- 9 & 10 -
Sau bữa tiệc, chiều trời đẹp và nóng, nên mọi người tập họp ở ngoài vườn, quanh một cái bàn mộc mạc để uống cà-phê.
Satôfo mỗi lúc một uất ức thêm vì nhận thấy sự quan tâm của Đarxi đối với Saverni phu nhân. Gã càng quan sát cái vẻ chú ý của nàng đối với câu chuyện của người mới đến, thì bản thân gã càng trở nên kém khả ái, và cái máu ghen nổi lên trong lòng gã chỉ có tác dụng là tước mất của gã những khả năng làm người ta ưa mến. Gã đi đi lại lại trên hiên là nơi mọi người đang ngồi, gã không thể đứng yên một chỗ, theo thói thường của những người đang lo nghĩ, gã hay nhìn những đám mây to đang tụ lại ở chân trời báo hiệu một cơn giông, và càng hay nhìn địch thủ của gã đang nói chuyện thầm với Giuyli. Gã thấy nàng lúc thì mỉm cười, lúc thì ra vẻ nghiêm trang, lúc thì nhìn xuống một cách bẽn lẽn; tóm lại, gã thấy không có lời nào của Đarxi nói với nàng mà không có tác động rõ rệt, và điều làm cho gã ưu phiền nhất là những vẻ mặt thay đổi của Giuyli, hình như chỉ là hình ảnh, là sự phản ánh nét mặt linh động của Đarxi. Cuối cùng, không thể chịu nổi cái thứ hình phạt đó nữa, gã bước lại gần nàng và cúi xuống lưng ghế của nàng trong lúc Đarxi nói cho một người nào đó biết về bộ râu của Hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ Mamút(17):
- Thưa bà, gã nói giọng chua chát, ông Đarxi có vẻ là một người đáng mến lắm!
- Vâng, đúng thế! Saverni phu nhân trả lời với một vẻ nhiệt tình mà nàng không nén nổi.
- Hình như thế, vì ông ta làm bà quên các bạn cũ của bà.
- Các bạn cũ của tôi! Giuyli nói với giọng hơi nghiêm khắc. Tôi không hiểu ông định nói gì. Và nàng quay lưng lại phía Satôfo. Rồi, nắm lấy góc một chiếc mùi xoa mà bà Lambe đang cầm trong tay, nàng nói:
- Cái mùi xoa này thêu mới mỹ thuật chứ, thật là một kỳ công.
- Thật à, em thân yêu? Đó là tặng phẩm của ông Đarxi đấy, ông ấy mang về cho chị không biết bao nhiêu là mùi xoa thêu ở Côngxtăngtinôp. Nhân tiện, xin hỏi ông Đarxi, có phải cô Thổ Nhĩ Kỳ của ông đã thêu những mùi xoa đó không?
- Cô Thổ Nhĩ Kỳ của tôi! Cô Thổ Nhĩ Kỳ nào?
- Vâng, cái cô hoàng hậu xinh đẹp mà ông đã cứu sống ấy, cái người ông gọi là... ồ! Chúng tôi biết hết, gọi ông là... ân nhân... cứu tinh của cô ta. Hẳn ông phải biết tiếng Thổ gọi thế là gì?
Đarxi vừa cười vừa vỗ tay vào trán mình.
- Có lẽ nào, chàng kêu lên, chuyện chẳng may của tôi đã bay tiếng về tận Pari!
- Nhưng làm gì có chuyện chẳng may ở đó; có lẽ chỉ chẳng may cho Ngài Mamasusi đã mất ái thiếp của Ngài.
- Chao ôi! Đarxi đáp, tôi thấy rõ rằng bà chỉ biết có nửa câu chuyện, vì đó là một câu chuyện cũng đáng buồn cho tôi như chuyện cối xay gió đối với Đông Kisốt. Lẽ nào sau khi làm trò cười cho những người Frăng(18), tôi còn bị nhạo báng ở Pari về hành vi hiệp sĩ lang thang độc nhất mà tôi đã phạm từ xưa đến nay.
