← Quay lại trang sách

PHẦN V

Gần năm năm rồi, ông Đạo Hải đổi lên tỉnh K. So sánh bây giờ với ngày ấy, tỉnh K thật khác hẳn. Nếu ai biết tỉnh K. cách đây năm năm về trước, giờ nhìn lại chắc sẽ ngờ rằng đấy là hai tỉnh khác nhau. Mặc dầu vẫn còn chú Quày bán hàng tạp hóa, nhưng cửa hàng được mở mang rộng rãi lịch sự hơn, bán thêm nhiều thứ hàng văn minh như rượu chát đỏ, bơ mặn, sữa hộp, cá mòi hộp v.v… không phải chỉ gạo, muối, với xà phòng như ngày trước. Vẫn còn ông Phán Dậu với cái búi tóc tuy bé hơn và bạc trắng hơn năm năm trước, nhưng rạp hát của ông ngày nay rộng rãi. Đào kép từ Huế, từ Qui Nhơn lên diễn tuồng Tàu với những bộ áo quần hia mão rực rỡ, chứ không phải chỉ những gánh hát hạng bét, quần áo mua lại của đoàn hát khác thải ra cũ xì, đào kép toàn giọng ca thiếu thuốc phiện với thiếu cơm ăn. Giá vé lên đến mươi lăm xu, những tuồng hay còn phải trả mười bảy xu như tuồng Xử Án Bàng Quí Phi, mà đêm nào cũng chật rạp. Phải thuê những ba cái xe kéo đi quảng cáo suốt buổi chiều.

Tỉnh K. ngày nay vui như thế, người lên hết muốn về, mỗi năm ông Đạo còn tổ chức những cuộc thi hoa, xem nhà ai trồng được hoa đẹp, hoa lớn. Hết thi hoa đến thi rau cải để khuyến khích cho nghề trồng tỉa ở trong tỉnh. Mỗi kỳ thi, quả thật là mọi người đều vui, cả người đi xem lẫn người đi dự thi.

Bệnh sốt rét, báng nước cũng bớt nhiều nếu mọi người đều biết chịu khó tiêm và uống thuốc đều, cùng tránh ăn các thứ quả sống.

Ngày mới lên, bà Đạo và các con thường bị mọi người hành hạ bằng cách nghe kể chuyện Mọi thư với chuyện Ma. Nào Mọi thư chuột chạy vào trong người, có khi không phải chuột mà là đá từng cục, ai buôn bán với người Thượng mà ăn ở không lương thiện thì bị họ thư như thế, về là chết luôn.

Hết chuyện Mọi thư thì quay sang chuyện ma, nào là sau giọt nước có con ma thắt cổ, đêm nào cũng về thắt cổ trên một chiếc lá để dọa người. Chỉ có ma mới thắt cổ treo trên chiếc lá vì ma là khí, ma nhẹ hơn lá lá mới chịu nổi, chứ người sống thì chỉ sờ đến là lá rơi ngay. Sau ma thắt cổ còn con ma lè, con ma lè thấy ai đi đằng xa thì đằng này thè cái lưỡi xanh lè ra dọa, người sợ bỏ chạy, nhưng ma chạy nhanh hơn, đến một chỗ khác ma hóa làm người hỏi:

– Anh chạy đi đâu mà vội vàng thế?

– Tôi bị ma đuổi.

– Thế à anh, thế ma hình dáng nó ra sao?

– Nó là con ma lè.

– Ma lè ra sao, có phải nó lè lưỡi như thế này không anh?

Nói xong con ma thè lưỡi ra, cái lưỡi cũng xanh lè dài thòn thọt giống hệt như con ma ban nãy. Lúc này người đó mới biết là mình vẫn lại gặp ma và quay đầu chạy văng mạng.

Những câu chuyện được kể đi kể lại làm lũ trẻ rùng mình, nhưng câu chuyện làm cho chúng nó sợ nhất là chuyện bà Bạch. Gọi bà Bạch vì bà là một con ma chỉ mặc toàn quần áo trắng, mái tóc xõa dài, đêm đêm hiện về đi qua đi lại dưới công đường chỗ ông Đạo làm việc. Người ta bảo đấy là một oan hồn vì bị xử hiếp chết oan, nên hồn vẫn cứ hiện về.

Hỏi mọi người kỹ thêm một tí nữa về bà Bạch thì chẳng ai biết hơn, nhưng ai cũng bảo có thấy, hẳn tất cả đều do trí tưởng tượng của họ mà ra.

Những câu chuyện mà báo hại mấy đứa con gái bà Đạo đêm về nếu không lo xuống nhà rửa ráy chân tay sớm, để khi tối đổ xuống là nhất định chẳng đứa nào dám đi một mình. Tệ nhất là con bé Trúc, chuyên môn bị đòn vì tội đái dầm trên giường chỉ vì quá sợ ma, lý do rất giản dị mà chẳng ai tìm ra. Trí tưởng tượng của lũ trẻ quá mạnh, sợ, mà nghe chuyện ma vẫn thích, còn bắt kể thêm.

Hết ma Việt Nam có ma Mọi, vì tất cả nhà cửa công thự gì cũng đều xây trên mồ mả của Mọi, nên đêm nào ma cũng về đội nhà lên cao, có khi còn nghe tiếng đập phá chén bát vỡ loảng xoảng. Nhưng ngày mai nhìn lại, chén bát vẫn nguyên trong tủ, ngay lúc ấy chẳng ai đủ can đảm để dám chạy ra xem ma Việt Nam và ma Mọi khác nhau như thế nào.

Bà Đạo chỉ là đàn bà, cũng giàu trí tưởng tượng và yếu đuối như mọi người nên rất dễ tin và dễ chán nản. Đã mấy lần bà có ý định bỏ hết tất cả mọi thứ, mang các con về quê hương xứ sở, nhưng nghĩ lại bà không dám, sợ cản trở bước đường công danh của chồng.

Từ khi có ngôi chùa và nhìn lũ con đứa nào cũng hợp khí hậu, tất cả đều ăn chơi mạnh khỏe, đã giúp bà khuây khỏa dần. Chính ngay hai vợ chồng, ông Đạo và bà cũng béo ra, dáng dấp bệ vệ của một bậc mệnh phụ phu nhân bắt đầu xuất hiện trên nét mặt lẫn thân hình.

Mặc dầu bận việc, người mẹ vẫn để thì giờ theo dõi các con.

Thằng con trai lớn là Sơn tính nóng như ông tướng Tàu thời Tam quốc, cả nhà mệnh danh là Trương Phi ngồi trên lửa. Hẳn nó thừa tự được cái tính nóng như lửa của cha, trong nhà đối với các em nó nghiêm nghị, đứa nào cũng phải tuân theo răm rắp, nếu không tuân tức thì sẽ có vài cái tát vào mặt. Sơn rất thông minh, học đâu hiểu đó, tuy kém chú Út, không trắng trẻo bằng em nhưng lại hay đùa, luôn luôn có những câu pha trò dí dỏm để trêu chọc mọi người. Chẳng ai có thể nhịn cười khi bị Sơn trêu.

Tính Sơn lại rất tò mò, cái gì cũng muốn tìm hiểu, từng ấy tuổi mà đã dám tháo cả đồng hồ, máy chữ ra xem bên trong rồi lắp lại. Mới đầu thấy tính Sơn nóng, ông Đạo nghĩ bụng sẽ cho nó đi theo ngành quân sự. Nghề ấy tha hồ điều binh khiển tướng, nhưng càng ngày Sơn càng tỏ thêm nhiều ý thích hỗn hợp khác, Sơn rất nghệ sĩ, có thể ngồi cả ngày bên cái máy hát để nghe những bản nhạc nó thích, ngoài ra lại còn muốn nghiên cứu về các thứ máy móc. Cái gì cũng đặt câu hỏi bắt bố trả lời, lắm khi ông Đạo phải đọc vội vàng tờ giấy chỉ dẫn trong một cuộn phim, cái máy ảnh, sợ con hỏi mà không biết để trả lời ngay.

Thi xong bằng tiểu học, vì tỉnh nhỏ thiếu trường nên Sơn được mẹ đưa về Huế, về lại Kỳ Ngộ Trang để theo ban trung học.

Từ khi Sơn đi, ông Đạo bớt phải vất vả, vì mấy đứa trẻ khác ít tò mò hoặc chưa đủ trí hiểu biết bằng anh.

– Anh Sơn đi thì tau chừ là sếp nghe tụi bây.

