen với 2 ông bạn tù và quan sát buồng giam kỹ hơn. Tr.T là giám đốc một công ty TNHH sản xuất bao bì, 65 tuổi với án 15 năm tù vì làm thất thoát hơn 2 tỷ đồng, ông đã ngồi tù được 5 năm rồi, có nghĩa là ông ngồi tù vào cái tuổi 60, cái tuổi: Lục thập nhi nhĩ thuận. Cái tuổi điều gì nghĩ cũng thuận tai, bon chen làm gì để đến nỗi thế này. Người thứ hai là M, một chủ hãng Karoke có hạng ở KA, 59 tuổi với án 10 năm tù mới thụ án được 8 tháng và chuẩn bị đi trại xa. Tr T là người sởi lởi hay nói chuyện chủ yếu là dốc bầu tâm sự. Tôi không quan tâm đến tội trạng của ông nhưng ông là người tốt đối với tôi, dù tôi chả là gì đối với ông nhưng những ngày sau ông là người săn sóc lo miếng ăn cho dễ ăn đối với tôi trong hoàn cảnh đạm bạc của nhà tù. M trầm lặng, ít lời như luôn cảnh giác một điều gì.
Chỗ nằm của tù nhân, thay cho giường 2 tầng là tầng trệt là sàn cao hơn đường đi chừng 10 cm. Tầng 2 là sàn đúc bê tông cách tầng trệt 1 mét. Cả hai mặt sàn nằm đều lát đá hoa. Nhà vệ sinh và chỗ tắm ốp gạch men trắng. Hố vệ sinh tự hoại, nói chung buồng G1 kể cả cái sân nhỏ là một căn nhà nhỏ lý tưởng cho một cặp vợ chồng trẻ nghèo ở đời thường. Tất nhiên là không có cái sàn bê tông tầng 2. Căn buồng ngủ rất sạch sẽ, liền kề là nhà vệ sinh cũng rất sạch sẽ. Không mạng nhện, không thạch sùng, không muỗi, kiến, cho nên đồ tiếp tế cho tù nhân như: Thịt kho, gà luộc, ngan rán... ăn không hết bảo quản để trên giá ba lô có quạt trần quạt 24/24 không kém gì để ở tủ lạnh. Cũng cần nói thêm là không có chuột và gián, nếu ở nhà như nhà tôi thì sự sạch sẽ còn thua căn buồng tù tôi đang ở. Trên góc cao gần sát trần có cái giá để một cái tivi 14 inch Sanyơ. Ti vi được mở từ 18 giờ đến 22 giờ 30. Chủ nhật mở cả ngày. Sở dĩ tôi kể tỷ mỷ sự tốt đẹp, nhân đạp của một buồng tù XHCN như một bát cơm gạo trắng rất ngon tương phản với con gián chết nằm chềnh ềnh trên bát cơm là cái cùm chân ở góc tường trệt. Chưa lúc nào tôi cảm nhận thấy hết cái hay, cái thâm thuý về thuyết "cái gậy và củ cà rốt" len lỏi vào tận chốn ngục trung này.