- Sao thế? Thật chúng tôi không biết gì cả! Xin ông kể cho chúng tôi nghe đi! Tất cả các bà đều kêu lên một lượt.
- Lẽ ra, Đarxi nói, tôi nên để các bà chỉ biết cái đoạn mà các bà đã biết, và xin miễn kể đoạn sau, vì kỷ niệm về nó thật không êm ái gì cho tôi! nhưng một người bạn tôi... thưa bà Lambe, tôi xin phép giới thiệu người ấy với bà... Xơ (19) Giôn Tayrơn... một người bạn tôi, cũng là diễn viên trong cái màn bi hài kịch đó, sắp sửa đến Pari. Ông ta rất có thể sẽ tinh quái gán cho tôi một vai trò còn khôi hài hơn vai trò thực sự mà tôi đã đóng trong câu chuyện đó. Sự việc như thế này:
Người đàn bà khốn khổ đó, một khi đã được thu xếp chỗ ở trong lãnh sự quán nước Pháp...
- Ồ! Xin ông bắt đầu từ đầu chứ! bà Lambe kêu lên.
- Nhưng các bà biết đoạn đầu rồi thôi?
- Chúng tôi không biết gì cả, và chúng tôi muốn ông kể toàn bộ câu chuyện từ đầu đến cuối.
- Vậy thì, thưa các bà, hồi đó, vào cuối năm 18... tôi ở Larnaca... Một hôm tôi đi ra ngoài thành phố để vẽ. Đi với tôi là một chàng thanh niên Anh tính nết rất dễ thương, tử tế, thích ăn chơi vui nhộn, tên là Xơ Giôn Tayrơn, một hạng người rất quý cho ta khi đi đường, vì họ nghĩ đến bữa ăn, họ không quên mang theo thức ăn và luôn luôn vui tính. Vả lại, anh ta đi xa không có mục đích, không biết cả địa chất học lẫn thực vật học, là những khoa học rất đáng ngán ở một người bạn đường.
Tôi đang ngồi dưới bóng một cái nhà đổ nát cách mặt biển chừng hai trăm bước nơi đó có những tảng đá dốc đứng vượt cao trên mặt biển. Tôi đang mải vẽ di tích một ngôi mộ cổ trong khi Xơ Giôn, nằm trên cỏ, vừa chế riễu tính say mê mỹ thuật khốn khổ của tôi vừa hút thứ thuốc lá Latakiê tuyệt ngon. Bên cạnh chúng tôi, một người phiên dịch Thổ mà chúng tôi thuê giúp việc, pha cà-phê cho chúng tôi. Anh ta là người pha cà phê khéo nhất nhưng nhút nhát nhất trong tất cả những người Thổ mà tôi biết.
Bỗng nhiên, Xơ Giôn vui vẻ kêu lên: Kìa có những người đang mang tuyết xuống núi; chúng ta sẽ mua tuyết của họ để làm nước cam.
Tôi ngước mắt nhìn và thấy tiến lại phía chúng tôi một con lừa lưng chở một bao lớn; hai tên nô lệ đỡ cái bao đó ở hai bên. Đằng trước là một người cho thuê lừa dắt con lừa, và đằng sau là một người Thổ oai vệ, râu bạc, đi đoạn hậu, cưỡi một con ngựa khá tốt. Tất cả đám rước đó đi từ từ và rất trịnh trọng.
Anh Thổ của chúng tôi vừa thổi lửa vừa liếc ngang nhìn cái bao đặt trên lưng lừa và bảo chúng tôi với một nụ cười kỳ dị: Không phải tuyết. Rồi anh ta lại quay sang pha cà phê với thái độ thản nhiên thường lệ.
- Vậy là cái gì thế? Tayrơn hỏi. Có phải để ăn không?
- Để cho cá ăn, anh Thổ đáp.