Đó là câu nói của Mai khi biết tin anh sắp về Huế học đến nghỉ hè mới trở lại. Mới mười một tuổi, Mai đã có dáng dấp của người chị cả trong gia đình. Mai biết thay mẹ dòm ngó tất cả mọi người, coi sóc nhà cửa, những người ăn người làm trong nhà ai cũng phải ngán chị Mai. Con bé biết nhận xét và có gì là lên lon ton mách mẹ liền. Mai giữ chức mật thám, gián điệp trong gia đình đối với cha mẹ. Ngoài tính ấy, Mai còn thêm cái trí nhớ như ghi như khắc. Cái gì nó đọc qua là thuộc ngay, việc gì hôm nay thì cách đến mấy tháng sau nó còn kể lại vanh vách. Mỗi lần ông Đạo làm xong bài thơ mà không chép là phải đọc cho nó nghe liền, nếu không thì nhất định sẽ quên. Đọc cho con bé rồi thì chắc ăn. Khi muốn tìm lại vài câu thơ xưa cũng không phải đi lục sách vở làm gì cho mất công. Chỉ việc hỏi ngay con gái:

– Mai ơi, bài thơ cậu viết năm ngoái đêm mưa dầm, câu thứ hai thứ ba là răng con nhớ không?

Nghe cha hỏi, con bé nhoẻn miệng cười kiêu hãnh, làm bộ ầm ừ một lúc cho có vẻ quan trọng chứ thật ra nó đã nhớ rồi. Chỉ cần nhắc cho nó một điểm gì vì nó thuộc quá nhiều, chẳng hạn ông Đạo nhắc nó cái đêm mưa dầm, thế là đủ. Con bé vanh vách đọc:

“Rài rạc đêm ngày nghe tiếng mưa,

Chuyện đời quanh quẩn nghĩ dây dưa.

Nghĩ khi cô thế duyên đành muộn,

Nghĩ nỗi không tiền chợ lại trưa.”

– Thôi đủ rồi, con Mai giỏi, bữa mô cậu thưởng cho.

Chưa có lần nào mà con bé không thuộc, ông Đạo và tất cả mọi người đều ngán cái trí nhớ của nó. Ông Đạo thường giảng cho vợ rằng thời thượng cổ, lúc chưa có sách vở, người ta đều phải dùng những thứ trí nhớ đặc biệt như thế để bắt học thuộc lòng từng đoạn dài, đoạn nào cũng không vấp một chữ. Do đó mới truyền tụng lại cho dân gian được những bộ kinh như kinh Védas ở Ấn Độ, ngay cả Kinh Cựu Ước cũng phải dùng phương pháp ấy.

Mai còn được thêm cái tên là tự điển sống. Mặt mày tay chân con bé mũm mĩm tròn như cái kẹo, màu da trắng hồng và đôi mắt đen xanh. Tuy không ai nói ra nhưng cả hai vợ chồng ông Đạo đều tự hào mỗi khi nhìn con bé. Nhất là bà Đạo, người mẹ kiêu hãnh đã đẻ cho chồng những viên ngọc. Còn gì sung sướng cho người đàn bà hơn mỗi khi nghe chồng khen con mình, máu huyết của mình đã chung sức với chồng mới tạo ra được như thế.

Người cha thường nói đùa rằng về sau phải kén rể cho thật xứng đáng, theo ý ông chữ xứng đáng không phải nhắm vào điểm giàu sang sự nghiệp, tối kỵ là mấy bác thương gia. Rể của ông phải biết nói chuyện với ông để bố con có thể thức suốt đêm hút thuốc lá uống nước trà đàm đạo, thế là đủ. Ông quên cả sự còn phải hỏi xem con gái mình sau này có thích như thế không đã?

Cố nhiên là cô bé Mai không chịu, từ độ xem cái phim Quan Công hiển thánh của cha, nó thích nhất là đoạn Tào Tháo kể với Quan Công: “Tôi đối với ngài tam nhật tiểu yến, thất nhật đại yến, thượng mã đề kim, hạ mã đề ngân…” Mai muốn lấy chồng phải làm chức gì to lớn để có thể sống cuộc đời ba ngày mở tiệc nhỏ, bảy ngày mở tiệc lớn, ấy mới hợp sở thích của cô bé. Tha hồ cho Mai diện, mặc áo đẹp, trang điểm. Cô bé không thích ăn nhưng rất thích diện.

Nghe câu chuyện các con thường bàn cãi với nhau, người mẹ có thể đoán hiểu tâm tính từng đứa.

Bé Lan tính nết khác chị một tí. Tuy cũng tràn ngập tham vọng, Lan thích được trọng vọng dầu phải trả giá rất đắt, phải đóng kịch và khổ sở trong vai trò của mình. Không tuếch toác như chị mà trái lại rất bí mật. Đồ đạc của Lan được khóa hai ba lớp mặc dầu chẳng có gì ngoài mấy quyển sách với vài món đồ chơi cũ của mấy chị, em nó. Cô bé lầm lì, ít nói ít cười. Hay mơ đến những câu chuyện thần tiên xa xôi rồi đặt mình vào khung cảnh ấy. Lan không thích công việc nhà cửa nấu ăn đi chợ như chị mà lại thiên về văn nghệ. Cô bé hay thơ thẩn một mình ở góc vườn hoặc với em gái kế, bé Cúc là đứa em nó gần hơn cả. Mai và Lan xấp xỉ trạc bằng nhau, cả hai cũng xinh xắn trắng trẻo, bố mẹ lúc mua sắm phải liệu mà mua cho đều nếu không tất thế nào cũng có sự ganh tức, kèn cựa.

Hai chị em Mai, Lan hay cãi lẫy nhau, bắt mẹ phải luôn luôn làm quan xử kiện. Người mẹ tin rằng đứa lớn sẽ dìu dắt các em sau và chỉ cần dạy một đứa là tất cả mấy đứa khác đều hệt như thế.

– Mai là con trâu đầu bầy, Mai phải làm gương cho các em…

Đây là câu mở đầu của những bài giảng về luân lý, về tam tòng tứ đức của người mẹ, mấy đứa con gái đứa nào cũng thuộc làu. Mỗi lần ai thử lén nghe chúng chơi đóng vai mẹ búp bế cũng sẽ được nghe lại có những câu ấy khi chúng nó la rầy lũ búp bế.

Bé Cúc, đứa con gái thứ ba tính nết trầm lặng nhất, thông minh nhất nhà, chăm chỉ siêng năng nhưng không bao giờ lộ ra ngoài. Cúc cũng có màu da trắng toát như hai chị, đấy là điểm kiêu hãnh của người mẹ Việt Nam, sinh được lũ con trắng da dài tóc. Cúc lầm lì, cả ngày không nghe lên tiếng. Mai lách chách bao nhiêu thì Cúc im lặng bấy nhiêu. Trong mấy đứa con gái, bà Đạo linh cảm rằng tương lai Cúc rồi sẽ vất vả nhất. Vất vả vì nó quá chăm chỉ mà ở đời bao giờ đứa chăm cũng làm tôi cho đứa lười. Tính Cúc sạch sẽ ngăn nắp, đi học về bao giờ xếp cặp sách đàng hoàng, áo quần không nhàu nát bẩn thỉu như con Trúc em nó.

Vợ chồng ông Đạo thường lấy câu châm ngôn “mười ngón tay có ngón dài ngón ngắn” để an ủi lẫn nhau. Con Trúc rất khó dạy, tính nết lêu lổng, học hành dốt nát nhất nhà, có vài bài tính trừ, tính cộng mà đánh đến gãy thước cũng không làm ra. Đã học dốt lại thêm lười biếng, cả ngày chỉ thích trèo cây rong chơi ở ngoài vườn, tay chân mặt mày lúc nào cũng dơ bẩn. Nghĩ ra được trò chơi gì là trò chơi ấy có ăn đòn vào lưng vì trái ý cha mẹ, cả nhà gọi nó là con mọi ngồi hầm than.

Nghiệt nhất là con bé lại xấp xỉ tuổi em và cả nhà vẫn xem nó như con trai, nó chuyên môn đặt bày những trò chơi con trai, hết đá bóng đến đánh giặc, đá cầu. Hẳn vì cái mặc cảm nếu mình là con trai thì cũng sẽ được yêu chìu như Vinh nên nó mới quá quắt như thế chăng.