Vì họ chuyển tôi từ phòng tạm giữ ở số 14 Lê Quýnh lên trại tạm giam trung tâm (từng có tên cũ là trại giam Trần Phú) nên khi vợ tôi lên đưa cơm thì tôi đã bị chuyển đi rồi. Do đó chiều hôm đó tôi không có xuất ăn. Dù rằng trước đó hai bữa tôi chỉ ăn qua loa chút phở và cháo, nhưng ở tuổi tôi, tôi có thể nhịn thêm bữa trưa mai cũng được. Trong khi hai ông bạn tù đang mê mải xem ti vi tôi lặng lẽ mắc màn đi nằm thì Tr T kêu lên: "Ôi. Suýt quên. Nhân có ông Quận mới đến không có cơm chiều, hôm nay ngoài cơm có bữa chè tù. Tr T lôi từ tầng trệt lên một cái xô nhựa đỏ có nắp đậy và một cái cặp lồng nhựa cũng màu đỏ, vừa đặt lên sàn ngủ ông vừa nói như vừa giải thích cho bạn tù mới: ở nhà tù mỗi tháng được ăn hai bữa chè, hai bữa thịt, hai bữa cá. Hôm nay chè nhiều nên tôi múc một xô và một cặp lồng, các ông ăn tự nhiên, bỏ thì phí lắm. Khi mở nắp xô và cặp lồng, tôi có cảm tưởng phải mười đến mười hai người mới ăn hết chỗ chè đó. Ông múc ra hai cái bát nhựa mỏng, bé tí như bát cho các cháu mẫu giáo ăn vì trong tù không được dùng bất cứ thứ gì cứng. Ông mời tôi và M ăn. Tôi ở nhà vốn khoảnh ăn chè, nhất là chè "bà cốt" tôi lại càng không ăn nên toan cảm ơn và từ chối thì ông lại nói: "Ông ăn đi một tí mà lấy sức".. Nể lời ông, tôi cầm bát múc ăn. Ông nhường tôi cái bát và thìa của ông cho tôi, còn ông ăn bằng cái muôi nhựa to và ăn luôn vào cặp lồng.
Miếng ăn được hưởng cái "ân huệ" đầu tiên của nhà tù là miếng chè tù tôi đang nhai và nuốt trong mồm. Định nghĩa cho đúng từ "chè" là món cháo gạo tẻ nấu thật nhuyễn với đường vàn có thoang thoảng mùi gừng. Tuy không muốn ăn và bụng cũng khống thấy đói nhưng thật thú vị càng ăn càng thấy ngon nên khi ông múc cho bát thứ hai tôi cũng ăn hết. Tóm lại ngon thì ngon, ba chúng tôi cũng chỉ ăn hết chừng hai phần mười số chè. Tr T cẩn thận đậy nặp xô lại cất xuống tầng trệt nói là để mai nếu không bị thiu thì vẫn ăn tốt. Tôi chợt nhớ tới "Đêm Giữa Ban Ngày" hoặc "Chuyện Kể Năm 2000" phải sống trong cái vai kịch bi thảm ấy thì con người sẽ ăn được bất cứ thứ gì miễn là sống, ăn những của thiu thối vất trong nước gạo của nhà tù. Mà cũng khó tưởng tượng nổi là con ngưòi biến thành con thú từ lúc nào mà chỉ dùng hai hàm răng mà ăn ngấu nghiến hết mười quả dứa còn cả vỏ. Chỉ nguyên nói về miếng ăn thì tôi "một tù nhân" ngây ngô, ngốc ngếch này chắc phải học hỏi các bậc đàn anh tù tội còn dài dài như: Trần Thư, Vũ Thư Hiên, Phùng Văn Mỹ, Bùi Ngọc Tấn... hoặc các bậc sư tổ về tù tội như: Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh, Viện trưởng Viện Mac-Lênin Hoàng Minh Chính... để chuẩn bị tinh thần cho chuỗi ngày tù không định sắp tới.
Tuy nhiên suy nghĩ cũng chỉ là suy nghĩ, vì thời kỳ "trung cổ Việt Nam" của hai bạo chúa họ Lê cũng qua rồi và bước tời thời kỳ hy vọng đất nước Việt Nam sẽ tươi sáng hơn, sẽ tự do dân chủ hơn, sẽ nhân hậu thương dân hơn dưới sự trị quốc, an dân của "minh quân" Nông Đức Mạnh mới lên ngôi cách đây 3 ngày. Lòng thanh thản tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết nữa.