Lúc đó, người cưỡi ngựa phi nước đại; trong khi tiến về phía biển hắn ta đi ngàng chỗ chúng tôi và không quên ném cho chúng tôi một cái lườm khinh bỉ mà người Hồi giáo lúc nào cũng sẵn sàng tặng người Thiên chúa giáo. Hắn thúc ngựa đến tận những tảng núi đá dốc đứng mà tôi đã nói, rồi dừng phắt ngựa lại ở nơi cheo leo nhất. Hắn nhìn biển và có vẻ tìm kiếm nơi nào tốt nhất để nhẩy xuống.
Lúc đó chúng tôi càng chú ý quan sát cái bao chở trên lưng lừa và chúng tôi giật mình về hình thù kỳ quái của nó. Tất cả những câu chuyện vợ bị chồng ghen quẳng xuống biển trở lại tức khắc trong ký ức của chúng tôi. Chúng tôi trao đổi với nhau ý nghĩ của mình.
- Chú hãy hỏi mấy thằng vô lại kia, Xơ Giôn nói với anh Thổ của chúng tôi, xem có phải chúng mang một người đàn bà không?
Anh Thổ mở to đôi mắt kinh hãi, nhưng không mở mồm. Hiển nhiên là anh cho rằng câu hỏi của chúng tôi bất nhã quá.
Lúc đó, cái bao đã ở gần chúng tôi nên chúng tôi thấy rõ nó động đậy và chúng tôi còn nghe thấy một thứ tiếng rên rỉ hoặc gầm gừ từ trong phát ra.
Tayrơn thích ăn ngon, nhưng rất hiệp sĩ. Anh ta vùng dậy như điên, chạy đến chỗ người dắt lừa và hỏi hắn bằng tiếng Anh, chả là vì anh giận phát cuồng lên, rằng hắn chở gì và định đem cái bao đó đi đâu. Người dắt lừa đâu có trả lời; nhưng cái bao rung động dữ dội và có tiếng kêu của phụ nữ: thế là hai tên nô lệ quật mạnh vào cái bao bằng những roi da mà chúng dùng để thúc lừa. Tayrơn không chịu được nữa. Bằng một quả tống dữ dội và khoa học, anh quật tên dắt lừa ngã xuống đất, nắm lấy cổ họng một tên nô lệ; thế là cái bao, bị xô đẩy dữ tợn trong trận chiến đấu, rơi bịch xuống đất.
Tôi đã chạy lại. Tên nô lệ kia sắp sửa nhặt đá, tên dắt lừa đang đứng dậy. Mặc dầu tôi rất ghét can thiệp vào công việc của người khác, tôi không thể không cứu bạn tôi. Vớ lấy một chiếc gậy nhọn mà tôi dùng để chống cái dù trong khi vẽ, tôi hoa nó lên dọa mấy tên nô lệ và tên dắt lừa với cái vẻ hùng dũng nhất của tôi. Mọi việc đều như ý cả, thì bỗng thằng quỷ Thổ cưỡi ngựa, sau khi ngắm biển xong, quay người lại vì nghe thấy tiếng ầm ĩ do chúng tôi gây ra: hắn phóng ngựa như bay và lao vào người chúng tôi trước khi chúng tôi nghĩ tới việc đó; tay hắn cầm một thứ dao bầu kinh khủng.
- Một con a-ta-găng (20) à? Satôfo, một người ưa màu sắc địa phương, kêu lên.
