← Quay lại trang sách

- 3 - 2 giờ kém 21 phút

Anh buông tay khỏi quả đấm cửa, quay lại chỗ cô. Anh không nói gì thêm. Anh lật ngược áo khoác, lần theo lớp vải lót xuống phía diềm. Anh tháo ghim cài khỏi cái khe có vẻ đã được cố ý tạo ra bằng một con dao hay lưỡi lam. Anh loay hoay lôi thứ gì đó qua bằng những ngón tay đút vào một cách khéo léo. Đột nhiên, một xấp tiền được cột bằng dây chun rơi ra trên bàn. Tờ bạc trên cùng là một tờ năm mươi đô la. Anh chuyển sang vạt bên kia, mở một khe rạch tương tự. Xấp tiền thứ hai rơi xuống, cạnh xấp thứ nhất. Lần này ở trên cùng là một tờ một trăm đô la.

Việc này khiến anh mất chút thời gian. Anh đã nhét các xấp tiền dàn đều quanh diềm áo khoác để chúng không quá phồng, làm lộ sự có mặt của mình. Anh vẫn còn nhiều xấp nữa trong các túi khác. Thậm chí còn có cả một xấp tiền được buộc vào bên cạnh chân, bên trong tất. Khi anh xong việc, có sáu xấp tiền được cột dây xếp ngay ngắn trên bàn, phần còn lại của xấp thứ bảy đã bị rút ra và tiêu mất một phần.

Khuôn mặt cô hoàn toàn vô cảm. “Chỗ này là bao nhiêu?” Cô hỏi với giọng đều đều.

“Bây giờ tôi cũng không rõ nữa. Chắc vẫn còn khoảng hai nghìn tư. Ban đầu có hai nghìn rưỡi.”

Khuôn mặt cô vẫn không biểu lộ gì. “Anh kiếm được chỗ này ở đâu vậy?”

“Ở một nơi mà tôi không có quyền lấy.”

Cả hai không nói gì trong vài phút. Như thể chẳng hề có một số tiền lớn đang nằm đó.

Rồi cuối cùng, không cần hối thúc thêm, anh bắt đầu nói về chuyện đó. Có thể vì cô cũng có gốc gác từ cùng thị trấn với anh, và anh phải nói với ai đó. Cô là cô gái hàng xóm, người mà anh hẳn sẽ tâm sự về những rắc rối mà mình gặp phải, nếu họ vẫn đang ở thị trấn quê nhà. Ở đó hẳn anh sẽ chẳng có vấn đề nào như thế này để nói với cô, nhưng ở đây thì có, vậy nên anh nói về nó ở đây.

“Tôi đã làm phụ việc thợ điện cho đến gần đây. Kiểu như thợ học việc hay thợ phụ vậy, cô muốn gọi sao cũng được. Cũng chẳng to tát gì, song dù sao cũng là một công việc. Chúng tôi làm đủ việc, mỗi thứ một ít, từ sửa máy thu thanh, chuyển đổi chúng từ chế độ dòng điện này sang chế độ khác, sửa bàn là, máy hút bụi, gắn thêm bảng điện trên tường hoặc nối thêm dây điện tại nhà, sửa chuông cửa... Cô biết đấy, đủ thứ việc kiểu đó.

Đó không phải là thứ mà tôi tới đây để kiếm tìm, nhưng vẫn tốt hơn rất nhiều so với mấy tuần đầu tiên, khi mà tôi phải ngủ trên các băng ghế công viên. Vậy nên tôi chẳng có gì để phàn nàn.

Thế rồi cách đây một tháng, tôi mất việc. Tôi không bị đuổi việc, chỉ là công việc đó không còn nữa. Ông thợ già bị một cơn đau tim và được khuyên phải nghỉ ngơi, vậy là ông ấy không làm việc nữa. Ông lão không có ai kế nghiệp, tôi không phải người thân của ông ấy, vậy nên xưởng cứ thế đóng cửa. Tôi lại rơi vào cảnh thất nghiệp. Tôi lang thang, vật vờ cả ngày, không thể tìm được công việc nào khác. Đúng hơn là không thể tìm được bất cứ công việc nào lâu dài, dù về điện hay bất cứ ngành nghề nào khác. Vài việc rửa bát đĩa ở một nhà hàng nhem nhuốc hay chạy bàn ở những quán ăn rẻ tiền... Thành phố đang chật vật, và cơ hội thì càng ngày càng hiếm. 1939 là một năm khó khăn, chuyện đó thì cô cũng biết rồi. Khi thấy mình đang lao xuống đáy, đáng lẽ tôi phải quay về nhà khi trong túi vẫn còn đủ tiền mua vé. Hoặc là viết thư về cho gia đình để xin tiền; họ hẳn sẽ gửi cho tôi. Nhưng mọi thứ lại diễn ra giống như chuyện của cô, có lẽ vậy. Tôi ghét phải thừa nhận rằng mình đã thất bại. Tôi đã tới đây theo chủ ý của bản thân, và tôi muốn tự đứng trên đôi chân của mình. Một gã khôn ngoan, tôi muốn được công nhận như vậy.”

