Lạc vào hoang địa (tt)
Lạc vào hoang địa (tt)
rong khi lang thang, ruột rối như tơ vò, thằng Đôn tìm cách giải quyết vấn đề nhưng xem ra còn cực nhọc vất vả hơn cả việc tìm kiếm một cây kim trong đống cỏ khô! Nó lẩm bẩm:
- Không lẽ bây giờ mình cứ ngồi ì ra đây rồi liệu có ai tới cõng mình về không? Chi bằng ta cứ lượm cây khô chất lại đốt, khói bốc lên may ra có người nào thấy dấu hiệu chăng?
Và nó bắt đầu hành động...
Chỉ một chốc sau, thằng Đôn kéo được nhiều cành cây chất lại. Củi khô, chụm thật tốt, nhưng không có nhiều khói. Cậu bé cũng biết vậy, nên nó lấy nước tưới vào. Bây giờ, gió đã dịu và người ta thấy một cột khói đen đang từ từ bốc lên, thằng Đôn xoa tay bằng lòng...
Bỗng có tiếng động dội lại. Không, đúng ra thì đó là những tiếng kêu khàn khàn, cộc lốc, thô lỗ, khiến nó phải ngẩng đầu lên. Kìa, nhiều chú vẹt đang vắt vẻo trên cành đa, trông thật đẹp mắt: mồng đỏ, bộ lông đen mượt, mỏ cong và dài. Xem chúng có vẻ hãnh diện lắm. Chúng tỏ vẻ thích thú khi nhìn thằng Đôn hì hục ôm từng nắm củi quăng vào đống lửa. Cứ xem chúng đang làm những điệu bộ kỳ quái thì rõ: mắt thì nhìn ngang, nhìn dọc, đầu cúi xuống, thỉnh thoảng lại ngước lên trao đổi với nhau vài tiếng khàn khàn. Giả sử, hôm qua mà đàn vẹt này tới chào đón nó thì chắc sẽ làm nó buồn lắm. Vì nó thường nghe người ta nói là vẹt hay đem lại điềm xui xẻo. Nhưng hôm nay thì khác hẳn. Mọi sự đã gần như tốt đẹp theo chương trình của nó. Giờ đây, chẳng còn điều gì làm cho nó áy náy cả. Bởi thế, nó đâm ra có thiện cảm với với những chú vẹt ngây ngô kia.
Thằng Đôn thấy khói đã lên nhiều rồi bèn lại ngồi lên một phiến đá gần đó chờ đợi. Nhìn cột khói càng lúc càng bốc lên cao, thằng Đôn nhớ lại cách đây không lâu, cô bé Bình đã kể cho nó nghe về kinh nghiệm của dân bản xứ, thường làm dấu hiệu để nhận nhau khi bị lạc đường, bằng cách đốt lửa có khói đen nhiều, nhưng phải làm sao cột khói bị đứt quãng, chứ không phải liên tục. Tại sao họ phải làm như vậy? Bé Bình giải thích rằng, họ muốn cho người khác nhìn thấy cột khói mà không nghĩ lầm đó là một đám cháy rừng. Điều đó xem ra hay hay... Vậy thì nó cũng phải làm sao tạo thành những đám khói đứt quãng để dễ đập vào mắt người khác. Nghĩ thế rồi, nó lấy một cành cây có lá xanh tươi, đem nhúng nước và nắm một đầu thật chắc hất qua hất lại trên đống lửa: kết quả đã tạo thành những khoảng trống giữa cột khói. Nhìn những đám khói tròn, to đang lơ lửng bay lên tận trời xanh, nó mỉm cười đắc thắng và tin tưởng.
Mặt trời hình như càng lúc càng lên cao và thời gian vẫn lặng lẽ trôi qua. Thằng Đôn cảm thấy cần phải nghỉ ngơi đôi chút để lấy sức kẻo chân tay đang bị ê ẩm. Ngày càng lên dần, nắng càng gay gắt hơn. Ve rừng, côn trùng đang thi nhau kêu ầm ĩ. Hai mắt nó bỗng nhiên thấy nặng chĩu, có lẽ vì đêm vừa qua mất ngủ nhiều. Nó tựa lưng vào một gốc cây ngủ gà ngủ gật. Được một chốc, nó giật mình tỉnh dậy. Tự nhiên nỗi chán chường lại đến xâm chiếm tâm hồn nó. Nó tự hỏi tại sao lại lạc vào miền hoang vu này và nó cảm thấy nó thật cô đơn!