- Một con a-ta-găng, Đarxi nói tiếp với một nụ cười tán thưởng. hắn phóng lại sát người tôi và chém vào đầu tôi một nhát a-ta-găng làm tôi nẩy đom đóm mắt, như lời ông bạn tôi là hầu tước Đơ Rôdơvilơ thường nói một cách thanh lịch. Song tôi đánh trả, phóng cho hắn một cây gậy nên thân vào hông, tiếp đó tôi cố hết sức quay tít cây gậy, đánh trả tên dắt ngựa, bọn nô lệ, lẫn con ngựa và cái thằng Thổ, bản thân tôi trở thành điên cuồng gấp mười lần anh bạn Giôn Tayrơn của tôi. Lẽ ra điều bất hạnh nhất định sẽ xẩy đến với chúng tôi. Anh phiên dịch của chúng tôi đứng trung lập và chúng tôi không thể chống cự lâu dài bằng một cái gậy với ba tên bộ binh, một tên kỵ binh và một con a-ta-găng. May sao Tayrơn nhớ tới một cặp súng ngắn mà chúng tôi có mang theo. Anh vớ lấy nó, ném cho tôi một khẩu và cầm khẩu kia chĩa ngay vào tên cưỡi ngựa đang làm cho chúng tôi rất phiền. Vũ khí đó hiện ra và tiếng cò súng kêu răng rắc có một tác động thần diệu đối với kẻ địch của tôi. Chúng bỏ chạy một cách nhục nhã, để chúng tôi ở lại làm chủ chiến trường, cái bao và cả con lừa. Mặc dầu rất tức giận, chúng tôi đã không nổ súng, đó là cái may, vì không phải người ta có thể giết vô tội vạ một tên Hồi giáo ngoan đạo, và ai đánh nó thì phải trả giá đắt.
Khi tôi đã chùi người qua loa, việc làm đầu tiên của tôi, chắc các bà cũng đoán ra, là chạy đến cái bao và mở nó ra. Chúng tôi thấy trong đó có một người đàn bà khá xinh, hơi béo, tóc đen nhánh và chỉ mặc trên người một chiếc sơ mi bằng len xanh kém trong suốt một tí so với cái khăn quàng của bà Saverni.
Cô ta nhanh nhẹn chui ra khỏi bao và không có vẻ lúng túng mấy, thao thao tuôn ra với chúng tôi một bài chắc chắn là rất cảm động, nhưng chúng tôi không hiểu một tiếng nào; sau đó cô ta hôn tay tôi. Thưa các bà, đấy là lần duy nhất mà một người phụ nữ ban cho tôi cái hân hạnh ấy.
Tuy vậy chúng tôi đã bình tĩnh lại. Chúng tôi thấy anh phiên dịch của chúng tôi tự bứt râu như một người tuyệt vọng. Về phần tôi, tôi cố dùng mùi xoa chỉnh đốn lại cái đầu tôi được chừng nào hay chừng nấy. Tayrơn nói:"Chết thật, làm thế nào với người đàn bà này bây giờ?
Nếu chúng ta ở lại đây, thằng chồng sắp quay trở lại với người của nó và sẽ giết chết chúng ta.
Nếu chúng ta quay về Larnaca cùng với cô gái trong cách phục sức đẹp đẽ như thế này, bọn cùng dân vô lại nhất định sẽ ném đá vào chúng ta.” Tayrơn bối rối về tất cả những sự suy nghĩ đó, nhưng sau khi đã lấy lại cái vẻ thản nhiên của người Anh, bèn kêu lên:"Ông nghĩ ra cái chuyện đi vẽ hôm nay, thật là tội nợ!" Lời cảm thán của anh làm tôi phì cười, và người đàn bà tuy không hiểu một tiếng nào cũng cười.
Song cần quyết định một bề. Tôi nghĩ rằng tốt nhất là tất cả chúng tôi nhờ ông lãnh sự Pháp bảo hộ cho; nhưng khó khăn nhất là làm sao về tới Larnaca. Trời đang chập choạng tối và đó là một cơ hội tốt cho chúng tôi. Anh Thổ của chúng tôi dẫn chúng tôi đi vòng rất xa và nhờ có bóng tối và sự cẩn thận đó, chúng tôi bình yên về tới nhà ông lãnh sự ở ngoài thành phố. Tôi quên kể với các bà rằng chúng tôi đã tạo ra cho người đàn bà một bộ quần áo gần chỉnh tề bằng cái túi và cái khăn bịt đầu của anh phiên dịch.
