- 1 - 1 giờ kém 10 phút
Với cô, anh ta chỉ là một chiếc vé nhảy màu hồng. Thậm chí còn là một chiếc vé đã dùng rồi và bị xé làm đôi. Một khoản cung cấp dịch vụ trị giá hai cent rưỡi không hơn không kém. Một đôi chân buộc đôi chân cô phải liên tục di chuyển phía trước theo mọi bước nhảy, trên khắp vũ trường, suốt cả đêm. Một thứ trống rỗng, một kẻ vô giá trị có thể dắt cô đi theo bất cứ cách nào anh ta muốn, cho tới khi năm phút của anh ta kết thúc. Năm phút với những nốt đen không ngừng tuôn ra, dồn dập như một cơn bão cát dữ dội quất vào đống xô thiếc rỗng từ phía trên kia, từ chỗ của ban nhạc. Thế rồi sau đó là khoảng im lặng đột ngột, như thể khi một chiếc cầu dao bị ngắt, một trạng thái khiếm thính về âm thanh trong quãng tiếp theo. Vài nhịp thở tự do mà khung xương sườn của cô không bị cánh tay của kẻ xa lạ nào đó ôm chặt lấy. Rồi mọi thứ tiếp tục trở lại; thêm một luồng bão cát nữa, thêm một cái vé hồng nữa, một đôi bàn chân nữa lại truy đuổi đôi chân cô vòng quanh, một kẻ trống rỗng nữa lại dắt cô đi theo bất cứ cách nào anh ta thích.
Bất cứ ai trong số họ đều là vậy với cô. Cô thích công việc của mình như thế. Cô thích khiêu vũ như thế. Nhất là để cho thuê. Đôi khi cô ước gì mình được sinh ra với đôi chân tập tễnh, để cô không thể điều khiển cả hai bàn chân như một. Hoặc bị điếc, để cô không bao giờ phải nghe tiếng một cây kèn trombone trượt chiếc loa kèn của nó hướng lên trần. Điều đó hẳn sẽ giúp cô tránh khỏi công việc này. Khi đó hẳn là cô sẽ phải giặt những chiếc sơ mi bẩn trong xưởng giặt dưới tầng hầm, hay rửa bát đĩa bẩn trong phòng rửa bát của một nhà ăn công cộng. Mà nói gì thì nói, ước thì có ích gì chứ? Bạn sẽ chẳng được gì. À, vậy thì có hại gì chứ? Bạn cũng sẽ chẳng mất gì.
Cô chỉ có một người bạn trong thành phố này. Người bạn ấy đứng im, người bạn ấy không khiêu vũ, đó là điểm đáng mến nhất ở người bạn đó. Và người bạn này luôn ở bên cô, hết đêm này qua đêm khác, luôn như đang nói, “Cố lên, cô bé, chỉ còn một giờ nữa phải gắng qua thôi. Cô sẽ làm được, cô đã vượt qua nó trước đây rồi.” Và ít lâu sau, “Vững vàng lên, cô bé; giờ chỉ còn ba mươi phút nữa thôi, chỉ còn thế thôi. Tôi đang giúp cô đây.” Rồi cuối cùng là, “Chỉ thêm một vòng quanh sàn nữa thôi, cô bé. Sắp hết thời gian rồi. Chỉ còn một vòng nữa, và bản án dành cho cô tối nay sẽ kết thúc. Chỉ thêm một vòng nữa, cô có thể đứng vững lâu chừng đó mà, đừng chịu thua vào lúc này; nhìn xem, kim phút của tôi đang gồng hết sức để về chỗ của kim giờ. Tôi đã lại hoàn thành việc đó vì cô, tôi đã giải thoát cho cô. Cứ theo đà này thì khi cô được về nhà sẽ là một giờ sáng.”
Dường như người bạn này luôn nói những lời đó với cô vào mỗi buổi tối. Nó không bao giờ bỏ rơi cô. Nó là thứ duy nhất trong thành phố này mang đến cho cô một quãng nghỉ ngơi. Nó là thứ duy nhất trên khắp New York này đứng về phía cô, dù chỉ là một cách thụ động. Nó là thứ duy nhất trong toàn bộ thế giới với những đêm dài vô tận của cô sở hữu một trái tim.
Cô chỉ có thể thấy người bạn ấy từ hai cửa sổ cuối cùng bên trái, hai ô cửa nhìn xuống con phố nhỏ, mỗi lần quay vòng theo điệu nhảy qua phía đó. Những ô cửa sổ phía trước, nhìn xuống con phố chính không cho phép cô nhìn thấy. Có cả một dãy dài các ô cửa sổ ở phía bên trái, nhưng chỉ hai ô cửa cuối cùng là có tầm nhìn tốt, các ô cửa còn lại đều bị chắn mất tầm nhìn bởi các tòa nhà ở giữa. Những ô cửa sổ này luôn được mở nghiêng cánh cửa để thông khí và để những âm thanh ầm ĩ trên này vọng xuống vỉa hè. Cô nhìn thấy người bạn của mình qua hai ô cửa sổ cuối cùng đó. Người bạn ấy hiền từ nhìn xuống cô từ tít trên cao kia, đôi khi với vài ngôi sao nằm rải rác ở xa hơn phía sau. Những ngôi sao không hề giúp ích gì cho cô, nhưng người bạn này thì có. Những ngôi sao có gì tốt? Mọi thứ có gì tốt? Sinh ra là một cô gái có gì tốt? Ít ra thì đám đàn ông cũng không phải rao bán đôi chân của họ. Họ có thể thấp kém theo cách riêng của mình, nhưng họ không phải thấp kém theo cách đó.
Người bạn của cô ở khá xa, song cô có đôi mắt hết sức tinh tường. Người bạn ấy sáng lên mờ mờ, dịu dàng nổi lên trên nền tấm lụa bóng của màn đêm. Một vòng tròn phát sáng, giống như chiếc vòng đồ chơi của trẻ con. Với mười hai vết khấc phát sáng nằm trong vòng tròn đó. Và hai cây kim chỉ thời gian phát sáng để báo giờ, hai cây kim không bao giờ kẹt, không bao giờ chết cứng và chơi xỏ cô, mà luôn hoạt động vì cô, luôn nhích dần về phía trước, để giúp cô kết thúc công việc và rời khỏi nơi này. Đó là chiếc đồng hồ trên đỉnh tòa tháp Paramount, nằm tận đầu kia của thành phố, theo một đường chéo, trên đại lộ Bảy và giao lộ Bốn Mươi Ba; vẫn có thể nhìn thấy được từ đây, nhờ sự sắp xếp lạ lùng nào đó của các nóc nhà cũng như góc phối cảnh. Nó giống như một khuôn mặt – mọi chiếc đồng hồ đều thế cả. Khuôn mặt của một người bạn. Một người bạn hài hước cho một cô gái mảnh mai, tóc đỏ, hai mươi hai tuổi, nhưng nó nói lên sự khác biệt giữa nhẫn nại và tuyệt vọng.