Trong nhà chẳng ai buồn để ý đến nó mà dạy bảo sửa đổi, tính nết con bé cứ mỗi ngày một nảy nở như con mèo rừng. Nó muốn làm gì là cứ làm, sau đó có bị đòn cũng không sợ. Biết mình hay bị đòn, thì chỉ việc chui tạm sau góc vườn để bày trò chơi, rủ được Vinh ra thì vui, nhưng thế nào cũng bị lộ tẩy.

Nếu sinh Trúc ở một bệnh viện, chắc người mẹ sẽ ngờ rằng mình bị cô đỡ đánh tráo con một người đàn bà khác. Bà Đạo không chịu tin rằng mình có thể tạo ra một tác phẩm quá tệ như vậy, hay mỗi gia đình thường vẫn có một đứa hư hỏng như thế để đỡ cho những đứa khác chăng?

Nghĩ đến đấy người mẹ lại thấy thương con, ngày sau ra đời nó sẽ làm gì, với cái tính dơ bẩn, lười biếng của nó thì rồi sẽ thua sút tất cả mọi người.

May cho ông bà Đạo là khóa sổ đã có bé Vinh, nhìn bé Vinh người mẹ phải tin rằng trời Phật còn dành đặc ân cho gia đình bà.

Mỗi ngày chú Út được chễm chệ trên xe kéo nhà cho lính kéo đi học, mọi người trong tỉnh đều gọi là “ông quan con”.

Tất cả sự chăm sóc, sự giáo dục của hai vợ chồng ông Đạo chỉ dồn vào đó; cốt sao cho sau này thằng bé có thể nối nghiệp ông cha làm rỡ ràng cho giòng họ. Đành rằng số nó cận đế vương, lá số tử vi nói thế, nhưng sự giáo dục là một điều rất cần thiết.

Theo sự phân tích của những nhà xã hội học thì sự nối dõi trong gia đình không phải là một chuyện không hay. Con nhà thợ mộc thế nào ngày mới lên ba, lên năm cũng đã từng đùa chơi với cái bào cái đục, tay chân sẽ nhờ đó mà khéo léo hơn. Một đứa trẻ được sự huấn luyện từ thuở bé khác hẳn với một người đến lớn mới vào nghề. Nhất là một nghề cần nhiều sự tinh vi, khôn khéo như nghề làm quan, cần thông minh, học thức, đạo đức, kinh nghiệm của gia đình.

Vinh không phụ lòng cha mẹ, nếu ngày xưa thi sĩ Bạch Cư Dị mới sáu, bẩy tháng chưa biết nói mà đã biết nhận mặt chữ “chi” và chữ “vô” là vì từ thuở bào thai đã được hun đúc trong bầu không khí văn chương chữ nghĩa. Lớn lên những đứa trẻ như thế nhất quyết sẽ lập nên được sự nghiệp rỡ ràng.

Hai vợ chồng ông Đạo công nhận câu ca dao:

Con vua thì được làm vua

Con sãi ở chùa thì quét lá đa

là đúng, vì làm sao đảo ngược được hai công việc, con vua từ thuở bé quen sống trong lễ nghi, được bao nhiêu bậc thầy thông giỏi đến dạy dỗ cho mọi cách thức để sau này mà trị dân, nên sẽ không ngỡ ngàng trước nhiệm vụ của mình. Cũng như con thầy sãi ở chùa thì đã quá quen thuộc với cái chổi quét sân chùa. Hai câu ca dao ấy chứng tỏ sự cha truyền con nối trong một xã hội có tổ chức.

Phần giáo dục về chữ nghĩa, về những lý thuyết của Âu Tây, người vợ dành cho chồng vì bà chẳng biết gì nhiều, bà đã dành cho mình phần căn bản đạo đức, luân lý và văn hóa cổ kính.

Từ ngày mỗi đứa con còn nằm trong bụng bà đã ngâm nga thi phú, khi chúng ra đời, người mẹ chỉ ru con bằng những bài thơ Đường của hai tác giả Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị là hai thi sĩ ngày xưa đã được ông cử Lê, cha bà, rất yêu chuộng. Tám bài Thu Hứng của Đỗ Phủ với bài Trường Hận Ca của Bạch Cư Dị là liều thuốc ngủ của các con.

Giọng bà trong, ngân dài rất êm tai. Nghe mẹ mới ư ư thôi là lũ trẻ bắt đầu lim dim, vào quãng bài thứ 5 của Thu Hứng chúng nó đã ngủ rồi, nếu ngâm thơ của Bạch Cư Dị thì mới vào độ nửa bài. Mặc dầu con đã ngủ, đã đặt vào nôi, người mẹ vẫn tiếp tục ngâm cho đến hết, một là để khỏi có sự dở dang, hai là muốn đứa bé dù trong mơ cũng còn được nghe những lời văn hoa chải chuốt ấy. Người mẹ tin rằng những lời thơ sẽ có ảnh hưởng vào trí óc các con lúc chúng nó ngủ.

Suốt trong năm năm trời, có hai lần tang tóc đã xảy đến gia đình ông Đạo, đó là hai cái chết tiếp nối của cụ Thượng ông và cụ bà, cụ ông chết trước.

Vợ chồng ông Đạo phải xin nghỉ về quê chịu tang gấp. Trên chiếc xe Peugeot 402 lộng lẫy do tài xế lái từ tỉnh K. về đến Huế không nghỉ mặc dầu phải qua đèo qua ải, mọi người đều lo sợ hổ với voi sẽ ra chặn xe. Nhưng ông Đạo nhất quyết về ngay vì sợ không kịp nhìn mặt cha. Ngồi trên xe, người con trai không ngừng thở dài, thỉnh thoảng lại chắc lưỡi nói cho một mình mình nghe:

– Danh vọng, giàu sang để làm chi, ngày mình có thể gọi là tạm dư dật để phụng dưỡng cha mẹ thì cha mẹ đã lìa bỏ mình mà bước sang cõi sống khác.

Bà Đạo chẳng còn biết tìm lời lẽ gì để khuyên chồng, có những lúc mà tất cả mọi lời khuyên đều trở nên vô ích, độc ác. Tốt hơn cứ để cho người buồn được tự do thở dài, tự do vật vã than khóc.

Chiếc xe vẫn bon bon chạy, êm như ngồi trên cái võng điều, so với những chiếc xe khác thì xe này tối tân nhất kể từ hình dáng đến máy móc. Ông Đạo chọn kiểu xe dành cho gia đình đông con nên xe rộng rãi, đi hai người tha hồ mang theo hành lý, chỉ mình chú Út được về thăm bà nội, còn các con lớn phải ở lại có cô giáo trông nom.

Xe đẹp, lại được về thăm quê hương, đúng với câu “phú quý quy cố hương”, thế mà lòng người không cảm thấy một tí gì vui thích. Xe đẹp làm gì khi chiếc xe ấy chưa hề được cha mình ngồi lên. Đứa con trai nào làm nên sự nghiệp mà không trông mong về khoe với cha mẹ, nhìn đôi mắt cha mẹ long lanh kiêu hãnh vì sự thành đạt của mình. Nhưng cụ Thượng ông còn đâu nữa!…

Về với quê hương mà nơi ấy thiếu mất người thân yêu thì dầu quê hương có vui, có đẹp mấy cũng mất hết hai phần ba sự quyến rũ.

Từ độ ra đi đến giờ, ông Đạo chưa có thì giờ về Huế, nhưng đối với ông Đạo thì Huế hôm nay đã khoác màu tang tóc.

Xe vừa vào đến tư thất, cụ bà lụm cụm bước ra đón con trai và con dâu, thân hình cụ khô đét, hốc hác như cũng đang đợi bàn tay của thần chết tới đưa đi nốt. Mấy đêm nay cụ toàn thức trắng bên người chồng sắp chết mà nuối, còn hoi hóp chờ con về.

Mặc dầu trong nhà có đến bảy, tám nàng hầu nhưng những nàng hầu trẻ khi đứng trước cái xác một ông già sắp chết, hết cả sinh lực, hết cả cử động, cô nào cũng tỏ vẻ sợ hãi. Vả lại mỗi cô đều có hai, ba đứa con thơ cần chăm sóc, chính sức họ cũng đang đòi hỏi sự ăn ngủ điều hòa, nên cụ bà giành phần mình tất cả mọi sự thức đêm mệt nhọc ấy, già không cần ngủ, cụ vẫn bảo thế.

Thấy con trai và con dâu bước xuống xe, cụ òa lên khóc, bây giờ cụ mới khóc:

– Cậu mất rồi con ơi.