Ông lãnh sự tiếp chúng tôi một cách rất khó chịu, ông bảo chúng tôi là điên, chúng tôi phải tôn trọng phong tục tập quán những xứ mà mình đến, chúng tôi không nên nhúng tay vào chuyện gia đình của người ta... Tóm lại, ông quở chúng tôi ra trò; và ông nói phải, vì chúng ta cũng đã có lần làm như thế đến nỗi xảy ra một cuộc phiến động dữ dội khiến tất cả những người Frăng trên đảo Siprơ bị tàn sát.
Vợ ông lãnh sự có lòng thương người hơn; bà ta đọc nhiều tiểu thuyết và bà cho rằng hành vi của chúng tôi là rất hào hiệp. Thực ra, chúng tôi đã xử sự như những nhân vật tiểu thuyết. Cái bà tuyệt tốt ấy rất mộ đạo; bà nghĩ rằng bà sẽ cải giáo dễ dàng cái cô dị giáo mà chúng tôi đem đến cho bà, rằng việc cải giáo đó sẽ được nêu lên báo Mô-ni-tơ (21) và chồng bà sẽ được thăng chức tổng lãnh sự. Trong chốc lát, tất cả cái kế hoạch đó hiện ra trong đầu óc bà. Bà ôm hôn người đàn bà Thổ, cho cô ta một cái áo dài làm cho ông lãnh sự phải xấu hổ về thái độ độc ác của ông và bảo ông đến nhà ông Pa-sa (22) để dàn xếp câu chuyện.
Ông Pa-sa rất tức giận. Người chồng ghen là một nhân vật thần thế, hắn làm như điên như cuồng. Thật là gớm ghiếc, hắn nói, cái việc bọn chó Thiên chúa giáo dám ngăn một người như hắn ném nô lệ của hắn xuống biển! Viên lãnh sự rất lúng túng; ông ta nói nhiều đến đức vua của ông ta và còn nói nhiều hơn đến một chiến thuyền có sáu mươi khẩu đại bác vừa xuất hiện trong hải phận Larnaca. Nhưng cái lý lẽ có tác dụng nhất là đề nghị trả tiền về cô nô lệ với giá thích đáng mà ông ta nhân danh chúng tôi nêu lên.
Chao ôi! Nếu mà các bà biết cái giá thích đáng của một người Thổ là bao nhiêu! Phải trả tiền cho người chồng, trả tiền cho ông Pa-sa, trả tiền cho tên dắt lừa bị Tayrơn đánh gẫy hai cái răng, trả tiền về chuyện tai tiếng, phải trả tiền tất. Biết bao lần Tayrơn đau khổ kêu lên:"Khỉ thật, sao lại đi vẽ ở bờ biển làm gì!".
- Thật là chuyện ly kỳ, ông Đarxi tội nghiệp của tôi ạ! Bà Lambe kêu lên, vậy có phải vì thế mà ông có cái sẹo ghê gớm kia không? Xin ông làm ơn vén tóc lên. Thật là may kỳ lạ nên ông mới không bị nó chém xẻ đôi đầu ra!
Suốt câu chuyện, Giuyli không rời mắt khỏi vầng trán của người kể chuyện; cuối cùng nàng hỏi với giọng rụt rè:
- Người đàn bà ấy về sau ra sao?
- Đó đúng là cái đoạn trong câu chuyện mà tôi không thích kể mấy. Đoạn tiếp đáng buồn cho tôi đến nỗi bây giờ người ta vẫn còn nhạo báng cái chuyện anh hùng hảo hán dại dột của chúng tôi.
- Người đàn bà ấy có xinh không? Giuyli hơi đỏ mặt hỏi.
- Tên cô ta là gì? Bà Lambe hỏi.
- Cô ấy tên là Eminê. Xinh không? Có, cô ấy khá xinh, nhưng béo quá và mặt trát bự phấn, theo tục xứ ấy. Phải quen lắm mới có thể thưởng thức cái duyên của một mỹ nhân Thổ Nhĩ Kỳ.