Và một điều hài hước nữa ở người bạn này, đó là cô vẫn có thể nhìn thấy nó từ nơi xa hơn, từ tận nơi cô ở, từ cửa sổ ngôi nhà nơi cô thuê phòng, nếu cô kiễng chân lên và nghển cổ ra, cho dù nơi đó ở xa hơn và nằm trên một hướng khác hẳn. Nhưng ở đó, vào những đêm không ngủ, chiếc đồng hồ chỉ đơn thuần là một kẻ bàng quan, không giúp đỡ cũng chẳng chống lại cô. Chỉ có ở đây, tại vũ trường này, từ tám giờ tối đến một giờ sáng, nó mới thực sự giúp cô trụ vững.
Lúc này đây, cô đang sốt ruột nhìn về phía người bạn đó qua một bờ vai lạ lẫm, và người bạn ấy nói với cô, “Còn mười phút. Điều tồi tệ nhất sắp qua rồi, cô bé. Hãy nghiến chặt răng lại, và trước khi cô nhận ra...”
“Tối nay ở đây đông thật.”
Trong một phút, cô thậm chí không dám chắc câu nói ấy phát ra từ đâu, vì cô đang ở trong một trạng thái trống rỗng, gần như vô thức. Rồi cô phát hiện ra nó xuất phát từ cái thực thể vô hồn đang lôi dắt cô đi vào khoảnh khắc đó.
Ồ, vậy là anh ta định trò chuyện chăng? Được, cô có thể lo được khoản này. Nói gì thì nói, anh chàng này chậm hơn phần lớn các vị khách thuê bạn nhảy khác trong việc đi tới bước này. Đây là suất vé thứ ba hay thứ tư liên tiếp mà anh ta đăng ký chọn cô. Và trước khoảng gián đoạn cuối cùng, cô dường như cũng nhớ mang máng có một bộ vest màu tương tự chập chờn trước đôi mắt đã nhòe đi của mình nhiều lần, cho dù cô không chắc lắm, vì cô chưa bao giờ bận tâm cố gắng phân biệt người này với người khác. Tính khí ít nói hay rụt rè, có lẽ vậy, là nguyên nhân của sự chậm trễ này.
“Ừm.” Cô không thể làm cho âm tiết này ngắn hơn nữa mà không nuốt chửng nó hoàn toàn.
Anh ta thử lại lần nữa. “Chỗ này vẫn luôn đông như vậy sao?”
“Không, sau khi đóng cửa thì chỗ này vắng tanh.”
Được rồi, hãy cứ để anh ta nhìn cô như thế. Cô không cần phải tỏ ra dễ mến, tất cả những gì cô phải làm là khiêu vũ với anh ta. Mười cent của anh ta chỉ trả cho việc cung cấp dịch vụ thông qua đôi chân, chứ không phải qua thanh quản.
Người ta đã giảm ánh sáng ở vũ trường cho lượt vé cuối cùng. Người ta vẫn hay làm thế vào cuối buổi. Ánh sáng được tắt đi, và những cái bóng trên mặt sàn di chuyển như những bóng ma nhún nhảy. Việc này có lẽ được thực hiện để khiến các khách hàng đê mê chếnh choáng, để trả họ lại với đường phố cùng cảm giác như họ đã có một cuộc hẹn riêng tư với ai đó ở đây. Tất cả chỉ với mười cent và một cái cốc giấy đầy ắp thứ nước cam có ga đầy phẩm màu.
Cô có thể cảm thấy anh ta hơi ngả đầu ra sau, nhìn cô chăm chú hơn, như thể cố đoán xem điều gì đã khiến cô như thế này. Cô hướng ánh nhìn vô cảm về phía vệt sáng chớp ánh bạc vặn xoắn không ngừng quay qua lượn lại trên các bức tường và trần nhà, được hắt ra từ quả cầu trang trí gắn gương đang quay trên đầu.
Tại sao lại nhìn vào khuôn mặt cô để tìm ra điều gì đã khiến cô như thế này? Anh ta sẽ không thể tìm thấy câu trả lời ở đây. Tại sao không nhìn vào các văn phòng tuyển diễn viên trên khắp thành phố này, nơi hồn ma của cô vẫn còn lẩn khuất, ngồi trên chiếc ghế gần cửa ra vào nhất? Hoặc đáng lẽ phải là như thế, bởi cô đã ám ảnh chúng đến vậy. Tại sao không nhìn vào phòng thay đồ của quán rượu Jamaica lòe loẹt đó, một công việc mà cô đã thực sự có, và đã phải chạy trốn nó thậm chí từ trước khi các buổi diễn tập cho màn biểu diễn bắt đầu, vì cô đã đủ ngốc nghếch để nán lại trễ hơn những người khác theo đề nghị của lão chủ quán? Tại sao không nhìn vào khe đút tiền xu tại máy bán đồ ăn tự động trên đường Bốn Mươi Bảy – cái khe đã nuốt chửng đồng nickel cuối cùng của cô vào cái ngày không thể quên đó, và phục vụ cô hai cái bánh mì nhỏ phồng phềnh rỗng tuếch. Rồi từ đó trở đi, nó không bao giờ mở ra với cô nữa, dù cô có thường xuyên đứng ngẩn ngơ thèm thuồng trước nó đến chừng nào, vì cô không còn những đồng nickel để nhét vào nữa? Trên hết thảy, tại sao không nhìn vào cái va li tồi tàn với các góc cũ nát để dưới gầm giường trong căn phòng trọ của cô vào ngay khoảnh khắc này? Cái va li chẳng nặng nề gì, nhưng nó đầy ắp; đầy ắp những giấc mơ cũ kĩ chẳng còn chút giá trị nào ở hiện tại.
Câu trả lời nằm ở những nơi ấy, chứ không phải trên khuôn mặt cô. Vậy thì anh ta tìm kiếm nó ở đó là có ý gì? Dù sao thì, những khuôn mặt cũng chỉ là những chiếc mặt nạ.
Anh ta lại thử vận may lần nữa. “Đây là lần đầu tiên tôi đến đây.”
Cô vẫn không rời mắt khỏi những vệt sáng bàng bạc đang trượt xuống các bức tường. “Chúng tôi đã để lỡ mất anh.”
“Tôi đoán cô đã mệt mỏi với việc nhảy rồi. Tôi đoán là đến cuối buổi thế này, công việc này đã khiến cô cảm thấy chán ngán.” Anh ta đang cố tìm ra một cái cớ để biện hộ cho thái độ cau có của cô, để sự tự tôn của anh ta có thể tự an ủi rằng thái độ ấy không phải do anh ta, mà vì một nguyên nhân khác. Cô biết; cô quá biết họ là thế nào.