Rồi cụ kể lể tiếp:

– Răng con về trễ rứa? Cậu nuối con, cứ kêu tên con hoài mà không chịu đi, mắt trừng trừng hết liếc bên ni lại liếc bên tê để tìm con. Mạ phải nhờ người bận áo đen đội khăn, đeo thẻ ngà vô mà cậu cũng không lầm, cậu chưa nhắm mắt con ơi!

Sau đó mọi người còn xúm lại kể tỉ mỉ thêm cái bài ngà của một ông tri huyện cho mượn, cụ Thượng nhìn chằm chằm vào rồi lắc đầu, đến lúc ấy mà cụ vẫn còn đọc được chữ tàu viết trên bài ngà ấy.

Mặc dầu cả nhà đều làm bộ, đóng kịch mừng rỡ tíu tít:

– Anh về khi mô?

– Anh về răng chừ, đi đường có mệt không? Răng không cho cả mấy đứa về thăm ông nội bà nội?

Nhưng người chết như còn được ngọn đèn cuối cùng soi sáng, môi cụ mấp máy đọc mấy chữ Hương Thủy huyện, người mang thẻ ngà ấy không phải là con cụ.

Ông Đạo chỉ kịp thay bộ quần áo sô gai, quấn vội cái khăn trắng to tướng lên đầu chứ không cần tắm rửa gì cả, cứ thế mà vào ngay phòng quàn cụ Thượng.

Người con trai sụp xuống lạy cho đúng nguyên tắc lễ giáo trước đã, vừa lạy vừa để mặc cho hai giòng nước mắt tự do chảy dài xuống má, xuống áo, xuống cả chiếc chiếu trắng trải trước quan tài.

Ông Đạo nghĩ bụng, may mà mình không ra làm việc ở ngoại quốc nên còn kịp nhìn mặt cha trước khi chôn.

Theo lệnh của cụ Thượng bà, người ta mới quàn tạm vào hòm chứ chưa đóng đinh vì muốn đợi con trai về, người mẹ còn muốn cho con mình được ghi lại nét mặt cha một lần cuối.

Nắp hòm vừa mở, xác người chết vẫn còn tươi nguyên như mới nằm chưa kịp ngủ, có lẽ nhờ hóa trang khéo.

Ông Đạo đứng nhìn sững sờ tỉ mỉ từng chi tiết xem đã có gì làm ngăn cách hai con người như thế. Nét mặt bình tĩnh, đôi mắt mở trừng trừng. Đáng lẽ cử chỉ thứ nhất của người con trai là phải vuốt mắt cho cha mình ngay, nhưng ông Đạo không muốn làm vội như thế, người con trai còn có chút cảm tưởng rằng cha còn sống, đang nhìn mình, sắp sửa nói chuyện với mình. Nếu đưa tay vuốt mắt, mắt sẽ nhắm lại thì cũng hệt như cầm cái dao mà cắt nốt mấy làn tơ cuối.

Những sợi râu vẫn còn lún phún, tiếp tục mọc. Trên khuôn mặt chỉ còn có xương và da. Từ khi liệm rồi người ta không cạo râu nữa, cả bộ móng tay móng chân cũng dài ra, đó không phải để chứng tỏ rằng người chết vẫn còn sống đó sao?

Bà Đạo đưa mắt nhìn chồng, muốn giục chồng vuốt mắt cho cha, nhưng ông Đạo lắc đầu khoác tay ra hiệu cho vợ đi ra phòng ngoài. Đấy cũng là một năng tính của thiên nhiên, con người cũng như con vật, khi có chuyện gì đau đớn quá thường chỉ muốn được ở một mình. Người muốn được ngắm xác cha mà không bị ai kiểm soát.

Bà Đạo lặng lẽ bước ra ngoài, bà cũng đã thay ngay từ khi xuống xe bộ quần áo thường để mặc tấm áo vải thô trắng may đơn sơ, trái sống, xổ lai, đầu vấn vội chiếc khăn trắng, không cần nhìn qua xem đẹp hay xấu.

Người vợ thắc mắc đi lên đi xuống, theo ý bà thì sự bắt người chết phải chờ đợi như thế này là không nên, phải để cho người chết được siêu thoát. Biết rằng chỉ có mỗi một mình mẹ chồng may ra mới bảo được con trai, người đàn bà đi vào phòng ngủ của mẹ chồng:

– Bẩm mạ, mạ dạy cách răng để nhà con chịu vuốt mặt cho cậu, con sợ để cậu mở mắt lâu e không nên…

Cụ bà nghe con dâu nói, cụ đồng ý với con dâu nên đang nằm nghỉ lưng một chút mà phải vội vàng ngồi dậy vào phòng trong, chỗ con trai đang đứng cạnh quan tài của cha:

– Con ơi, mấy thầy sắp đến khai kinh, con phải để cho người ta đóng hòm lại, để lâu quá rồi mạ sợ…

Người con trai ngước đôi mắt van vỉ đỏ ngầu lên nhìn mẹ, rồi lặng lẽ cúi đầu đi một vòng chung quanh hòm, nhìn khắp từ trên xuống dưới để ghi nhận tất cả mọi chi tiết vào tâm trí mình xong rồi mới đứng ở phía đầu chiếc quan tài, dường như ông vẫn còn như tiếc rẻ.

Lạ lùng nhất là khi bàn tay ông vừa từ từ đặt lên mắt thì đôi mắt cũng dần dần khép xuống, đồng thời đôi môi của người chết cũng mấp máy như muốn mỉm cười. Hai mẹ con đưa mắt nhìn nhau, ông Đạo hơi tái mặt, thì ra mình đã làm trái ý cha, đã bắt cha chờ đợi.

Thế là hết, bây giờ cụ Thượng ông mới chết thật, bên ngoài có những tiếng chim vỗ cánh mạnh như sửa soạn bay xa, cả hai mẹ con cùng rùng mình.

– Mạ với mình ra xơi chén cháo cho bớt mệt.

Giọng bà Đạo nhỏ nhẹ mời, người vợ không muốn cho chồng chứng kiến lúc người ta đậy nắp hòm lại và đóng đinh lên. Cụ bà hiểu ý con dâu nên cụ đến gần con trai đặt tay lên vai có ý đợi ông Đạo cùng đi.

Ngồi bên chiếc quan tài liệm xác cha đã đóng kỹ, ông Đạo bỗng cảm thấy bơ vơ như một con thuyền rơi mất lái, mất chèo dầu đã bốn chục tuổi, đã có gia đình, bổn phận, địa vị.

Người con trai ấy vẫn thấy mình mồ côi từ nay, chữ hiếu chưa trả xong, ông Đạo chưa làm được gì để gọi là đền ơn cha mẹ, để cho cha mẹ được mãn nguyện, được vui lòng.

Vì cụ Thượng mất vào ngày Đại sát, vãng vong, rất xấu nên phải đợi ngày tốt, ngày Giáp ngọ, là cả mười ngày sau mới dám đưa đám chôn cất. Suốt mấy đêm ông Đạo nằm ngủ cạnh chiếc quan tài, bộ áo vải sô trắng đã nhàu nát, không được thay mà ông Đạo cũng chẳng thấy xót ngứa mình mẩy. Sự đau khổ của tinh thần đã làm tê liệt mọi cảm giác, đến ngày thứ bảy, thứ tám, vì trời oi nồng, chiếc quan tài đã rịn ra một thứ nước vàng lờ. Phong tục bắt buộc người con trai trưởng phải thè lưỡi liếm tượng trưng một cái thì nước mới hết chảy. Mặc dầu ông Đạo là một nhân vật thuộc phái Tây học nhưng đối với chữ hiếu ông vẫn xem trọng. Trước tình thương và sự đau khổ, con người không còn nghe ở lý trí mà chỉ vâng theo mệnh lệnh của tình cảm riêng mình, ông Đạo đã cúi xuống thè lưỡi liếm tượng trưng một chút nước ấy.

Bà Đạo vì là dâu trưởng nên phải lo đủ trăm nghìn thứ chuyện, nào tiếp khách, nào trông nom cho mấy người nhà hầu hạ các sư đến tụng kinh suốt ngày đêm. Rồi cỗ bàn cúng quảy ăn uống, người vợ thương chồng, thấy chồng thức suốt đêm, thỉnh thoảng lại phải mở cửa trông chừng xem chồng có quá mệt mỏi thì canh hộ. Hoặc bảo đứa con út bưng lên cho cha một chén nước thịt hầm. Giá bà có nhiều tay chân và sức khỏe để quán xuyến hết thay cả cho chồng trong việc thức đêm canh quan tài thì bà sẽ không ngần ngại gì mà không xin ra đảm nhiệm lấy.