Thế là Eminê được bố trí ở nhà ông lãnh sự. Cô ta là người xứ Manhgrêli(23) và bảo bà C..., vợ ông lãnh sự, rằng cô ta là con gái một ông hoàng. Ở xứ đó, bất cứ thằng du côn nào chỉ huy được mười thằng du côn khác cũng đều là ông hoàng. Thế là cô ta được đối đãi như một công nương: cô ta ăn cơm ở bàn khách và ăn bằng bốn người khác; rồi khi người ta nói về đạo với cô ta thì thường là cô ta ngủ. Tình hình đó kéo dài một thời gian. Cuối cùng người ta định ngày làm lễ rửa tội. Bà C... nhận làm người đỡ đầu cho cô ta và bà muốn tôi cũng làm như thế với bà.
Nào kẹo, nào tặng phẩm và tất cả những thứ khác!... Số mệnh đã định rằng cái con Eminê khốn nạn ấy làm tôi thất cơ lỡ vận. Bà C... nói rằng Eminê yêu tôi hơn Tayrơn vì khi đưa cà-phê cho tôi uống bao giờ cô ta cũng đánh đổ xuống áo tôi. Tôi đang dọn mình dự lễ rửa tội ấy với một thái độ ăn năn rất thành kính thì bỗng trước ngày hành lễ cô nàng Eminê biến mất. Không biết có nên kể hết để các bà nghe không? Ông lãnh sự có một người nấu ăn quê ở Manhgiêli, chắc chắn là một thằng đại ba que, nhưng nấu món cơm chiên thịt thì tuyệt. Tên đó đã vừa ý Eminê, chắc chắn cô này có lòng ái quốc theo kiểu của cô ta. Hắn cuỗm cô ta và cuỗm cả một món tiền khá lớn của ông C..., không bao giờ tìm ra nữa. Thế là ông lãnh sự thì mất tiền, bà vợ ông thì mất mớ quần áo đã cho Eminê, tôi thì mất đôi găng, kẹo bánh, không kể những miếng đòn vào thân mình. Tai hại nhất là tôi phải chịu trách nhiệm về chuyện đó. Người ta bảo rằng chính tôi đã giải thoát cho con đốn mạt kia, rằng tôi muốn cứu nó dù ở tận đáy biển và đã gây ra bao nhiêu tai họa cho các bạn tôi. Tayrơn biết cách thoát thân; anh ta được coi như nạn nhân trong khi chính một mình anh ta là nguyên nhân của tất cả vụ xô xát, còn tôi thì đành mang tiếng là Đông Kisốt và cái sẹo mà các bà thấy làm cho tôi kém thành công đi nhiều ở trong đời.
Câu chuyện kể xong, mọi người lại về phòng khách, Đarxi còn nói chuyện một lúc nữa với Saverni phu nhân rồi chàng buộc phải rời nàng để người ta giới thiệu với chàng một người trẻ tuổi rất thông thái về môn kinh tế, chính trị; người này đang học tập để thành nghị sĩ và muốn biết những số liệu thống kê về đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ.
- X -
Từ lúc Đarxi rời Giuyli, nàng hay nhìn đồng hồ. Nàng nghe Satôfo nói một cách lơ đãng và đôi mắt nàng bất giác tìm Đarxi lúc đó đang nói chuyện ở đầu kia phòng khách. Thỉnh thoảng Đarxi vừa nhìn nàng vừa nói chuyện với anh chàng ham mê thống kê và nàng không thể chịu đựng cái nhìn sắc sảo tuy bình tĩnh của chàng. Nàng cảm thấy rằng chàng đã có một quyền lực phi thường đối với nàng và nàng không còn nghĩ đến việc thoát khỏi nó.