Lần này cô dành cho anh ta một ánh mắt coi thường. “Ồ không, tôi không bao giờ thấy chán khiêu vũ cả. Tôi thậm chí chưa có được nửa mức tôi cần. Sau các buổi tối, khi đã rời khỏi nơi này trở về phòng mình, tôi còn tập xoạc và đá cao chân nữa kìa.”
Anh ta hạ mắt xuống trong giây lát, khi lời châm chọc dần ngấm vào, rồi lại ngước lên nhìn vào mắt cô. “Có vẻ cô đang phiền muộn về điều gì đó, phải không?” Anh ta không nói ra câu này như một câu hỏi, mà như thể vừa phát hiện ra điều gì đó.
“Phải. Về tôi.”
Anh ta không chịu bỏ cuộc. Có thể nào anh ta đã nắm bắt được một manh mối, ngay cả khi nó được tung ra như một nhát búa tạ? “Cô không thích cuộc sống ở đây sao?”
Đó là giọt nước làm tràn ly, dù cho một chuỗi những nhận xét vớ vẩn mà anh ta vụng về dùng để bắt chuyện nãy giờ đã quá đủ để khiến cô phát bực. Cô cảm thấy lồng ngực mình bắt đầu bị cơn giận chèn ép đến ngạt thở. Một tràng lăng mạ sắp sửa bùng nổ, thì may thay, sự cần thiết của việc trả lời đã được dẹp bỏ. Tiếng rền rĩ xủng xoảng của những cái xô thiếc, vốn liên tục vang lên nãy giờ, đã kết thúc bằng một nốt nhạc được ngắt đoạn vụng về, những tia sáng phản chiếu từ tấm gương tắt lịm trên các bức tường và bóng đèn ở trung tâm được bật lên. Một cây kèn trumpet tấu lên lời chào tiễn khách kiểu Bronx.
Quãng gần gũi bắt buộc giữa hai người đã kết thúc. Mười cent của anh chàng đã hết thời hạn hiệu lực.
Cô buông tay khỏi cánh tay anh ta một cách vô cảm, như thế đó là một thứ đã chết từ lâu; và bằng cách đó cô đã thành công trong việc rũ bỏ cánh tay anh ta khỏi hông mình mà hoàn toàn không gây phiền phức.
Cô buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm tột độ, không hề cố gắng để dìm nó xuống. “Chúc một buổi tối tốt lành.” Cô lẩm bẩm đầy vẻ chán ngán. “Chúng tôi chuẩn bị đóng cửa.” Cô quay người khỏi anh ta và bước đi.
Trước khi cô kịp hoàn tất hành động đó, lưng đã quay nửa chừng về phía anh ta, vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt anh ta đã giữ cô lại thêm chút nữa. Và còn hơn thế nữa, anh ta đang hối hả lục lọi trong các túi quần áo, moi ra những đồng xu và từng chuỗi vé nhảy vẫn còn dính vào nhau, cho đến khi gom lại được cả một nắm đầy hai lòng bàn tay.
Anh ta đưa mắt nhìn xuống. “Thế đấy, đáng ra tôi không nên mua tất cả chỗ này.” Anh ta rầu lĩ lẩm bẩm, cho chính mình nghe hơn là cho cô nghe.
“Anh định làm gì, bám rễ ở đây cả tuần sao? Tóm lại anh đã mua bao nhiêu vậy?”
“Tôi không nhớ. Tôi nghĩ là khoảng mười đô la.” Anh ta ngước lên nhìn cô. “Tôi chỉ muốn vào trong này, và tôi đã không dừng lại để...” Anh ta lên tiếng, rồi lại ngừng lại.
Tuy nhiên, cô đã bắt kịp câu nói đó. “Anh chỉ muốn vào trong này?” Cô lên tiếng với âm lượng tăng dần. “Chừng đó là một trăm lượt nhảy! Chúng tôi không bao giờ phục vụ nhiều đến thế trong một đêm.” Cô liếc mắt nhìn về phía tiền sảnh. “Và tôi cũng không biết anh có thể làm gì với chúng nữa. Nhân viên thu ngân tối nay đã về nhà rồi, giờ anh không thể trả vé để được hoàn tiền nữa.”
Anh ta vẫn cầm chỗ vé, nhưng hoàn toàn chẳng có chút dáng vẻ nào của người bị thua thiệt nghiêm trọng. “Tôi không cần hoàn tiền.”
“Vậy thì anh sẽ phải quay lại đây vào tối mai, và cứ thế tiếp tục cho tới khi dùng hết chỗ vé này. Vé vẫn có giá trị vào các tối khác.”
“Tôi không nghĩ tôi sẽ... tôi có thể làm vậy.” Anh ta khẽ nói. Rồi đột nhiên, anh ta chìa chỗ vé về phía cô. “Đây. Cô muốn chỗ này không? Cô có thể giữ chúng. Cứ mỗi vé trả lại cô sẽ được một khoản tiền, phải vậy không?”
Trong một khoảnh khắc, bàn tay cô vô thức chìa về phía chỗ vé, rồi cô vội vã dừng lại, thu tay về và ngước mắt nhìn anh ta. “Không.” Cô nói đầy thách thức. “Tôi không hiểu chuyện này nghĩa là sao, nhưng không, cảm ơn.”
“Nhưng chúng chẳng có ích gì với tôi nữa. Tôi sẽ không bao giờ trở lại đây nữa. Ít ra thì chúng sẽ có ích với cô.”
Đó là một khoản thù lao lớn. Một khoản thù lao lớn đến thật dễ dàng. Nhưng từ lâu, cô đã tự đặt cho mình một quy tắc, được rút ra từ biết bao kinh nghiệm cay đắng, đó là đừng bao giờ nói đồng ý ở bất cứ đâu, về bất cứ điều gì, cho dù có biết rõ mục đích của nó hay không. Nếu bạn đồng ý về một thứ, không quan trọng là thứ gì, bạn sẽ thấy mình đồng ý thứ tiếp theo ở đâu đó trên cùng con đường ấy, một cách dễ dàng hơn nhiều.
“Không.” Cô cương quyết nói. “Có thể tôi là kẻ ngốc, nhưng tôi không muốn bất cứ khoản thù lao nào mà tôi đã không nhảy để kiếm được. Không phải từ anh, hay từ bất cứ ai.” Và lần này cô hoàn tất hành động rời khỏi anh ta, xoay gót và bước đi trên mặt sàn trống trơn mà họ gần như là hai người cuối cùng còn đứng trên đó.