Đàn vẹt đã bay đi tự bao giờ để cành đa trơ lại uốn cong dưới sức nắng như thiêu như đốt của một buổi trưa hè. Thằng đôn ước mong sao nghe được một tiếng người, chỉ một tiếng thôi cũng đủ làm cho nó mát ruột rồi. Lâu nay, sống trong những khu phố chật hẹp, tai nó nhiều khi đau nhức vì tiếng người, nhưng bây giờ nó lại cần được nghe tiếng người để sưởi ấm nỗi cô độc mà không sao có. Nghĩ thật tội nghiệp...
Đồ ăn chỉ còn vỏn vẹn lại một đùi thỏ bữa ăn trưa, vì còn phải để dành nữa chứ? Chú thỏ bây giờ trông thật bé nhỏ, không to lớn như khi vừa mới bị bắn. Cho nên, nó càng phải dè sẻn, ăn từ từ...
Thấm thoát, chiều đã xuống từ lúc nào mà nó không hay biết. Bóng mặt trời đã ngả hẳn về Tây. Nó cầm một viên đá đi quanh quẩn may ra giết được con chim nào chăng. Chợt nó thấy một con chim cu rừng vừa bay tới đậu nơi cành cây trước mặt, cất giọng gáy nghe thật buồn bã! Thằng Đôn mừng hết sức. Nó bước nhè nhẹ lại gần một gốc cây đối diện, lấy đà ném thật mạnh, nhưng chim đã vỗ cánh bay cao trước khi viên đá vụt đến!
* * * * *
Cho đến xế chiều hôm đó, thằng Đôn vẫn chưa thấy một bóng người nào đáp lại dấu hiệu cột khói của nó cả! Nó cảm thấy thất vọng hoàn toàn, vì đêm đang xuống dần! Nỗi lo âu, nỗi nhớ nhà đang xâm chiếm tâm hồn nó và ý nghĩ: phải tìm đường về nhà, lại thôi thúc nó hơn bao giờ hết. Nó lẩm bẩm:
- Một liều, ba bảy cũng liều! Đến đâu thì đến!
Nhưng nó lại e rằng vượt qua khỏi khu rừng thưa này, biết đâu lại chẳng lạc vào sâu và gặp nhiều nguy hiểm hơn? Lúc này, hai ý nghĩ trái ngược hình như đang tranh giành ảnh hưởng trong tâm hồn cậu bé. Nó như chim chuyện chuyện lạc vào rừng hoang, không biết đâu mà tìm ra lối về cả: nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn là cây với cỏ! Không còn gì khổ sở cho bằng!
Đêm đã xuống thật sự rồi, thằng Đôn đành lủi thủi nhặt cây làm giường ngủ. Để sửa soạn một giấc ngủ yên tĩnh và an toàn hơn hôm qua, nó lấy cây, cột lại thành một hàng rào đem đặt ngay trước bộng cây hy vọng chận rắn rít đêm đêm mò tới.
Mặt trời đã chìm hẳn xuống sau những rặng núi tận phía Tây xa tít. Cảnh vật thật ảm đạm thê lương. Thằng Đôn tuy cũng lo âu vì phải trải qua một đêm hãi hùng nữa, nhưng nó vẫn nuôi hy vọng sáng ngày mai sẽ trở về nhà và sẽ gặp lại những người thân. Ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Ý nghĩ đó hâm nóng tâm hồn nó. Tự nhiên, nó trở nên hăng say làm việc, dù thân xác nó đang mệt nhoài sau một ngày chờ đợi vô ích!
Nó nhai vội một ít thịt thỏ, phần còn lại vẫn được treo cẩn thận trên cành cây như cũ.
Sau đó, nó lại chất thêm củi vào đống lửa để làm hiệu, vừa để sưởi ấm. Vì mặt trời đã đi ngủ hẳn từ lâu rồi, tuy trời hãy còn sáng, nhưng không khí trở nên lạnh hơn. Chim chóc đang giành nhau sửa soạn chỗ ngủ. Thằng Đôn lại chất củi vào thêm. Lửa và khói lại thi nhau bốc lên vùn vụt. Nó vẫn không nản chí tuy suốt ngày đã tốn bao nhiêu công lao rồi mà vẫn không nhận được kết quả nào.