Đám ma cụ Thượng được cử hành rất trọng thể, có cả lính Pháp và lính Việt bồng súng đi hai hàng, các quan Tây lớn nhỏ đi không thiếu. Mở đầu hàng năm trăm thước toàn người cầm liễn đối của các bạn bè quen thuộc phúng điếu, sau đoàn trướng liễn ấy là những vị sư mặc áo vàng đi hướng dẫn hương linh bằng những lời kinh cầu siêu, rồi hương án có bài vị kèm một cái lồng kính đựng đầy các thứ huy chương. Hàng năm chục người phu ngậm tăm để khiêng xe linh cữu, đi đằng trước có ông Đạo đầu đội mũ rơm, tay chống gậy vông, chân mang dép rơm bước thụt lùi mà đi.

Theo sát sau quan tài là mấy người con dâu, con trai, con gái và các nàng hầu trẻ với lũ con thơ ngây, có đứa mới lên năm, mẹ phải bế trên tay. Cụ bà yếu chân không bước được nên đành chịu ngồi trên chiếc xe kéo với bé Vinh đi kèm bên quan tài. Hai bên quan tài còn những người thổi sáo thổi kèn của ban nhạc để phụ họa với tiếng khóc thê thiết của mấy cô con gái và mấy nàng hầu.

Sau cùng là các quan khách bạn hữu thuộc hạ đi đưa, một lần chết là hết nên ai cũng chịu khó bỏ thì giờ để theo quan tài ra đến nghĩa trang cho đủ lễ.

Vì cụ Thượng đông con dâu hầu mọn nên khỏi phải có sự thuê người khóc mướn như những đám ma côi cút khác. Đám nào thiếu tiếng khóc thảm thiết là người chết cô độc, vô phúc, thiên hạ trông vào sẽ nghĩ vì sao đám ma lại quá ư lạnh lùng. Nhờ cái tâm lý sợ chê ấy nên mới có ban khóc mướn, và ban khóc mướn kiếm tiền cũng gọi là đủ sống, khỏi cần làm thêm việc khác.

Những chiếc mấn dài phủ xuống tận chân che hết cả mặt mày chẳng ai nhìn thấy ai, tuy vậy người nào cũng đỏ mắt đỏ mũi. Mỗi người có một lý do để khóc, bà Đạo không khóc nhiều mà cũng không gò ép bắt mình phải gào thét lên vì không muốn đóng trò. Có những lúc người đàn bà ấy khóc là lúc đêm khuya, lén nhìn vào gian phòng thấy chồng mình đang ngủ gục cạnh quan tài, bên trên có mấy ngọn nến còn leo lét cháy. Khóc vì thương chồng hiếu đạo, biết từ nay chồng mất một nơi nương tựa tinh thần rất lớn.

Mấy nàng hầu khóc không phải vì thiếu nơi nương tựa cho tinh thần mà lại là nơi nương tựa thực tế. Rồi đây liệu có yên thân hay còn phải bước thêm bước nữa, nhan sắc đã nhạt màu, đâu còn trẻ trung như thời xưa. Có muốn tô thêm chút phấn son cũng phải chờ đoạn tang chứ không thì sẽ bị chê cười. Khổ tâm nhất là họ chưa già nhưng cũng không còn được ai gọi là trẻ trung nữa, họ vẫn cần phải có một người chồng để thương yêu và để được thương yêu. Con họ sẽ giao lại cho ông Đạo là anh cả trong gia đình, nếu không giao con thì mỗi tháng được một số tiền gọi là tiền hưu dành cho cô nhi quả phụ.

Cuộc sống lạnh lẽo ban đầu họ đành nhận vậy, nhận trong lúc chờ đợi một người, có thể rằng người ấy không bao giờ đến. Thiếu gì con gái trẻ đẹp giàu sang, ai đi tìm chi đến những nàng hầu góa bụa của một vị quan già, vừa nghèo tiền bạc thiếu nhan sắc lại còn vướng víu thêm một, hai đứa con nhỏ.

Mấy bà con gái khóc to nhất, đấy là lúc họ tỏ lòng hiếu với cha mẹ, khóc cho ấm đám, cho thiên hạ khỏi chê cười. Họ khóc mà khỏi lo nghĩ đến tương lai, có cha hay không thì cuộc đời họ cũng đã yên ổn từ lâu. Những tiếng khóc này chỉ là những tiếng khóc đền ơn một lần cuối chứ con gái với cha đâu có mấy khi gần gũi nhau mà cảm tình.

Giọng tụng kinh ngân dài của hai mươi vị sư tiếp dẫn hương linh khỏi phải lạc loài khi bước sang một thế giới xa lạ.

Tất cả mọi người khách qua đường nhìn theo đám đều thì thầm sao mà cụ Thượng tốt phúc đến thế, người ta chỉ dám tự hào rằng mình có phúc hay không là khi đã nằm vào hòm. Cụ Thượng quả là khéo tu nên mới có được cái đám to lớn và ấm cúng, con cháu đàn đống, các con lớn đã làm nên công danh sự nghiệp.

Cụ Thượng mất đi, ông Đạo là con trưởng nên phải đứng lên trông coi tất cả mọi việc thuộc về gia tài.

Mở tủ két ra, tiền mặt không còn bao nhiêu, quanh quẩn cũng lại giống cụ Cố, nghĩa là một ngôi nhà thờ với mươi mẫu ruộng hương hỏa, thứ ruộng hạng vừa, ngoài ra còn một bầy sáu, bảy đứa con nhỏ của các nàng hầu.

Đành phải bán tất cả các thứ đồ đạc trong nhà để chia cho các em mỗi người một số tiền và các bà hầu, mỗi nàng một số vốn nhỏ làm ăn dần trong khi chờ đợi kiếm được chồng mới. Người nào giao con lại thì bà Đạo phải lãnh nuôi.

Người đàn bà nào khác đứng ở hoàn cảnh này chắc sẽ xin khước từ hoặc ngạt thở vì cái trọng trách quá nặng, nhất là mình cũng không phải là thiếu con. Chật bụng chứ chật chi nhà, đấy là câu châm ngôn của người đàn bà nói ra để an ủi chồng vì chính ông Đạo trông thấy lũ em mà đã hơi tỏ ý lo sợ.

Cụ Thượng bà, mẹ ông Đạo chết sau đó một năm, tang lễ cử hành rất đơn giản theo ý muốn của cụ.

– Tao có làm chi xứng đáng mô mà đánh trống thổi kèn cho nhiều!

Đấy là lời cụ dặn dò các con cháu, trong khi các bà bạn già ăn xong chỉ có ngồi nghiên cứu cái đám tang của mình. Thấy nhà ai rước hai chục sư thì cũng đòi con cháu phải rước cho đủ số, thấy người ta xây lăng đắp mộ cao hai thước thì mình cũng đòi cho được hai thước. Bắt con cháu phải thề hứa, dọa nếu không làm đúng ý mình thì sẽ trở về vặn cổ vặn họng.

Cụ bà mẹ ông Đạo lại trái hẳn, sau khi làm lễ chôn cất và mở cửa mả cụ ông, lo hết việc lễ tạ các quan khách đã đến phúng điếu chồng rồi, cụ tin rằng đời mình thế là ngừng dứt ở đấy.

Suốt ngày cụ chỉ ở trong phòng cạnh bàn thờ cụ ông hoặc dạo vườn chăm bón mấy gốc cây, ngoài ra cụ không để ý đến một vấn đề gì nữa, cả đến vấn đề ăn uống thuốc thang cụ cũng cho là thừa.

Các con đã khôn lớn, con trai làm nên sự nghiệp, con gái có gia đình chồng con sung túc. Bổn phận cụ đối với đời xem như đã làm trọn, như người công chức đợi giờ tan sở để ra về.

Với lương tâm, với trời đất cụ cũng chẳng thấy gì đáng thắc mắc để phải suốt ngày lo cầu xin chạy chọt như một số người khác lúc biết mình sắp chết. Có thể con người làm sao tránh khỏi một vài tội lỗi mà lắm khi chính mình cũng không biết, nếu phải xuống hỏa ngục để đền những tội lỗi ấy thì cũng là sự công bằng.