Cô liếc mắt nhìn nơi cô đã bỏ lại anh ta, từ cửa phòng thay đồ nằm đối diện phòng nhảy. Hành động này giống một phản xạ đi kèm với việc mở cửa để bước vào, hơn là một hành động cố ý.
Cô có thể thấy đôi tay anh ta đang thực hiện động tác giống như bóp chặt để đống vé nhảy kia ép lại vào nhau. Rồi anh ta dửng dưng ném quả bóng giấy đó ra xa, quăng qua phía rìa sàn gỗ rồi quay người rảo bước ra ngoài tiền sảnh.
Tổng cộng anh ta đã nhảy với cô sáu suất liên tiếp. Anh ta vừa mới ném đi số vé nhảy trị giá hơn chín đô la. Và đó không phải hành động làm màu hay diễn kịch để gây ấn tượng; cô dám chắc là anh ta thậm chí còn không hề biết rằng cô đã thấy anh ta làm việc đó.
Quá thoải mái với tiền của mình, như thể anh ta không biết phải làm gì với chúng, chỉ muốn tống khứ chúng đi càng nhanh càng tốt. Nếu điều đó có ý nghĩa gì, thì chỉ có thể là anh ta không quen với việc có tiền. Bởi vì đến lúc này, cô đã đủ khôn ngoan để biết được rằng, những ai đã từng quen với việc có tiền, dù ngắn hay dài, cũng sẽ không bao giờ lúng túng về việc phải làm gì với chúng.
Cô nhún một bên vai, bước vào phòng thay đồ và đóng cửa lại.
Cô gọi bước tiếp theo này, việc rời khỏi nơi làm việc, là chịu khổ hình, song giờ đây nó không còn khiến cô cảm thấy chút kinh hoàng thực sự nào nữa. Nó cũng giống như bước qua một vũng nước bẩn nằm trên đường; bất tiện, nhưng chỉ sau một khoảnh khắc là bạn đã ở bên kia và hoàn toàn đoạn tuyệt với nó.
Những bóng đèn lại tắt đi, lần này là tắt hẳn, khi cô bước ra. Chỉ còn lại một cái ở đằng sau để những người quét dọn có ánh sáng làm việc. Cô nói với ai đó, hoàn toàn khuất sau lưng cô khi đóng cửa phòng thay đồ, “Chà, vậy thì đừng bao giờ đề nghị tôi đi cùng anh tới một cuộc hẹn hò đôi nữa, và anh sẽ không bị từ chối!” Cô đi ra ngoài, men theo một bên của khoảng không gian âm u, trống rỗng, sâu hun hút; những tiếng bước chân của cô bị ngắt bởi tấm thảm chạy dọc theo lối đi trên sàn, chỉ trừ một góc ngoặt và tiếng bước chân của cô vang vọng trên nền ván gỗ trống rỗng trong khoảnh khắc ấy.
Những tông bậc của bóng tối đã tự động đảo ngược. Lúc này bên ngoài các khung cửa sổ đang mở sáng hơn bên trong vũ trường. Cô đi qua bên hai khung cửa sổ cuối cùng, và người bạn của cô, đồng minh và đồng lõa của cô, lại hiện ra ở đó, nổi bật trên nền trời. Đầu cô hơi quay về phía nó khi cô hối hả bước qua, cho tới khi khung cửa sổ tách rời hai bên theo đà bước đi. Nếu có bất cứ thông điệp hay ánh mắt biết ơn chóng vánh nào vào khoảnh khắc ấy, thì đó là giữa cô và người bạn ấy.
Cô đi qua cửa xoay và bước ra ngoài tiền sảnh vẫn sáng đèn, chạy đến đầu cầu thang, nơi có hai khoang hõm vào trong tường dành cho người bán vé và người phụ trách phòng gửi đồ, cùng hai cái ghế mây ọp ẹp.
Ở bên ngoài vẫn còn hai người. Luôn luôn còn lại ai đó. Họ luôn nán lại. Cho dù cô có đợi đến sáng để bước ra ngoài, kiểu gì cũng vẫn sẽ còn một, hai người vẩn vơ ở đó. Một người, với một chân tựa vào rìa ghế, hẳn là đang đợi ai đó vẫn ở bên trong; anh ta chỉ nhìn cô một cách chiếu lệ. Người còn lại, đứng ngay trên đầu cầu thang, cô nhận ra khi đi ngang qua, chính là người vừa cùng cô trải qua khoảng sáu lượt nhảy trước đó.
Tuy nhiên, anh ta đang chăm chú nhìn xuống cầu thang ra ngoài phố hơn là ngóng vào bên trong, về phía khung cửa cô vừa đi qua. Như thể anh ta bị níu lại vì không thể quyết định được nên đi đâu, hơn là dự định muốn gặp ai đó. Thực sự là, từ ánh mắt ngạc nhiên của anh ta khi cô đi ngang qua, cô có thể chắc chắn rằng đến tận lúc ấy anh ta mới trông thấy cô.
Cô đã có thể đi qua mà không nói lời nào, nhưng bàn tay anh ta đã đưa lên mũ – lúc này anh ta đã có một cái mũ trên đầu – và anh ta nói, “Giờ cô về nhà sao?”
Nếu ở trong nội tâm cô đã thật khắc khổ, thì ở bên ngoài, trong tiền sảnh này, cô lại càng tỏ ra cay độc. Nơi đây hoàn toàn là lãnh thổ của kẻ địch. Không có nhân viên bảo vệ nào ở đây để bảo vệ cô, cô chỉ có một mình. “Không, tôi vừa mới đi vào. Tôi đi giật lùi lên cầu thang để người ta không thấy được khuôn mặt tôi, không nhận ra tôi là ai.”
Cô bước xuống các bậc cầu thang bằng thép có bọc một lớp đệm cao su và ra ngoài. Anh ta ở lại đằng sau, ở trên kia, như thể vẫn chưa biết nên làm gì. Và không phải anh ta đang chờ ai đó, vì trong đó chỉ còn lại một cô gái chưa ra, và cô này thì đã có người chờ sẵn. Một lần nữa, cô lại khẽ nhún vai, nhưng chỉ trong tâm tưởng chứ không phải ngoài thực tế. Điều đó có là gì với cô đâu cơ chứ? Bất cứ điều gì, bất cứ ai cũng có ý nghĩa gì với cô đâu?
Không khí ngoài trời thật dễ chịu. Hẳn là bất cứ thứ gì cũng sẽ trở nên dễ chịu, sau khi đã phải trải qua chốn trên kia. Cô luôn thở ra một hơi thật dài vào khoảnh khắc đầu tiên bước ra ngoài, phần vì nhẹ nhõm, phần vì kiệt sức. Giờ cô cũng đang làm thế.