Cuối cùng nàng bảo đánh xe ngựa của nàng đến và, hoặc cố ý hoặc vì mãi suy nghĩ, nàng vừa gọi xe vừa nhìn Đarxi, với khóe mắt như muốn nói:"Anh đã để mất nửa giờ đáng lẽ chúng ta có thể ngồi gần nhau". Chiếc xe đã sẵn sàng, Đarxi vẫn nói chuyện, nhưng chàng có vẻ mỏi mệt và chán cái người hỏi chuyện không chịu buông chàng ra. Giuyli châm chạp đứng dậy, bắt tay bà Lambe rồi tiến về phía cửa phòng khách, ngạc nhiên và gần như tức mình vì thấy Đarxi vẫn cứ ngồi nguyên tại chỗ. Satôfo đứng gần nàng; đã đưa cánh tay cho nàng vịn và nàng tựa vào như máy, không nghe thấy gã nói gì và hầu như không nhận thấy sự có mặt của gã. Nàng đi qua phòng ngoài, theo chân có bà Lambe và vài người khác tiễn nàng ra tận xe. Đarxi ở lại trong phòng khách. Khi nàng đã ngồi vào trong xe. Satôfo mỉm cười hỏi nàng đi một mình trên đường trong đêm tối có sợ không; gã nói tiếp rằng gã sẽ đi xe của gã theo sát nàng, ngay sau khi thiếu tá Peranh chơi xong ván bài bi-a. Giuyli đang mải mơ mộng, chợt tỉnh vì nghe thấy tiếng nói của gã, nhưng nàng không hiểu gì cả. Nàng bèn làm điều mà bất cứ người phụ nữ nào khác đều làm trong trường hợp như thế: nàng mỉm cười. Rồi nàng ngả đầu từ biệt những người tụ tập ở trên thềm, và những con ngựa của nàng đưa nàng đi một cách mau chóng.
Nhưng đúng vào lúc chiếc xe chuyển bánh, nàng đã nhìn thấy Đarxi bước ra khỏi phòng khách, vẻ mặt nhợt nhạt, buồn bã, cặp mắt chăm chăm nhìn nàng như muốn yêu cầu nàng ngỏ một lời từ biệt riêng. Nàng ra đi, mang theo mối hận không thể ngả đầu chào riêng chàng và nàng còn nghĩ rằng vì thế chàng có thể tức bực. Nàng đã quên đứt rằng chàng đã để cho một người khác làm cái việc đưa nàng ra xe; bây giờ các tội lỗi đều về phần nàng và nàng tự trách như đã phạm một trọng tội. Những tình cảm của nàng đối với Đarxi mấy năm trước, khi nàng từ biệt chàng sau buổi tối nàng hát dở, không sôi nổi bằng những tình cảm mà nàng mang theo lần này. Là vì không những năm tháng đã đem lại sức mạnh cho những cảm xúc của nàng, mà tất cả nỗi căm giận chất chứa đối với chồng còn làm tăng những cảm xúc đó. Có lẽ ngay cả cái thứ lưu luyến của nàng đối với Satôfo - bây giờ thì anh này đã bị quên hoàn toàn - đã chuẩn bị cho nàng đắm mình không quá ư hối hận vào một tình cảm sôi nổi hơn nhiều đối với Đarxi.
Còn về phần Đarxi, những tư tưởng của chàng có tính chất bình tĩnh hơn. Chàng đã vui thích gặp một phụ nữ xinh đẹp gợi lại cho chàng những kỷ niệm êm ái, và việc quen nàng chắc sẽ thú vị cho chàng trong mùa đông mà chàng sắp sống ở Pari. Nhưng một khi nàng không còn ở trước mắt chàng, trong lòng chàng chỉ còn lại nhiều nhất là cái kỷ niệm của mấy giờ vui vẻ, cái kỷ niệm còn kém phần êm ái vì chàng nghĩ đến việc phải ngủ muộn và phải vượt bốn dặm đường mới thấy lại chiếc giường ngủ của mình. Chúng ta hãy mặc chàng đang để hết tâm trí vào những cái tầm thường, trùm kỹ người trong chiếc áo khoác, ngồi nghiêng và yên ổn trong chiếc xe ngựa thuê, tư tưởng bay lan man từ phòng khách nhà bà Lambe đến Côngxtăngtinôp, từ Côngxtăngtinôp đến Corphu (24), từ Corphu đến một giấc ngủ gà.
Mời bạn đọc thân mến hãy cùng tôi đi theo Saverni phu nhân.