Khoảng 8 giờ sáng, tiếng lách cách mở khoá các buồng tù vang lên rộn rã. Các tù "tự giác" được tự do đi lại mở khoá các buồng giam, gánh cơm nước uống phân chia cho các buồng. Cả ba chúng tôi đã thức dậy từ lúc 6 giờ, cả trại tưởng chừng như còn im lìm trong giấc ngủ. Nhưng không... các buồng giam như nhau đều đã dậy tự lúc 5, 6 giờ, không tiếp tục ngủ thì nằm tán gẫu cho đến giờ mở khoá. Tôi là lính mới ra xách nước từ bể nước chứa vào cái thùng nhựa màu xanh lá cây chừng 100 lít để đánh răng, rửa mặt và bể nhỏ chứa nước cho nhà vệ sinh. M quét sân rải đầy những hoa bàng li ti, sau đó anh ta múc nước ùm ùm để tắm. Qua cơn mưa đêm trời se se lạnh, tôi nhìn M tắm mà rùng mình. Tr T đi đổ rác và lấy cơm nước. Ngoài cơm còn có một âu cháo sáng và một bát nhựa to đựng rau muống luộc. Không thấy có thức ăn, có lẽ tù nhân sống dựa vào đồ ăn của người nhà tiếp tế là chính.
Tr T đã kiếm được cho tôi một cái bát nhựa và cái thìa cùng một cái bàn chải đánh răng tuy cũ nhưng còn khá tốt. Bàn chải răng trong tù đều bị bẻ cụt cán. Nghĩ đánh răng bằng một cái bàn chải răng đã cũ, nhất là bàn chải của một người tù khác, tự nhiên thấy ghê ghê nhưng để Tr T vui tôi dùng nó đánh răng luôn. Sau đó Tr T dục tôi ăn cháo kẻo đi "cung" không kịp ăn. Đúng vậy, tôi vừa mới húp được hai thìa cháo thì có tiếng gọi chõ vào: G1 đi cung, ở đây tù nhân đã thành án cả rồi nên chỉ có tôi. Tr T nói vọng ra: Chờ một chút để ông ấy ăn nốt bát cháo xong đã.
- Mẹ kiếp, vào tù rồi mà còn đủng đỉnh. Một tù "tự giác" từ ngoài nói chõ vào. Đang ăn dở, tôi đổ bát cháo xuống cống rồi đi ra. Vẫn viên Đại uý CA to như tây, mặt đỏ lạnh lùng hất hàm ra hiệu cho tôi đi theo. VL đã chờ tôi ở cái buồng lục lăng hôm trước và dẫn tôi tới một căn phòng làm việc có biển đề: Phòng hỏi cung người nước ngoài. Phỏng nhỏ chừng 12 m2 có kê một cái bàn gỗ nhỏ cùng vài cái ghế tựa bằng nhựa. Cạnh đó là một tủ đựng hồ sơ thường thấy và có một cái rèm vải che ngăn căn phòng với cái giường ngủ bên trong.
Vì còn phải chờ nhân viên Camera nên VL pha trà mời tôi uống và chuyện vãn vài câu. Vẫn nụ cười mỉm khó hiểu, VL hỏi tôi: "Đêm qua bác có ngủ được không?". Tôi đáp: "Xin cảm ơn ông, tôi ngủ cũng đường được".
Nhưng rồi Trung tá Th tới ôm theo cái hộp các tông niêm phong tài liệu mà tôi chưa kịp ký hết. Thế là cả buổi sáng hôm đó tôi chỉ có việc ký xác nhận tài liệu đã thu giữ tại nhà tôi. Khoảng gần 12 giờ tôi mới ký hết, tôi nhớ mang máng là khoảng hơn "bốn trăm tài liệu". Cũng cần phải nói rõ hơn "bốn trăm tài liệu" này.
Nghĩ cũng hay, cả một bộ máy cầm quyền đồ sộ với hàng triệu lưỡi lê bảo vệ mà sợ đủ thứ, sợ cả cái không đáng sợ. Có đến gần bốn trăm "đầu tài liệu" là những bài viết từ một đến hai trang nói toàn những điều vô hại như: Về dùng ngoại cảm tìm mộ của nguyên bí thư TU Đảng Nguyễn Thọ Chân, của nguyên phó thủ tướng giáo sư Trần Phương, của Trung tướng nguyên phó chủ tịch QH, nguyên uỷ viên TU Đảng Trần Độ. Những bài tản văn khôi hai của Giả Bình Ao, bài nói về Thiền và những bài vô thưởng, vô phạt... kể cả bài diễn văn hay nhất thế kỷ của một luật sư Mỹ nói về một con chó cùng cuốn số tay thơ của tôi, vài bài thơ gửi cho "Cô gái Nga An-BiNa" bán bia hơi ở Cẩm Phả cùng tấm ảnh tôi chụp chung với vợ chồng cô cũng bị tịch thu, nghĩa là thu "tất tần tất, tuốt tuồn tuột" dù những trang giấy ấy, những tấm ảnh bè bạn ấy chẳng có tội tình gì hoặc là chứng cứ của vụ án.