Ở dưới phố chính là vùng nguy hiểm thực sự. Có hai bóng người mơ hồ tha thẩn gần đó, cách bên phải cửa ra một chút, điếu thuốc vắt vẻo trên miệng, hai bóng người mà cô luôn kìm mình không đưa mắt nhìn khi ra ngoài, rẽ, và đi ngược lên đầu phố. Mấy cái bóng ấy luôn ở đó; cô chưa từng thấy bọn họ vắng mặt. Chẳng khác gì mấy con mèo đực canh chừng bên hang chuột. Những người nấn ná ở trên kia, theo quy luật, là những người đang đợi một cô gái cụ thể nào đó; những người nấn ná ở dưới này, là những người đang đợi bất cứ ai.
Cô đã biết nằm lòng mối nguy này. Cô có thể viết cả một cuốn sách về nó, nhưng cô sẽ không bôi bẩn những trang giấy trắng đẹp đẽ chỉ để làm chuyện đó, vậy thôi. Luôn có một khoảng thời gian trễ trước khi có thách thức trực tiếp. Điều này không bao giờ xảy ra tại điểm kề cận nhất, tại cửa ra vào; nó luôn được giữ lại cho tới khi cô đã đi xa được một đoạn. Đôi khi cô nghĩ rằng nguyên nhân của nó là lòng can đảm. Thay vì đối diện chặn đầu con chuột, mấy gã mèo đực can trường lại đợi đến khi nó quay lưng lại. Đôi khi cô lại nghĩ, chỉ đơn giản là bởi bộ óc cằn cỗi của bọn họ cần thêm chừng đó thời gian để đi đến quyết định lựa chọn con mồi. Đôi khi cô chỉ nghĩ, Ôi, khốn kiếp. Và thường xuyên, rất thường xuyên, cô không hề nghĩ về việc đó; đó chỉ đơn thuần là một vũng nước bẩn cần bước qua trên đường về nhà.
Tối nay, thách thức đến dưới dạng một tiếng huýt sáo. Nó thường đến dưới dạng đó, và không phải là một tiếng huýt sáo lanh lảnh chân thật, cởi mở. Tiếng huýt sáo này đột ngột, lén lút. Cô biết là nó dành cho mình. Rồi sau đó là phần tái bút bằng lời nói. “Cô em sao phải vội thế?” Cô chẳng buồn bước nhanh hơn; làm thế sẽ là dành cho cái thách thức đó nhiều sự tôn trọng hơn nó xứng đáng được nhận. Khi những kẻ đó nghĩ cô sợ, chúng sẽ càng táo tợn hơn...
Một bàn tay túm lấy khuỷu tay cô, níu lại. Cô không tìm cách giật tay ra. Cô dừng phắt lại, nhìn xuống bàn tay đó thay vì nhìn lên khuôn mặt gã đàn ông.
“Bỏ tay ra khỏi người tôi.” Cô nói với giọng lạnh lùng đe dọa.
“Có chuyện gì thế, cô em không biết anh à? Trí nhớ ngắn hạn quá nhỉ?”
Đôi mắt cô là hai vệt trắng thẳng hàng nổi bật trên phố đêm. “Nghe này, giờ tôi hết giờ làm rồi. Nói chuyện với mấy gã như anh ở trong đó là quá đủ...”
“Nhưng mà hai đêm trước thì tôi đã đủ tốt với cô, khi ở trên kia, phải vậy không?” Gã đàn ông lúc này đã theo đà của bàn tay vòng ra phía trước, đứng chặn đường cô.
Cô sẽ không lùi bước, thậm chí sẽ không dành cho gã sự tôn trọng bằng việc cố gắng đi vòng qua gã. “Một người tiêu pha bạo tay.” Giọng cô đều đều. “Phung phí sáu mươi cent trong một đêm, và giờ anh đang cố gắng thu lợi tức ở dưới này, trên vỉa hè.”
Một chiếc taxi đã lặng lẽ nhích tới bên lề đường, được gọi lại bởi một cử chỉ ra hiệu kín đáo của gã đàn ông, mà cô đã không để ý thấy, cửa xe để mở đầy mời chào.
“Được rồi, cô em đúng là cao giá; cô em đã diễn rất đạt. Anh tin cô em. Đi nào, anh đã gọi cả một chiếc taxi đây này.”
“Tôi thậm chí sẽ không lên một toa xe điện vé năm cent với anh, chứ đừng nói là chui vào một chiếc taxi.”
Gã đàn ông tìm cách hướng cô về phía chiếc xe, một phần bằng sức ép gián tiếp, một phần bằng sức mạnh của đôi tay.
Cô xoay xở đóng sầm cánh cửa lại, và rồi nó trở thành một điểm tựa khi gã đàn ông ép cô áp lưng lên đó.
Một người đàn ông dừng lại đối diện với hai người họ. Đó là người còn lại đã ở ngoài tiền sảnh trên lầu khi cô đi ra. Cô trông thấy bóng dáng anh ta khi nhìn qua vai gã đàn ông trước mặt. Cô không lên tiếng gọi hay đề nghị anh ta giúp đỡ theo bất cứ cách nào. Cô chưa từng đề nghị sự giúp đỡ từ những vị khách vãng lai. Bằng cách đó, cô chắc chắn sẽ không bao giờ phải thất vọng. Dù sao thì chuyện này cũng chẳng là gì hết; chỉ một phút nữa thôi, nó sẽ kết thúc.
Anh ta lại gần hơn, nói với cô bằng giọng do dự, “Cô có muốn tôi làm gì đó không, thưa cô?”
“À, đừng có chỉ đứng đó như thế. Anh nghĩ đây là chuyện gì nào, một buổi thử giọng cho Goodwill Hour chắc? Nếu anh cũng là loại vai u thịt bắp, hãy gọi cảnh sát đi.”
“Ồ, tôi không cần phải làm vậy, thưa cô.” Anh ta trả lời với một thái độ khiêm tốn theo kiểu chối bỏ thật lạ lùng, hoàn toàn không phù hợp với hoàn cảnh.
Anh ta xoay gã đàn ông kia về phía mình, và cô nghe thấy cú đòn, thay vì nhìn thấy. Nó tạo nên một chấn động mạnh vào lớp xương chỉ có một lớp da thịt mỏng đệm phía ngoài, vậy nên hẳn là nó phải nhắm vào bên hàm của gã. Kẻ hứng đòn loạng choạng lùi lại, va vào thanh chắn bùn đằng sau chiếc taxi và mất thăng bằng, trượt nhào theo đường lượn của nó lăn xuống đất, nửa người dưới sõng soài ra, nửa người trên nhổm thẳng chống trên một khuỷu tay.
Không ai trong ba người cử động trong một phút tiếp theo.