Suốt một đời, người đàn bà chỉ biết đến chồng và lũ con, mặc dầu chồng làm quan nhưng cụ không hề dự vào đó, ngay cả sự đua đòi thừa thãi, cuộc sống không thay đổi từ khi cụ Thượng chồng bà còn là một cậu ấm trẻ tuổi cho đến khi lên chức Thượng thư.

Ông Đạo và các em đã hoàn toàn theo ý mẹ, cử hành một đám tang nhỏ, ngay cả các bà con xa cũng không biết để mà đến tiễn đưa và ăn cỗ đám ma.

Đưa đám mẹ trở về, ông Đạo được thăng chức Tuần Vũ sau năm năm trời lăn lóc ở miền Thượng du. Sống mãi với những người dân chất phác, đâm ra quen thuộc và từ quen thuộc đến chỗ say mê không còn xa cách mấy.

Lìa bỏ tỉnh K., lìa bỏ ngôi chùa thân yêu mà cả hai vợ chồng đã gửi gắm vào đấy bao nhiêu công phu khó nhọc, buổi lễ tiễn đưa đã vẽ ra bằng nước mắt, bà Đạo khóc còn tức tưởi gấp mấy lần ngày phải lìa quê hương của mình.

Để thưởng cho cái công vất vả trong mấy năm trời ấy, triều đình đã cho ông về Trung châu. Có những người không cần học hành chữ nghĩa gì cả, cứ làm cách nào thu góp được nhiều tiền của dân rồi về kinh đô chạy chọt cũng có thể thăng quan tiến chức rất mau. Còn mau gấp mấy lần những người chỉ biết lo tìm công việc ích lợi cho dân cho nước.

Trên trường chính trị, bất cứ ở thời đại nào và ở xứ nào cũng giống nhau, muốn giữ vững địa vị, muốn được người ta vời đến mình thì điểm cần nhất là đừng có thông minh xuất chúng quá. Câu nói của Napoléon lúc phàn nàn tướng Kellerman là: “Ông ấy tự cho mình là người tướng đệ nhất của Âu châu, theo tôi thì một vị tướng tồi còn hơn hai vị tướng giỏi.”

Ai có thì giờ ngồi suy nghiệm câu này sẽ tìm thấy nhiều ý nghĩa, và không phải là không đúng hẳn.

Muốn thăng chức nhanh lại còn một cách nữa là biết đánh bạc, biết đánh nhưng còn phải biết thua, thua bạc là một nghệ thuật. Thua làm sao cho người được bạc có cảm tưởng rằng mình tài giỏi chứ không phải nó tha cho mình đâu. Người được không có cái mặc cảm thiếu nợ người thua, chẳng cần phải nghĩ đến sự đánh lại hôm sau cho nó gỡ, không thì coi kỳ quá. Thua sao cho người được bạc sẽ kiêu hãnh vì cái tài đánh bạc của mình, và đồng tiền họ được đó là mồ hôi nước mắt của họ làm ra, họ và vợ con họ xứng đáng để được hưởng cái số tiền ấy.

Cứ thua đi rồi người được sẽ đặc biệt có cảm tình với mình và trong lúc đề nghị thăng thưởng thế nào cũng sẽ có tên mình ở đầu sổ.

Vợ chồng ông Tuần Hải phải cái tội không biết đánh bạc. Ông Hải ghét nhất là môn ấy, đánh không tiền cũng ghét, theo ông đây là một sự tiêu khiển ngốc nghếch nhất, mất thì giờ vô duyên nhất. Nếu muốn tiêu khiển thì có thiếu gì thứ khác trong bảy tám ngành nghệ thuật đó, tha hồ chọn, sao lại chịu ngồi đau lưng mỏi cổ mà kết quả chẳng thu thập được một cái gì cho tâm hồn, cho trí não.

– Làm, không làm thì về, đi cuốc đất phát rẫy cày ruộng mà ăn, chứ ngồi cong lưng mỏi cổ để vừa mất tiền vừa phải lê la với những đứa tuy chức vị cao mà kiến thức thấp, tư cách ít thì thật đáng tủi hổ.

Câu nói được ghi vào sổ đen, vì nó nhắm vào nhiều nhân vật, làm cho nhiều người chột dạ giật mình.

– Mình không đánh thì để tui đi đánh vậy, như rứa mình khỏi phải mất thì giờ mà cũng khỏi phải lê la với những kẻ mình không thích.

Bà Tuần dỗ dành chồng vì biết rằng đấy là một lối đi hầu như duy nhất, nhưng ông Tuần nhất định không chịu. Ông vẫn quan niệm có bất tài mới phải bỏ tiền ra mà mua danh mua tước, nhưng đấy là một quan niệm sai lầm.

Nước Việt Nam thời ấy đang ở trong điểm tuyệt đỉnh của chế độ quan lại phong kiến, đang như một quả chín vàng sắp rụng, còn lủng lẳng trên cây chờ đợi một trận gió to mới chịu rơi. Nếu không đi bằng những ngõ ngách nịnh bợ, đút lót thì hãy cứ nằm đấy mà chờ, chờ đến khi nào bạc đầu long răng, chờ khi có một chỗ nào mà không ai thèm đến.

Người đàn bà thường vẫn thính tai hơn người đàn ông. Mặc, cái gì ông Tuần cũng mặc, mình ở với trời, mình làm việc cho dân. Mãi về sau này người đàn ông ấy mới thấy rằng người dân cũng ở chung trong tình trạng quả chín ấy. Chữ lợi vẫn là chữ to lớn nhất, nó chà đạp lên tất cả chữ nhân, chữ nghĩa, chữ tín của cổ nhân.

Thành phố mới này so với tỉnh K. thì đã là một bước tiến bộ dài. Tỉnh lỵ ở cách biển có ba cây số, người dân sống bằng nghề chài lưới, làm nước mắm và các thứ mắm khác đưa ra bán khắp nơi ở trong xứ. Tỉnh này cũng như tất cả các tỉnh khác ở miền Trung, có chia ra thành nội và thành ngoại.

Nội thành để dành cho các quan và các công chức ở, ngoại thành là phố phường buôn bán của dân chúng. Chung quanh thành có hào sâu thả cá, hào được thông ra sông nên nước chảy chứ không đọng. Về mùa mưa, màu nước trong xanh tưởng như một con sông nhỏ của thiên nhiên đã cố ý bao quanh thành. Trên bờ hào người ta trồng các thứ rau cải tươi tốt, buổi chiều mát trời có thể bơi thuyền quanh thành, cũng có người chỉ sống bằng nghề chài lưới ngay ở con hào nhỏ ấy mà vẫn kiếm đủ sống.

Đêm về, thành đóng cửa, có lính gác để bảo vệ an ninh cho các quan và gia đình ở trong thành. Những ai mới đến gặp mùa nắng ráo, ngỡ rằng người được sống trong thành thuộc vào giới ưu tiên, sự thật nếu ở trong thành mà không cất được cái nền nhà cho cao thì năm nào đến mùa mưa cũng bị nước lụt ngập vào tận giường ngủ.

Ngay cả thành nội của Kinh đô xứ Huế cũng không tránh khỏi nạn ngập lụt ấy, nguyên do chỉ vì lòng tham của mấy vị quan lúc đi xem địa điểm để cắm cọc xây thành, đào hào. Mục đích để phòng giữ trộm cướp giặc giã nên mới xây thành, đào hào như thế.

Các quan lúc cắm địa điểm đã chọn ở những chỗ ruộng cao đất ráo mầu mỡ, bất chấp cả quyền tư hữu. Nhưng những nơi đất cao ráo ấy phần nhiều có chủ, chủ đất hiểu rằng dầu cho triều đình có mua lại thì cái giá cũng không bằng giá trị thật của ruộng đất mình. Chủ đất đã khôn ngoan mang tiền đến đút túi quan và xin quan đi cắm địa điểm vào làng khác. Vùng nào đất ruộng cao ráo có thể tránh khỏi ngập lụt thì chủ đất đều có đủ tiền để mời quan đi; còn lại là những vùng thấp thỏi sình lầy ứ đọng, vô chủ hoặc có chủ cũng chỉ là hạng chủ nghèo nàn không đủ tiền đóng sưu thuế, không đủ tiền đút túi quan.

Kết quả là tất cả những đất đai ở thành nội về sau này đều chịu không ít thì nhiều ảnh hưởng của sự tham nhũng ấy.