Còn những tài liệu bị coi như những tài liệu "xâú" thì toàn là những bài viết đầy trí tuệ của: Hoàng Hữu Nhân, Nguyễn Văn Đào, Trần Độ, Phan Đình Diệu, Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang, Phạm Ngọc Uyển, Dương Thu Hương, Trần Khuê, và Nguyễn thị Thanh Xuân, Trần Bá, Lê Chí Quang, Nguyễn Vũ Bình. Trần Dũng Tiến... kể cả bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên UV BCT Nguyễn Đức Tâm, của 3 ông tướng: Thượng tướng Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo, và trung tướng Lê Tự Đồng... Đúng như La Rochefou Cauld đã nói: "Những kẻ trí tuệ tầm thường hay lên án những gì vượt quá tầm hiểu biết của họ".
Thậm chí cái máy chữ, một vật dùng tầm thường của thế giới văn minh thay cho một cái bút bi cũng bị tịch thu. Thế rồi từ đó loan truyền đi là thu giữ quả tang của Vũ Cao Quận hàng chục kilô tài liệu, truyền đơn trên đường 5 và hàng mấy bao tải tài liệu tàng trữ tại gia đình. Những người tử tế thì bán tín, bán nghi. Còn những "kẻ quáng gà, nghe hơi nồi chõ" thì tung tin vịt nghe mà phát khiếp.
Buổi chiều ngày 26-4-2001 mới chính thức bước vào các buổi hỏi cung thực sự do Thiếu tá VNC cùng Trung tá VL và P Th trực tiếp làm việc. Lại hỏi và lại đáp.
Hỏi: Anh có nhận là những tài liệu có nội dung xấu chúng tôi thu được của anh và khám xét thu được tại nhà anh có phải là của anh không?
Đáp: Vâng, tôi nhận là những tài liệu đó là của tôi, nhưng gọi là tài liệu có nội dung xấu thì hoàn toàn không đúng.
Hỏi: Sao lại không đúng? Những tài liệu đó hoàn toàn mang những nội dung xấu chống Đảng, chống Nhà nước...
Và họ đem theo quyển luật (cho đến bây giờ tôi cũng chẳng biết tên đầu đề của quyển sách luật đó) và đọc cho tôi nghe và kết luận đại khái là tôi phạm tội: Lưu trữ, tàng trữ các tài liệu có nội dung xấu chống Đảng, chống Nhà nước XHCN... phạm vào điều 88 của Bộ luật, có thể bị phạt tù từ 8 đến 15 năm.
Đáp: Những việc làm của tôi là hoàn toàn đúng với tinh thần và nội dung của điều 69 của Hiến pháp năm 1992: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình... và điều 19 về Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (Convention internationale des droits civils et politiques) mà Chính phủ VN đã tham gia ký kết ngày 24-9-1982 với nội dung: "Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào. Mỗi người đều có quyên tự do ngôn luận: quyền này bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền đạt mọi tin tức, ý tưởng, không phân biệt ranh giới hoặc bằng lời nói, hoặc bằng bản viết, bản tin...". Để phân biệt đúng, sai tôi cần được đưa các tài liệu ra trước toà án xét xử. Và chỉ khi nào có sự phán quyết của toà án thì lúc ấy tôi mới thực sự là có tội hay không có tội.
Hỏi: Như vậy nên anh cũng tham gia viết nhiều bài có nội dung xấu và tán phát để kẻ địch ở nước ngoaì cũng lợi dụng để nói xấu ta?