Rồi thành viên đang ngồi dưới đất của cái nhóm nhỏ này lom khom nhổm dậy, với một cử động thụt lùi lạ lùng, lui người ra sau với hai chân trên mặt đất, cho tới khi gã dám chắc rằng mình có thể đứng lên ở khoảng cách an toàn, ngoài tầm của những cú đòn tiếp theo. Khi đứng dậy, gã quay người, không hề tỏ vẻ đe dọa hay có dấu hiệu thù hận, như một người quá thực tế để có thể lãng phí thời gian vào những trò anh hùng và vội vã tháo lui khỏi tầm mắt hai người còn lại, vừa đi vừa phủi bụi dưới chân.
Chiếc taxi rút lui theo sau; viên tài xế đã quyết định rằng chẳng có gì ở đây dành cho anh ta hết, sau một cái nhìn dò hỏi để xem cô gái có định tận dụng chiếc xe cùng với người bạn đồng hành mới hay không.
Lời cảm ơn của cô khó lòng có thể gọi là nhiệt thành. “Anh luôn chờ lâu đến vậy sao?”
“Tôi không biết liệu gã đó có phải là người bạn đặc biệt của cô hay không”, anh ta lẩm bẩm phản đối.
“Theo ý anh thì những người bạn đặc biệt có quyền bắt cóc anh trên đường về nhà. Đó có phải là điều anh vẫn làm không?”
Anh ta khẽ mỉm cười. “Tôi chẳng có người bạn đặc biệt nào cả.”
“Anh có thể gấp đôi nó lên”, cô nói quả quyết, “và anh có thể thêm cả tôi vào, tôi cũng không muốn có người bạn đặc biệt nào hết.” Rồi cô nhìn anh ta, như thể bổ sung một chút dấu ấn cá nhân cho nhận xét vừa rồi.
Có vẻ như cô sắp sửa quay đi và tiếp tục lộ trình của mình mà không định nói gì thêm. “Tên tôi là Quinn Williams.” Anh ta buột ra, như thể muốn tìm cách giữ cô lại thêm một lát nữa bằng những lời này.
“Rất vui được gặp anh.” Những lời này không được thốt lên với giọng vui vẻ như dụng ý vốn có của nó. Nghe giống như một đồng quarter bằng chì[1] rơi xuống nảy lên trên mặt quầy bằng kẽm.
Cô trở lại với cuộc rút lui của mình, hay đúng hơn là tiếp tục mà chẳng hề có ý định làm nó bị gián đoạn.
Anh ta quay lại, nhìn về hướng kẻ quấy rối vừa khuất dạng. “Cô có nghĩ tôi nên đi cùng cô khoảng một, hai dãy nhà không?” Anh ta gợi ý.
Cô không đồng ý mà cũng chẳng phản đối. “Hắn sẽ không trở lại đâu”, là tất cả những gì cô nói. Anh ta coi câu trả lời không dứt khoát của cô là sự đồng ý hoàn toàn và bước tới bên cạnh cô, dù vẫn giữ khoảng cách xã giao cỡ vài bước chân.
Họ im lặng đi qua một dãy nhà từ lối vào vũ trường; cô là vì đã quyết định không nói bất cứ lời nào, còn anh ta – căn cứ vào mấy lần khởi sự bị chết non trước đó – là vì không đủ khả năng cho việc này, vì tự biết mình, vì không biết phải nói gì vào lúc này, khi đã thành công trong việc được tháp tùng cô.
Họ băng qua một giao lộ, và cô thấy anh ta nhìn lại phía sau. Cô không bình luận gì.
Dãy nhà thứ hai cũng được vượt qua trong sự im lặng nặng nề như thế. Cô nhìn thẳng về phía trước, như thể chỉ có một mình. Cô không nợ anh ta bất cứ điều gì, cô không hề yêu cầu anh ta đi cùng mình.
Họ tới chỗ giao lộ thứ hai và cũng là cuối cùng. “Đến đây tôi rẽ về phía Tây.” Cô nói ngắn gọn rồi rẽ sang bên, như một lời từ biệt.
Anh ta không hiểu được ngụ ý đó. Anh ta rẽ sau cô và bắt kịp ngang hàng, khẽ nói gì đó không rõ, đại loại là, “Đã đi đến tận đây rồi thì tôi sẽ đi tiếp quãng đường còn lại.”
Tuy nhiên, cô thấy anh ta lại liếc nhìn đằng sau, chỉ giây lát trước khi làm như vậy. “Đừng để hắn khiến anh lo lắng.” Cô nói với giọng cay nghiệt. “Hắn đã biến hẳn rồi.”
“Ai cơ?” Anh ta hỏi một cách vô thức. Rồi như thể nhớ ra cô đang ám chỉ kẻ nào. “Ồ, không phải tôi đang nghĩ về hắn đâu.”
Cô đột ngột dừng lại, đưa ra một tối hậu thư. “Nghe này.” Cô nói. “Tôi không hề đề nghị anh đi theo tôi suốt quãng đường về nhà. Nếu anh muốn thì đó là việc của anh. Chỉ cần nhớ một điều. Hãy giữ cho suy nghĩ của anh tỉnh táo. Đừng nảy ra ý tưởng gì đó.”
Anh ta im lặng chấp nhận. Anh ta không hề lên tiếng phản đối rằng cô đã đánh giá nhầm anh ta. Đó gần như là điều đầu tiên cô thích ở anh ta, là nhận xét tích cực đầu tiên cô cho phép mình đưa ra, kể từ khoảnh khắc đầu tiên anh ta xuất hiện ở gần cô một hay hai giờ trước. Nhưng cô có một đầu óc đầy định kiến với bất cứ ai xuất hiện trong cuộc đời của mình theo cách giống như anh ta. Một đầu óc từ lâu đã học được rằng, ban đầu cô càng thấy bọn họ ít đáng ghét thì cô càng phải cẩn thận nhiều hơn, vì cuối cùng nhiều khả năng họ sẽ chứng tỏ mình là kẻ đáng ghét hơn nhiều, khi mà sự cảnh giác của cô đã phần nào giảm xuống.
Họ lại tiếp tục đi, vẫn duy trì khoảng cách vài bước chân, vẫn không trò chuyện, chỉ cùng nhau đi về phía trước. Đây là sự tháp tùng lạ lùng nhất cô từng có, và nếu cô bắt buộc phải có sự tháp tùng, cô muốn rằng tất cả đều giống như thế này.
Họ đi ngược lên một con đường nhỏ tối om như đường hầm, từng một thời có một tuyến tàu điện trên cao đi tới đại lộ Chín chạy qua. Giờ đây đường tàu đã được gỡ bỏ, song sự phát triển của nó vẫn bị đình đốn sau sáu mươi năm phải chịu đựng sự trói buộc. Những bức tường không có cửa sổ trông như những tấm ván lát của các nhà kho, mặt sau lượn cong của một sân trượt băng nổi tiếng trông giống như thùng chứa xi măng, những khoảng trống há hoác ra đây đó dọc theo các dãy nhà như chứng tích của cuộc Đại suy thoái, nhất là ở các lô đất góc, những nơi chẳng bao giờ được xây dựng lại và hiện được dùng làm bãi để xe.