Sau tỉnh Q.B. là tỉnh Quảng Ngãi rộng hơn, người dân nóng nảy hơn, cứng đầu cứng cổ hơn. Xứ Quảng Ngãi là xứ của mía mật, của đường và của những tâm hồn cách mạng. Ông Tuần và gia đình được đưa vào không phải vì ai thương yêu gì, nhưng vì dân Quảng Ngãi nổi tiếng cứng đầu, đã không biết đánh bạc thì cho vào đấy mà làm việc.

– Răng ngày tháng qua chi mà mau quá mình ơi, mới khi mô gặp nhau còn trẻ trung mà chừ…

Bà Tuần cầm lông con nhím rẽ lại cho thẳng đường ngôi rồi lấy nhíp nhổ mấy sợi tóc bạc nhỏ vừa mọc lún phún ở ngay chỗ đường ngôi để cho mọi người khỏi trông thấy cái tuổi già đang đến với mình.

– Mình nói lạ, không thấy bầy con của mình nó lớn như thổi lên cả đó răng. Thằng Vinh mà cũng lên Trung học rồi, còn đòi chi nữa!

Quả như thế, thời gian đã mang lại bao nhiêu là biến đổi trong gia đình ông Tuần Hải. Mấy năm qua, sau khi lìa tỉnh K., các con đã tạm gọi là khôn lớn, chức vị tạm gọi là đầy đủ, nhưng con người vẫn phức tạp hay tại cuộc đời phức tạp luôn luôn trình bày những khía cạnh khúc mắc. Ông Tuần có những ưu tư mới lạ, không giống với ngày mới ra làm quan, cũng như bà Tuần nhìn các con lớn và nhận thấy rằng bổn phận của mình mỗi ngày một nặng thêm.

Thấy chồng buồn, người vợ lại lo tìm cách cho chồng vui, mà ngoài phương pháp kiếm thêm dì ba, dì bảy thì cũng chẳng có cách gì khác. Lần này bà cẩn thận hơn, biết bao gia đình tan hoang vì nàng hầu vợ lẽ, nhưng đã đến lúc mà sức khỏe và cuộc sống tu hành đã bắt buộc người đàn bà không thể không tìm người thay thế mình, nên người vợ lại làm cái công việc “đánh đu với tinh” như trước.

Chính ngày xưa ông Tuần cũng đã từng khổ sở khi thấy cụ Thượng ông hờ hững với mẹ mình, ông Tuần và các em đã thuê thợ mã làm một con hình nhân rồi mang đi chôn. Mục đích là cầu cho nàng hầu chết đi, để cha mình không có ai mà yêu, may ra có trở về với mẹ mình. Công việc không thành vì nàng hầu vẫn sống mãi, vẫn đủ sức sinh một lũ con và tiếp tục nhõng nhẽo với ông chồng lớn tuổi của mình.

Dì Tư mới này không phải là cô Nguyệt ngày xưa mà là một cô gái con nhà khá giả ở vùng quê, dì Tư đảm đang và hiền lành hơn. Điều tra kỹ lưỡng rồi bà Tuần mới dám mang cau trầu đến xin cưới về.

Đứa con trai của dì Tư được bà Tuần xem như con mình, tuy vậy lắm khi người đàn bà cũng tự bắt gặp mình vào chùa tụng kinh lâu hơn để tìm sự thăng bằng cho tâm hồn.

Những ý nghĩ, những sự căng thẳng, không thể nào tránh khỏi khi mà hai người đàn bà phải chia nhau chung một tình yêu.

Mối lo canh cánh nặng nề là bốn cô con gái, Mai và Lan đã đến tuổi lấy chồng, Mai hay cãi nhau với dì Tư, và hay có sự xích mích với các em, nhất là với Lan.

Lệ thường chị em gái ít khi thuận hòa với nhau, họa chăng là sau này có chồng con riêng biệt thì những nỗi lo buồn thắc mắc của những người đàn bà có gia đình mới kéo họ lại được gần nhau.

Mai tính nết đỏm dáng, hơi nóng nảy nhưng rất đảm đang. Bệnh nóng nảy là bệnh của những người con gái đẹp và được yêu chiều nên Mai nóng tính, đó cũng là do lỗi ở cha mẹ hơi quá nuông chìu ngày Mai còn bé. Kéo lại với tính ấy Mai rất chăm làm, mười tám tuổi nàng đã biết quán xuyến tất cả trong gia đình.

Nhìn con xinh đẹp chỉ làm cho người mẹ thêm lo lắng, cụ Nguyễn Du đã không bảo rằng càng tài hoa bao nhiêu lại càng nhiều sự khổ lụy bấy nhiêu đó sao? Người mẹ chỉ mong mỏi có mỗi một vấn đề là làm sao gả chồng cho Mai. Ngày nào Mai có chồng là ngày ấy bà mới ăn ngon ngủ yên. Lá số’ tử vi của Mai có những vì sao kỳ lạ, bắt người mẹ phải lo lắng nhiều hơn đối với các con khác.

Trong tỉnh, tuy vẫn có nhiều mối mai đưa đến nhưng đám nào tạm gọi là có thể được thì hay xảy ra những chuyện trắc trở, đám tầm thường thì hoặc Mai hoặc cả chính hai vợ chồng bà cũng không ưng ý.

Mỗi khi nóng lên, Mai hay quát mắng người ăn người làm khiến cho chúng nó oán giận mà tiếng lành đồn xa nhưng tiếng dữ cũng đồn tới ba ngày đường.

– Con Mai rứa mà cao số quá mình ơi!

Lắm đêm nghe vợ thở dài, than vãn, ông Tuần chẳng biết nói thế nào để an ủi vợ:

– Thì mình cứ kệ hắn, cao thì cao chứ hơi sức đâu mà lo lắng!

– Nhưng con chị có đi rồi mới gả con em được, hắn còn một bầy em!

Phong tục thật là lôi thôi, mà đâu có phải chỉ riêng một nhà ông Tuần, gia đình nào đông con gái đều có cái nạn ấy. Cô em lớn kịp cô chị là y như bố mẹ lo cuống cuồng, lắm khi vì sự quá lo sợ ấy mà xảy ra những sự vội vàng đáng tiếc.

Nhan sắc, hồi môn, con quan là ba yếu tố khá vững, thế mà vẫn chưa đủ.

– Chắc tại cái tính hắn hay hét toang toác nên người ta sợ…

– Tại mình, từ khi nhỏ đã phải lo trước.

Ông Tuần tìm cách đổ lỗi cho vợ mà có lẽ lần này đúng như thế. Người mẹ, mặc dầu theo dõi các con nhưng Mai đã khéo léo nên giấu được cái tính nóng nảy của mình. Cha mẹ thường hay phục con, nhất là những đứa con xinh đẹp, biết ăn nói khôn ngoan, cho đó là đứa trẻ thông minh, không ngăn chặn được.

Những đức tính mà thuở bé vô hại, người lớn cho là thông minh ấy ra đời có thể ích lợi cho đứa bé nhưng nó sẽ làm cho một số người xa lánh. Không phải Mai chỉ có toàn những tính hay gắt, nóng nảy cả đâu, ở người con gái ấy cũng còn nhiều đức tính đảm đang, những tình cảm rào rạt chỉ để dành riêng cho những người thân yêu của mình. Mai có thể hy sinh tất cả cho chồng con sau này. Ở Mai có vài đức tính của bà Tú Xương mà không ai tìm thấy trong tâm hồn các cô gái mới lớn.

Nhan sắc lại là thứ nhan sắc lộng lẫy, hay vì cái nhan sắc quá lộng lẫy ấy đã làm cho những người mẹ có con trai lúc đi nhắm dâu đã lo ngại chăng.

Kể ra thì bà Tuần cũng lo hơi sớm, giá cứ để cho các con sống nốt cuộc đời tươi đẹp của tuổi con gái vô tư thì có lẽ có lợi cho tất cả. Người mẹ mà cứ thở ngắn than dài thì đứa con cũng đâm ra cảm thấy bực tức muốn đi theo ai thì theo cho xong, đấy là một điểm đáng trách ở bậc làm cha mẹ.

Lan, cô gái thứ hai không có tánh nóng nảy của chị, không hét lên mỗi khi giận dữ, không ném dao ném thớt, nhưng cũng không khéo léo trong công việc bếp núc bằng chị. Nhan sắc của Lan là thứ nhan sắc trầm lặng, không đốp chát vào mặt như thứ nhan sắc của Mai, cố’ nhiên là Lan và tất cả các anh em cũng không ai có được tính nết của Mai.