Đáp: Đúng tôi có viết một tác phẩm "Gửi Lại Trước Khi Về Cõi". Nói là tác phẩm cho nó oai, chứ tôi là một người lính chưa cầm bút viết bao giờ. Tôi chỉ viết sự suy nghĩ của tôi rồi in thành sách gửi bạn bè đọc cho vui thôi. Còn tôi chả có liên quan gì với nước ngoài cả.
Một trong 3 người chìa ra trước mặt tôi một tờ báo nước ngoài đã qua photocopi có đăng bài viết của tôi có nội dung: "Những suy nghĩ hướng về đại hội Đảng CSVN" và nói: "Đây là một bằng chứng về một trong những bài viết của anh dăng trên một tờ báo nước ngoài".
Đáp: Đúng đây là bài viết của tôi và nơi gửi là Văn phòng Bộ Chính trị.
Hỏi: Thế thì anh trả lời chúng tôi vì sao nó lại được đăng trên tờ báo nước ngoài?
Đáp: Tôi không hề có dây mơ, rễ má với báo chí nước ngoài.
Hỏi: Vậy anh còn gửi đi cho những ai?
Đáp: Có chứ, tôi gửi cho nhiều bạn bè để cùng chia sẻ sự suy nghĩ cùng với tôi. Thiết nghĩ việc này là hết sức bình thường. Còn vì sao nó lại có mặt ở nước ngoài thì chính tôi cũng đang tự hỏi tôi...
Ngoài sân tiếng hò la vui vẻ của mấy anh lính trẻ bảo vệ trại giam, lúc đó đã là 4 giờ 30 chiều. Quả bóng chuyền bay qua lại, thậm chí có những cú đập bóng bay thẳng vào chỗ tôi ngồi. Nhưng việc hỏi cung vẫn chưa chấm dứt, trong căn phòng nhỏ vẫn hỏi, vẫn đáp. Rồi giờ nghỉ cũng đã tới. Làm nốt cái thủ tục không thể thiếu sau mỗi buổi hỏi cung là nghe đọc lại biên bản và ký nhận. Trung tá VL mang tôi tới phòng trực của quản giáo và bàn giao. Viên đại uý trực khác với bộ mặt hiền lảnh ra hiệu cho tôi đi về buồng giam. Khi đi qua sân anh nói nhỏ với giọng vui vẻ, thân mật: Bố già ơi. Làm chính trị làm gì cho khổ thân già. Thôi mong bố cố gắng ra khỏi đây cho sớm về sống với "bà bu" ở nhà, sống vui vẻ cùng con cháu. Đây là tiếng nói thành thực của một con người đối với một con người, của một người lớp trẻ thương hại một ông già ở chốn lao tù. Giọng của anh ta không phải là giọng "chiến tranh tâm lý" vả lại anh ta chỉ là một quản giáo, câu nói của anh ta không thuộc về câu nói "nghiệp vụ". Tôi chỉ kịp cảm ơn về lời nói tốt đẹp của anh ta ở chốn bốn bề vây hãm này thì cánh cổng sắt đã sập và khoá lại.
Tr T và M đã ngồi chờ tôi về ăn cơm chiều bên cái mâm trải bằng một tờ báo có bày biện thức ăn khá thịnh soạn: một đĩa nhựa để lẫn thịt gà luộc và thịt ngan rán, một bát nhựa thịt lợn ba chỉ kho, một gói ruốc trong túi ni lon và một lọ nhựa muối vừng. Ngoài ra còn một âu canh nhựa bốc khói, đó là một món canh mà ở đời thường khó có. Tr T tươi cười giới thiệu: "Để giúp ông dễ ăn, tôi nhặt mấy chục sợi rau muống luộc ban sáng, lên xin "thầy" (ý chỉ quản giáo) ít nước sôi thả vào gói mì ăn liền và gia giảm chút mì chính..." Tôi chỉ còn biết nói: "Cám ơn các bác quá, sao các bác không ăn cơm trước mà đợi tôi làm gì cho nguội cơm". Vốn trầm lặng và ít nói, lúc đó M mới đủng đỉnh: "Có 3 anh em chờ nhau một chút, ăn trước sao đành".