Những cột đèn đường rất ít và nằm cách xa nhau, thỉnh thoảng lại trùm lên họ một dải sáng trắng mờ mờ như lớp bột tan trong một, hai giây, như thứ gì đó rơi lả tả xuống từ chỗ thủng của một cái thùng chứa lộn ngược, rồi sau đó hình bóng của cả hai lại đen thẫm trở lại, hòa vào bóng tối.
Cuối cùng anh ta là người mở lời. Cô không thể nhớ chính xác, nhưng cô nghĩ đó là lần đầu tiên anh ta đưa ra ý kiến, kể từ cuộc ẩu đả ở chỗ chiếc taxi. “Ý cô là cô đi qua chỗ này một mình, vào tất cả các buổi tối sao?”
“Tại sao lại không? Chỗ này cũng chẳng tệ hơn đằng đó. Ở chỗ này, nếu có kẻ túm lấy anh thì chỉ có thể là chúng đang nhắm tới ví tiền của anh mà thôi.” Rồi cô muốn nói thêm, “Sao, anh sợ à?” nhưng rồi lại thôi. Chủ yếu là vì anh ta đã không nói hay làm gì đáng để bị châm chích, ít nhất là cho tới lúc này, và cô đã quá mệt mỏi với việc lúc nào cũng sẵn sàng giơ vuốt ra; thật tốt khi thỉnh thoảng có thể để chúng ở yên tại chỗ.
Anh ta lại ngoái nhìn đằng sau. Cho tới lúc này, đó đã là lần thứ hai hay thứ ba anh ta làm vậy. Cho dù thực sự có thứ gì đó ở sau lưng họ thì lúc này, trong bóng tối mà họ đi qua, anh ta cũng không thể trông thấy nó.
Lần này cô không để mặc nó nữa. “Anh sợ cái gì vậy, hắn sẽ đuổi theo anh với một con dao chắc? Hắn sẽ không làm thế đâu, đừng để chuyện đó khiến anh lo lắng.”
“Ồ, là hắn”, anh ta nói, “cô muốn nói tới gã đó”, và nhìn cô với ánh mắt ngạc nhiên, như thể thêm một lần nữa cô đã làm anh ta bừng tỉnh khỏi một dòng suy nghĩ cách xa dòng suy nghĩ của cô. Anh ta mỉm cười bẽn lẽn, đưa tay vuốt sau gáy, như thể lỗi sai nằm ở đó chứ không phải ý muốn của anh ta. Một giây sau, anh ta bày tỏ nó thành lời, nửa nói với chính mình. “Bản thân tôi không hề biết tôi đang làm thế. Hẳn đó là một thói quen đã hình thành.”
Trong đầu anh ta đang có điều gì đó, cô tự nhủ. Người ta không ngoái lại nhìn sau lưng như thế sau vài bước trên đường. Và kể cũng thật lạ là cô tin anh ta, rằng điều đó không liên quan gì đến trận đánh lộn lúc trước. Cách anh ta phản ứng mỗi lần cô bắt gặp anh ta làm thế đã chứng tỏ điều đó. Sự cảnh giác của anh ta không nhằm vào khoảng vỉa hè sau lưng họ, hay ai đó đang lẩn lút phía sau; nó chung chung hơn, rộng hơn, nó là toàn bộ bóng đêm đã ở lại sau lưng anh ta. Theo hai chiều, cả về chiều rộng thời gian và chiều sâu không gian rộng khắp của nó.
Và bây giờ, khi cô nhớ lại hành động ấy, hành động điên rồ mua cả đống vé nhảy chỗ vũ trường, rồi sau đó xa xỉ vứt tất cả đi, như thể chúng đã mất đi giá trị cùng với buổi tối hôm nay, như thể sau này sẽ không còn thời điểm nào để sử dụng chúng nữa, cô nhận ra rằng chúng thật ăn khớp với nhau.
Cô nhớ ra một việc nữa và quyết định hỏi anh ta.
“Khi tôi ra ngoài, còn anh đang đứng ở ngoài tiền sảnh, trên đầu cầu thang, anh biết đấy... Có phải anh đang chờ ai đó không?”
“Không.” Anh ta nói. “Không, tôi chẳng đợi ai cả.”
“Thế sao anh lại đứng đó, sau khi vũ trường đã đóng cửa?” Cô biết anh ta không hề chờ đợi ai, vì lúc ấy anh ta đang nhìn xuống các bậc cầu thang chứ không phải nhìn vào bên trong cửa.
“Tôi không biết.” Anh ta trả lời. “Tôi đoán tôi... không biết phải đi đâu, hay phải làm gì, sau khi chỗ ấy đóng cửa. Có lẽ tôi... tôi đang cố quyết định xem mình sẽ đi đâu.”
Vậy sao anh ta không đứng bên ngoài, ở lối ra; đó hẳn mới là vị trí mà anh ta nên đứng để suy nghĩ. Cô không hỏi anh ta điều đó. Câu trả lời đã tới cùng câu hỏi. Bởi vì anh ta sẽ không thể bị nhìn thấy khi ở tiền sảnh trên lầu, anh ta sẽ được an toàn ở đó; nếu ở dưới nhà, ngoài lối ra phố, anh ta sẽ có thể bị phát hiện, nếu như có ai đó đang tìm anh ta. Hay nếu anh ta nghĩ là có người đang làm vậy.
Nhưng cô không hỏi anh ta, chủ yếu vì một lý do khác, không phải vì lời tự giải thích đó đã thuyết phục được cô. Cô không hỏi anh ta vì đầu óc cô cũng vừa tắt phụt đi ở điểm này, như một khung cửa lưới sắt bắt gặp mình đang mở; đóng sập lại với tiếng rin rít chói tai, trong đó không có sự khoan dung, không có sự chấp nhận dành cho bất cứ ai. Mày quan tâm cái gì chứ? Điều đó có ý nghĩa gì với mày đâu? Mày muốn biết về nó để làm gì? Cứ để anh ta giữ nó cho riêng mình. Mày là ai, một cô y tá đi lo việc bao đồng à? Đã từng có ai lo lắng cho mày chưa?
Và trong sự im lặng cay nghiệt, cô mắng nhiếc chính mình.Mày vẫn chưa học được gì hay sao? Người ta hành hạ mày thâm tím bầm dập, và mày vẫn chìa bàn tay ra cho kẻ tiếp theo xuất hiện. Phải cần đến thứ gì để nhét nó vào đầu mày đây, một trận đòn với một đoạn ống nước bằng chì chăng?