Hoàng hôn nơi hoang vu thật là buồn bã chen lẫn nỗi ghê rợn. Thằng Đôn dùng một cành củi đỏ rực để lục soát lại chỗ ngủ xem có con rắn rít nào không. Ánh sáng đi đến đâu, bóng tối lùi đến đó và cuối cùng lại xâm chiếm và bao trùm lấy toàn thân của nó.
Nó cảm thấy mình bất hạnh quá...!
Chợt nó nghe có tiếng chó sủa... Nhưng nó không dám tin vào thính giác của mình, có lẽ vì quá lo hay quá mừng, cũng không biết nữa. Và tiếng chó lại sủa. Một con chồn chăng? Hay tiếng bắt chước chó sủa? Nó vội lủi về phía bộng cây lấy mấy cục nhựa thông quẳng vào đống lửa cho lửa ngọn bốc cao hơn, rồi bắt tay lên miệng:
- Hú... hú...
Tuy nó chưa hú thành thạo như các tay nhà nghề, nhưng nghe cũng không đến nỗi kém lắm. Trong thâm tâm, nó hy vọng may ra tiếng hú vang dội đến nơi có tiếng chó sủa nếu quả có thực.
Bỗng từ phía ngọn đồi trọc, có tiếng dội lại:
- Tu-oa... tu-oa... tu... oa...
Đúng là tiếng tù và chứ không phải tiếng dội lại của tiếng hú hồi nãy đâu. Cột khói của nó đã có vị anh hùng nào thấy rồi chăng? Thằng Đôn cảm thấy hồi hộp quá! Sự tin tưởng đó đem lại cho nó một nguồn vui không bút nào tả xiết. Nó mừng đến nỗi, nước mắt chảy ra ràn rụa lăn tròn trên hai gò má từ bao giờ nó cũng không hay biết.
Thấy lửa có phần tàn, thằng Đôn vội khiêng ngay hàng rào cây vừa chế tạo hồi chiều vất ngay vào đống lửa. Ngọn lửa liếm thật nhanh và chẳng mấy chốc cháy sáng rực cả một góc trời. Và qua ánh lửa, Tôtô - con chó cưng của thằng Bân - hiện ra một cách lẫm liệt, đuôi ve vẫy... Tôtô nhảy chồm đến trước mặt cậu bé và giỡn cợt bằng cách lượn qua lượn lại. Thỉnh thoảng, nó lấy hai chân cào xuống đất tỏ dấu mừng rỡ. Thằng Đôn vui sướng quá chạy lấy phần thịt thỏ còn lại chia cho Tôtô một ít vì nó nghĩ chẳng cần để dành nhiều làm gì nữa. Tôtô vội ngoạm lấy miếng thịt tha đến một gốc cây. Trong khi con Tôtô đang cúi đầu nhai xương, thì bỗng từ đâu, Bân ngồi trên mình ngựa oai phong vạch lá tiến tới đứng cạnh đống lửa. Bóng người lẫn ngựa in đậm hình trên nền đất cằn cỗi. Trông dáng thằng Bân thật có vẻ rừng rú. Nó lặng yên một lúc lâu rồi cất giọng khàn khàn hỏi:
- Ê! Mày đi đâu để bị lạc vậy? Có sợ không? Ba tao đang nóng ruột vì mày lắm đó, cả con Bình cũng vậy nữa!
Dù giọng Bân có vẻ càu nhàu, nhưng cũng làm cho thằng Đôn cảm thấy an ủi nhiều lắm. Thế rồi, trước đôi mắt ngạc nhiên của thằng Đôn, thằng Bân để tay lên nón, rút ra một con dao nhọn sáng choang, chẳng biết để làm gì. Cặp mắt Bân long lanh và sáng rực đang mở to như hai mắt ếch như muốn thu vào nhiều hình ảnh trong một màn kịch: hốc cây với đám lá chết trải làm giường, đống lửa đỏ rực những than hồng, những cành cây khẳng khiu trụi lá, đen kịt vì khói... Nó lẳng lặng tiến về phía cành cây có treo miếng thịt thỏ, tay giật xuống dùng dao cắt bỏ vào miệng nhai một cách ngon lành. Xong xuôi, nó quay lại hất hàm hỏi:
- Nước uống đâu mậy?