Lan gần các em hơn Mai vì Lan thích văn chương, âm nhạc, nhất là đối với Cúc, hai chị em có gì cũng bàn bạc với nhau tíu tít, hầu như lập một mặt trận chống lại với một đối phương nào đó. Bị gạt bỏ ra ngoài những câu chuyện vui vẻ ấy, Mai không tức sao được.

Đã thế Mai phải trả thù, chuyện gì Lan với Cúc bàn định mà Mai biết được là lập tức Mai làm “rắp bo” mật báo với mẹ ngay. Trong gia đình, nếu cha mẹ là chính phủ, các con là dân chúng thì Mai là trưởng phòng nhì.

Mai biết chuyện gì là cha mẹ biết được chuyện ấy, cố nhiên là cả nhà lại càng lánh xa Mai, cái vòng lẩn quẩn cứ tiếp tục như thế. Chính người đáng thương nhất lại là Mai, nếu nhìn kỹ lại, cô bé cảm thấy cô độc ngay từ trong tâm hồn ra đến với các em, cả với mẹ. Người mẹ mà ngồi nói chuyện riêng với con thì chẳng bao giờ có vấn đề gì ngoài vấn đề thắc mắc sao con chưa có ai đến hỏi. Tất cả những sự ấy đã làm cho tính nết Mai càng thêm mắc mỏ, sắc cạnh hơn.

Đã thế mà các em của Mai còn không thương, lại cứ cố tình trêu già. Thấy Mai vừa ở nhà trên xuống thì chúng nó đang vui cười bỗng im bặt, hoặc nói những mẩu chuyện nửa kín nửa hở.

– Lan hỉ, nhớ hỉ.

– Suỵt, nhớ rồi, ai ngu mô mà nhắc hoài.

Mai muốn tìm cách lân la gần hai em nên cố hỏi:

– Chuyện chi rứa, cho chị nghe với.

Lan và Cúc đều trả lời, giọng cố làm ra nửa bí mật nửa tự nhiên:

– Có chi mô, tụi em nói chơi mà chị nghe làm chi!

Rồi chúng để mặc Mai ngồi một mình, mỗi đứa đều cúi đầu chăm chú đọc sách. Mai bực tức đứng lên, đi vào phòng riêng ngồi, mở tủ soạn áo ra ngắm một mình hoặc viết nhật ký. Ngoài cái thú ngắm áo mới và viết nhật ký, Mai không có bạn, không có người yêu, mà cũng chẳng có một thứ gì để suy tư.

Kể ra bà Tuần cũng đã hiểu một phần nào tâm lý các con, nếu Mai có gia đình, chồng con thì nhất định nàng sẽ là một kẻ nô lệ cho gia đình, cho chồng con của mình. Những người đàn ông ích kỷ có loại thiếu nữ như Mai làm vợ thì suốt đời tha hồ được nuông chìu.

Lan không ghét chị nhưng hai chị em quả thật là tính nết khó hợp với nhau, Lan bảo chị hay thọc gậy bánh xe, làm cản trở con đường học vấn tiến bộ của mình.

Lan ít khi bằng lòng với cái gì đang đến mà chỉ muốn tìm những cái chưa đến. Cái gì nắm trong tay rồi thì cái ấy mất hết vẻ quyến rũ, đấy cũng là một điểm giúp con người tiến bộ. Mộng của Lan là đi du lịch, là đi những nơi nào xa lạ để rồi làm gì chính Lan cũng không tự biết, một vì sao không định hướng chiếu vào cuộc đời của Lan, đứa con gái rất nhiều tham vọng mà cha mẹ không biết để giúp đỡ.

Cúc – đứa con gái thứ ba – khác hẳn với các chị. Với Cúc chỉ có mỗi một con đường đi từ nhà đến trường là quan trọng nhất, ngoài ra Cúc không muốn đi đến một nơi nào khác nữa. Sự thay đổi khung cảnh đối với Cúc là một cực hình. Lan mơ du lịch, Cúc mơ được ngồi nhà. Cúc có thể ngồi học suốt ngày không cần nói chuyện với ai, không cần đi đâu, không thích diện, không thích ai biết đến mình.

Ngoài sách vở ra Cúc chỉ thích âm nhạc, cô bé đánh đàn hay nhất nhà. Cúc không xinh bằng hai chị nhưng tính thông minh và chăm chỉ đã vượt hẳn mọi người.

Một điểm đáng phàn nàn là tính Cúc bi quan, hay mỉa mai, nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn sự lợi dụng, lường gạt giả dối. Nhưng mọi người chẳng ai hiểu người con gái ấy, ai ngờ được rằng dưới cái dáng điệu dửng dưng, nét mặt nghiêm khắc lạnh lùng ấy đã giấu kỹ một tâm hồn súc tích cô đọng và rạt rào tình cảm.

Ngày đi học Cúc đã yêu thầm kín một giáo sư nhưng chỉ có mình Cúc với quyển nhật ký biết, cho đến ngày giáo sư thôi dạy, từ giã học trò, Cúc đã gục mặt xuống bàn khóc. Thế mà mọi người vẫn ngờ rằng Cúc bị đau bụng hoặc đau răng, chỉ một lần ấy thôi, nhưng người giáo sư đã đoán biết. Về nhà thấy chị khóc Trúc hỏi ngay, vì Trúc và Cúc là hai chị em kề sát nhau, lại học chung trường từ thuở mới đi học.

– Răng chị Cúc khóc?

– Thầy giáo dạy Việt văn đi rồi.

– Để em ra em năn nỉ thầy đừng đi thì chị có hết khóc không?

– Hết liền, Trúc ra năn nỉ cho thầy ở lại giùm chị.

Cả hai chị em cùng khờ, vì thầy giáo khi đã bỏ trường mà đi tất phải có đủ lý do, làm sao một cô học trò bé nhỏ có thể ngăn cản được. Thế mà Trúc cũng chạy ra nhà thầy để tìm gặp thầy giáo.

– Thầy đừng đi, chị Cúc khóc đó.

– Trúc về dỗ chị, thầy phải đi vì công việc bắt buộc.

Công tác của Trúc không thành, ngày mai có thầy giáo mới đến thay thầy giáo cũ và trong ánh mắt của Cúc thoáng thêm một nét buồn hơn. Tập nhật ký của Cúc lại dày thêm những trang chi chít, mọi người vẫn không ai biết.

Cả nhà nể Cúc, ngay cả ông Tuần là người cha nghiêm khắc ít khi gần gũi với các con, ngoài chú Vinh và chú bé con của dì Tư. Tuy không chuyện trò với các con, nhưng mỗi tháng ký tên vào học bạ, ông Tuần cũng hiểu rằng chỉ có Cúc là đứng đầu sổ. Vinh và Trúc, cả hai đều dốt tương đương, lười giống nhau chứ không được như chị.

Chưa bao giờ Cúc làm một sự gì lỗi lầm, đối với cha mẹ, với anh em trong nhà, Cúc là một cô bé hoàn toàn, chỉ phải cái không nhan sắc được như hai chị nhưng không nhan sắc mà học giỏi thông minh, tính nết thùy mị thì sau này lớn lên sẽ không đáng lo ngại. Giá tất cả các con đều như Cúc thì người mẹ sẽ khỏe tâm, khỏe trí biết mấy.

Bé Trúc trái hẳn với chị. Chị nó hiền lành thùy mị bao nhiêu thì nó láu táu lanh chanh bấy nhiêu.

Trúc không được cha mẹ kiềm chế nhiều nên tha hồ phóng khoáng, đi học về là ném sách vở ra trèo cây, người mẹ khi nhìn đến thì đã hơi muộn, tính nết của mỗi đứa con đã khắc khảm vào chúng nó. Trúc thích hát, chỉ mơ đi theo gánh hát, số điểm hạnh kiểm không bao giờ được quá điểm trung bình, mặc dù nhà trường đã tỏ ý nể ông Tuần.

Tuy lười học nhưng Trúc thích làm thơ, hết ra tác phẩm này đến tác phẩm khác, chép bằng tay, một lần bà Tuần vớ được tập thơ, bà đã thức suốt đêm vì lo sợ con bé tương lai sẽ không ra gì. Trúc thích trèo cây, vì chỉ ở trên cây nó mới được sống một mình không có ai quấy rầy. Bố mẹ không biết trèo, các chị cũng không biết trèo. Bà Tuần bảo kiếp trước chắc nó là con khỉ nên mới leo tr?