Anh ta lại ngoái nhìn ra sau, và cô để mặc anh ta làm vậy.
Họ đã tới đường Chín, rộng rãi và ảm đạm trong cảnh tối tăm bẩn thỉu. Nhũng bóng đèn đỏ và trắng đang nhấp nháy chớp sáng liên tục dọc theo con phố cũng không thể làm nó khác hơn.
Họ dừng lại trong thoáng chốc, các ngón chân đặt lên lề đường. Chuỗi bóng đèn nhấp nháy chậm lại, biến thành những cái mũ miện bẩn thỉu, quay lưng đối diện nhau, hai cái ở mỗi giao lộ, chạy dài suốt cả khung cảnh không ngừng chập chờn chuyển động; tất cả rồi sẽ lại tắt phụt, trở thành những đốm sáng tỏa ra như trước đó, chỉ sau một thoáng chốc nữa.
Cô đã bước xuống. Có một khoảnh khắc chùn lại từ phía anh ta. Một lần xuất phát lỡ trớn, không gì hơn. Một chuyện nhỏ. “Đi nào, ánh sáng ổn mà”, cô nói. Anh ta đi theo cô ngay lập tức, nhưng cú sững lại khó hiểu đã để lộ nội tâm của anh ta. Kết quả đã có, vậy thì nguyên nhân hẳn phải nằm đâu đó xung quanh, chỉ cần nhận diện nó. Rồi cô nhận ra rằng không phải ánh sáng đã khiến anh ta sững lại, mà là một bóng hình đơn độc ở tận bên kia đường, đang đi mỗi lúc một xa khỏi họ. Một viên cảnh sát tuần tra đang thực hiện nhiệm vụ.
Cô nhận ra điều đó từ cách đôi mắt anh ta quay lại sau khi dõi theo viên cảnh sát, và sau đó mới ngước lên nhìn ánh sáng, bị thu hút về hướng nó bởi nhận xét của cô.
Khung cửa lưới sắt vẫn tiếp tục bướng bỉnh đóng kín.
Họ bước lên vỉa hè đối diện rồi đi tiếp, lọt thỏm vào trong bóng tối của dãy nhà tiếp theo về phía Tây. Ba quầng sáng yếu ớt cách rất xa nhau sâu vào trong chiều dài dường như vô tận chẳng giúp bóng tối loãng ra được chút nào; chúng chỉ càng khiến nó rõ hơn bằng cách đem đến sự đối lập. Như thể nó đang nói, Nhìn xem, ánh sáng là thế này đây...
Trong không khí lúc này lơ lửng thứ hơi ẩm lạnh, một cảm giác về sự hiện diện của nước ở gần đó, điều vắng mặt ở những khu vực xa hơn. Một tiếng còi tàu vang lên buồn thảm đâu đó phía trước họ. Rồi một tiếng còi nữa vang lên trả lời, ở tận gần bên bờ phía Jersey.
“Sắp đến nơi rồi.” Cô nói.
“Trước đây tôi chưa bao giờ đi xa thế này.” Anh ta thừa nhận.
“Anh không thể ở cách xa bờ sông hơn thế này khi chỉ có năm đô la mỗi tuần.” Rồi sau đó, dù cô nhận thấy rằng anh ta đã không đưa ra bất cứ sự phản đối nào, cô cũng không đừng được, nói thêm, “Anh có thể dừng lại bất cứ khi nào anh thấy chán.”
“Tôi chưa thấy chán.” Anh ta khẽ nói đầy xã giao.
Cô mở túi và lục tìm chìa khóa cửa trước; một phản ứng chuẩn bị để chắc chắn rằng chìa khóa vẫn ở đó.
Cô dừng lại, khi họ tới giữa luồng sáng và nó lại rắc bột lên họ, biến họ trở lại hữu hình. “Là ở đây”, cô nói.
Anh ta chỉ nhìn cô. Cô nghĩ nó thật ngu ngốc, cái cách mà anh ta nhìn cô. Giống như ánh mắt của một con bò. Có lẽ anh ta đang cố nắm bắt sự thật rằng họ đang chia tay và anh ta sẽ một lần nữa chỉ có một mình. Hoặc cái gì đó đại loại như thế. Ít nhất thì ở đây cũng chẳng có gì khác; chẳng có chút tham vọng yêu đương nào.
Đối diện họ có một khung cửa, hoặc gần như vậy. Nó được để mở ra phố, được chiếu sáng nhờ một bóng đèn màu vàng chanh nhợt nhạt leo lét hắt từ sâu bên trong ra và không đủ sức vươn đến tận cửa, để lại một vùng giao thoa tranh tối tranh sáng. Thế vẫn tốt hơn là không có gì. Trước đây người ta để cửa vào tối om, và cô đã rất sợ hãi khi phải bước qua đó vào những lúc tối muộn. Cho tới khi một người bị đâm bằng dao trên cầu thang vào một buổi tối, từ đó người ta mới để lại một ngọn đèn bật sáng ở dưới chân cầu thang. Bây giờ, cô ngẫm lại một cách ghê tởm, cô có thể thấy kẻ đâm mình bằng dao nếu việc đó xảy đến với cô.
Cô cắt ngắn phần chia tay của họ; tiến hành nó trong khi giữ anh ta lại nơi anh ta đang đứng bằng cách dựng lên một rào chắn chỉ với vài từ. Điều đó chỉ đơn giản là để tăng thêm khoảng cách, để tránh tầm với của một cánh tay. Cô đã học được cách để thực hiện một màn từ biệt như thế từ kinh nghiệm của bản thân, và rằng đừng bao giờ đứng im lắng nghe những lời trách cứ và những phản đối đều đều. Cô phải làm vậy.
“Hãy thoải mái nào.” Cô nói. Rồi đột nhiên cô đã đứng ở ngưỡng cửa còn anh ta đứng một mình trên vỉa hè. “Tôi sẽ gặp lại anh.” Cô nói từ nơi đang đứng, và ngụ ý điều ngược lại, rằng cô sẽ không bao giờ gặp lại anh ta, anh ta sẽ không bao giờ gặp lại cô, câu chuyện kết thúc ở đây.
Nhưng thậm chí từ trước khi bước hẳn vào trong, cô lại thấy anh ta quay đầu nhìn về phía sau, vào bóng tối nơi họ vừa đi qua. Trong tâm trí anh ta lúc này, phần sợ hãi hẳn đang áp đảo phần tình cảm.
Anh ta là gì với cô cơ chứ? Anh ta chỉ là một cái vé nhảy màu hồng, bị xé làm đôi. Một khoản cung cấp dịch vụ trị giá hai cent rưỡi không hơn không kém. Một đôi bàn chân, một thứ trống rỗng, một kẻ vô giá trị.