- Dưới kia có một con suối nhỏ. Chính vì nó mà mấy lần lên đường tìm lối về, tôi vẫn lưỡng lự, nhất là sau khi thịt được một chú thỏ.
- Với tài ném đá à?
Thằng Đôn nhỏ nhẹ đáp:
- Vâng, tôi nhắm con vàng, nhưng lại trúng con trắng cạnh đó!
Bân chậm rãi tiến về phía đống lửa. Trông hắn ta thật to lớn và đẹp trai thật, nhưng dáng dấp đầy vẻ rừng rú.
Bân dõng dạc ra lệnh:
- Thôi, sửa soạn về nhà đi! Nhưng mầy hãy kể qua loa cho tao nghe tại sao mầy đi lạc vậy? Đêm qua mầy ngủ ở đâu?
Thằng Đôn lần lượt kể lại từ đầu không bỏ sót một chi tiết nào. Dù sao nó cũng cảm thấy hãnh diện về những cố gắng của nó để tìm cách thoát khỏi nơi đây.
Nghe xong, Bân gật đầu:
- Khá lắm! Mầy không còn là một thằng bé sặc mùi thành phố nữa đấy! Bắt tay mầy một cái!
Nói rồi, nó đưa tay ra nắm lấy bàn tay nhỏ bé của thằng Đôn lay mạnh. Tuy vậy, Bân cũng dọa dẫm:
- Tao cho mầy hay: Không phải vùng hoang vu nào cũng yên hàn như thế này cả đâu. Rất nhiều vùng, nếu không may mầy lạc vào sẽ bị thú dữ vồ ngay. Số mầy cũng còn hên đó, chứ khi tao thấy dấu hiệu cột khói của mầy, tao cứ ngỡ là có đám cháy rừng gần đâu đây!
Thằng Đôn nóng lòng:
- Thế bao giờ “người anh hùng” về nhà?
Nó cũng đánh trúng tâm lý của thằng Bân đấy chứ! Vì thường Bân cũng thích lối xưng hô kiêu kỳ như vậy.
Bân vẫn không chú ý:
- Đêm qua tao biết, nhưng tao không thể làm gì được vì tao đang bị cảm sốt. Bởi thế từ sáng sớm, tao vội lên đường. Tao cũng hỏi mấy người xung quanh, nhưng không ai biết mầy đi đâu, đi về phía nào và đi từ bao giờ cả. Tao hết sức bực mình nhưng nay thì hết rồi.
Ngẫm nghĩ một chốc, Bân lại tiếp tục, giọng nói có vẻ cảm động:
- Tao cũng lấy làm buồn, vì từ lâu nay, tao không mấy thích mầy. Nay tao đã hiểu rõ mầy rồi. Để bù lại, ngày mai tao sẽ dạy cho mầy cách bắn ná, bẫy chim, chứ tài ném đá thì chả bao giờ trúng được chim!
Thằng Đôn sung sướng:
- Thật không anh Bân?
- Sao lại không thật?
Sau đó, Bân vui vẻ bảo:
- Thôi! Bọn mình về đi kẻo ba má và em Bình trông! Tội nghiệp!
Thằng Đôn ngây thơ hỏi:
- Có thể về kịp ngay trong đêm nay không anh Bân nhỉ?
- Chắc là kịp!
- Nhưng mà còn đống lửa kia, phải dập đi đã chứ?
Thằng Đôn vội xuống suối lấy nước lên tưới. Thấy một vài chỗ lửa chưa tắt hẳn, Bân dùng giày hất đất dập lên rồi quay lại bảo Đôn:
- Mặc áo vào đi mầy, có đồ gì thì lấy mau rồi ngồi lên đây.
Vừa nói, Bân vừa chỉ lên phía sau yên ngựa và xoay mình một vòng thật đẹp nhảy lên phía trước.
- Nhảy lên đây mầy, ôm chặt lấy tao nha!