Thế là 3 chúng tôi sì sụp ăn ăn, húp húp. Tự nhiên nước mắt tôi ứa ra... Ôi, cũng có những miếng ăn "quá khẩu thành tàn" mà sao miếng ăn của tôi giữa những người bạn tù sao mà thiêng liêng thế, sao mà dữ dội thế. Cuộc sống trong tù vốn đạm bạc, thiếu thốn họ có chút ít đồ tiếp tế của gia đình đem đãi tôi cũng chỉ là bạn tù như họ, không phải họ hàng thân thích, cũng chẳng phải bạn bè. Một miếng ăn vô tư, một miếng ăn không cần trả nghĩa, mà khốn nạn thân tôi cũng chỉ là người tù như họ, tôi lấy gì mà trả nghĩa...
Ăn cơm xong, chuyện vãn một chút thì trời đã chuyển tối dần. Tr T kiếm được chút nước sôi pha một bát nhựa trà Thái Nguyên, ngồi nhâm nhi mỗi người một cái bánh trứng.
Cuộc sống trong tù thật là sang.
Chiếc ti vi ở góc phòng bắt đầu hoạt động. Tr T và M theo dõi Tivi, còn tôi chuẩn bị mắc màn đi nằm. Khi mới móc được đầu dây màn, tôi mới chợt nhớ Tr T và M không có màn và không mắc màn. Tự nhiên tôi thấy xấu hổ quá, tôi vô tâm quá. Cũng may buồng tù rất sạch, quạt trần mở suốt ngày đêm nên không có muỗi. Nhưng giả thử nếu có nhiều muỗi đi nữa, tôi nỡ nằm màn để muỗi đốt hai người bạn tôi sao. Tôi cuộn màn lại và lặng lẽ nằm xuống với bao ý nghĩ miên man. Tôi hoàn toàn không lo gì thân tôi nữa, nhưng chắc giờ đây vợ tôi và các con tôi ở ngoài kia lo lắng cho tôi biết chừng nào.
Sau này khi được trả tự do tôi mới biết những người bạn già tuyệt vời và thông minh của tôi. Thanh Giang đã dự đoán trước những gì CA sẽ hỏi tôi, anh đã gọi điện thoại cho vợ tôi và dặn: "Chị sẽ đến khai báo với CA là tất cả những tài liệu của Vũ Cao Quận có là do Thanh Giang đưa và những bài viết của Cao Quận đăng ở báo nước ngoài là do Thanh Giang đưa ra. Nếu cần CA đến hỏi thì Thanh Giang sẽ trả lời".
Suy nghĩ một lúc rồi tôi thiếp đi. Nửa đêm chợt tỉnh giấc vì thấy lạnh. Thì ra trời bắt đầu, tiếng giọt mưa gõ trên nóc nhà giam. Nằm nghe tiếng mưa rơi tôi thức luôn đến sáng. Cạnh tôi, Tr T và M vẫn ngáy nhẹ, đều đều. Cũng may cả 3 chúng tôi không anh nào biết "kéo xe bò" cả. Nằm mãi rồi cũng sáng. Sáng ở trong tù muộn hơn ngoài đời chừng 2 tiếng, vì như thường lệ 8 giờ sáng mới bắt đầu mở cửa các phòng giam.
Hôm nay đã là sáng 27-4-2001. Lại dọn vệ sinh, lại ăn cháo sáng rồi lại đi cung. VL đã đón tôi ở phòng trực và dẫn tôi vào phòng hỏi cung hôm trước. Thiếu tá VNC đã có mặt ở đó chờ tôi. Anh pha trà mời tôi uống. Trong khi chờ đợi nhân viên quay camera đến, chúng tôi có dăm ba phút chuyện vãn với nhau. VNC hỏi thăm tình hình sức khoẻ của tôi, hỏi qua loa về hoàn cảnh gia đình tôi, một không khí thân tình, bình dị ít ai nghĩ là chỉ giây lát nữa thôi lại là một cuộc đấu trí giữa người đại diện cho bộ máy chuyên chính vớ