- Tôtô! Đi trước mầy!
Bân giật mạnh dây cương và cả người lẫn ngựa lên đường. Thằng Đôn ngồi phía sau, hai tay ôm ngang người Bân. Chúng nó tiến vào những bụi rậm, chỗ hôm qua thằng Đôn bị lạc: Xung quanh bóng tối dày đặc bao phủ...
Thằng Đôn không ngờ rằng đêm nay lại có một cuộc hành trình thú vị như thế này. Cả người lẫn ngựa tiến bước mãi: lúc trèo lên những mỏm đồi cao, lúc tuột xuống những thung lũng sâu... Con ngựa thật dai sức, mắt tinh như mắt mèo, nó phi nhanh như vậy mà không hề vấp váp một tí gì. Đường sá không gồ ghề lắm nhưng rất nhiều cành cây nhỏ rơi xuống đầy đường.
Thằng Đôn cảm thấy sung sướng và thầm phục thằng Bân sát đất, chẳng những nó thông thuộc đường sá mà còn điều khiển dây cương một cách tài tình trong đêm tối trời như thế này.
Cả bọn vẫn tiếp tục đi trong bóng đêm dày đặc...
Xa xa, thằng Đôn đã thấy sao Mai ló dạng, sáng chói bên cạnh muôn vàn tinh tú khác. Thằng Đôn nghĩ thầm chắc là sắp về đến nhà rồi vì cứ nhìn hướng thì thấy rõ. Mọi khi nó vẫn thường dậy sớm và kêu bé Bình ra sân coi vì sao sáng có cái tên đẹp đó mà! Vả lại, hôm qua, nó đi từ trại gia súc đến chỗ bị lạc cũng lâu bằng từ khi lên ngựa với Bân đến giờ chứ gì! Nhưng khi thấy Bân vẫn chưa cho ngựa chậm bước thì nó ngạc nhiên hỏi:
- Sắp về đến nhà chưa anh Bân?
Bân mỉm cười trong đêm tối:
- Nếu chưa thì chắc bọn mình còn đang quanh quẩn trong vùng hoang vu đấy!
Giọng điệu nghe có vẻ mỉa mai, nhưng thật ra thằng Bân không có ác ý gì. Và bây giờ, ngựa chỉ còn phi những bước nhỏ và khi đi ngang qua đồng cỏ nhà thì thằng Đôn sung sướng reo lên như vừa thấy mẹ đi chợ về:
- A!... Đến nhà rồi!
Bân vội nhảy xuống ném mạnh chiếc dây cương qua hàng rào dâm bụt. Thằng Đôn cũng tuột xuống theo.
Cho đến giờ phút này, thằng Đôn vẫn không ngờ rằng nó đã về đến nhà - ngôi nhà thân yêu mà nó nóng lòng muốn gặp lại từ hai ngày nay.
Nó thỏ thẻ:
- Anh Bân à! Nhiều lúc em y hệt như điên vậy anh nhỉ?
Giọng thằng Đôn như tắc nghẽn vì quá cảm động.
- Thôi, quên đi mầy!
Bân vừa nói vừa nâng hai vai thằng Đôn lên một cách thân mật:
- Tao rất vui thấy mầy đã về nhà bằng yên. Ai trong nhà này cũng đều không muốn thấy mầy bị hoạn nạn. Ba tao thương mầy cũng như con cái trong nhà vậy, vì mầy cũng dư biết ba tao xưa kia đã chịu ơn ba mầy rất nhiều, trong những ngày còn nghèo khổ... Còn con Bình, lại càng không muốn xa mầy vì trong trang trại này, nó chỉ thấy có mình mầy là bạn thân với nó thôi. Nó còn thương mến mầy hơn cả tao là anh ruột của nó nữa, vì cái dáng tao bề ngoài có vẻ dữ tợn. Vả lại, tính tao không ưa được những chuyện nhõng nhẽo con gái. Mầy không thấy con Bình thường gọi tao bằng cái hỗn danh “người rừng” đó sao? Còn về phần tao, từ nay, tao rất có thiện cảm với mầy vì mầy là một thằng bé bình tĩnh và can đảm.
Sưu tầm: Casau
Nguồn: http://xuanhao2004.blogspot.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 5 năm 2014