Lúc này anh đang chậm rãi đi đi lại lại, hai tay đút sâu vào túi một cách chán nản, đầu cúi gằm nhìn xuống chân trong khi di chuyển.

Cô chỉ ngồi đó, chăm chú lắng nghe, nghiêng người về một bên, tay ôm lấy hông mình.

“Giờ tôi sẽ trở lại quá khứ và nói về một biến cố đã xảy ra vào mùa đông năm ngoái, vài tháng trước khi tôi mất việc. Đây là phần nghe có vẻ ám muội mà cô sẽ không muốn tin, nhưng nó đã xảy ra, đúng như tôi sắp kể với cô. Chúng tôi nhận được một công việc do khách hàng yêu cầu mà cứ thỉnh thoảng lại xuất hiện. Cửa hiệu nằm trên đường Ba, ngay bên rìa Gold Coast; cô biết đấy, cái khu vực hào nhoáng ở phố Bảy Mươi Đông ấy. Ông chủ của tôi đã làm ăn ở đó một thời gian dài, và ông ấy có tiếng là làm việc chu đáo, cẩn thận; cô sẽ ngạc nhiên nếu biết mọi người gọi cho ông ấy thường xuyên tới mức nào chỉ để làm việc gì đó trong nhà họ. Chúng tôi đã được đặt chân vào những dinh thự sang trọng nhất của thành phố.”

“À, dù sao thì cuộc điện thoại ấy cũng được gọi từ một tư dinh sang trọng nằm trên phố Bảy Mươi Đông. Chủ nhà đã mua một cái đèn tử ngoại để tắm nắng, giúp anh ta trông ngon nghẻ qua mùa đông thay vì phải tới Florida, và cái đèn này cần một ổ cắm đặc biệt lắp riêng trên tường phòng tắm để cắm điện. Tên anh ta là Graves. Nó có ý nghĩa gì với cô không?”

Cô lắc đầu.

“Với tôi cũng không. Cho đến giờ vẫn thế, sau tất cả những chuyện đã xảy ra. Ông chủ của tôi nói rằng nhà này thường xuyên xuất hiện trên các cột báo về xã hội thượng lưu, là một gia tộc lâu đời và tiếng tăm.

Chẳng phải ông lão chăm đọc các cột báo viết về xã hội thượng lưu đâu, nhưng ông ấy có vẻ biết mọi thứ về họ. Bản thân công việc cũng tương đối dễ. Chúng tôi mất ba ngày, nhưng đó là vì chúng tôi chỉ làm việc khoảng một giờ mỗi ngày để không gây quá nhiều phiền hà cho gia chủ.

Chúng tôi phải khoét một cái lỗ bằng cỡ nắm tay qua tường phòng tắm, sau đó nối một đoạn dây vào dây dẫn có sẵn, rồi kéo dây qua và nối với cái đèn. À, đó là một ngôi nhà cũ, các bức tường rất dày và chắc chắn; tôi chưa bao giờ thấy bức tường nào dày như thế. Một lần, khi tôi đang một mình đục tường – lúc ấy ông chủ không ở cùng tôi, mà đã về cửa hiệu lấy thứ gì đó – tôi đục phải một tấm gỗ. Tôi không biết đó là cái gì, nhưng tôi đổi hướng chếch đi để tránh nó. Sau đó, nó không gây phiền phức gì cho tôi nữa.

Thế rồi ngày hôm sau, tôi nghĩ là vậy, ai đó đã bước vào căn phòng cạnh nơi tôi đang làm việc. Bên đó có vẻ là thư viện hay phòng làm việc ở lầu hai, phía sau nhà. Người đó chỉ ở trong phòng một hay hai phút rồi lại đi ra.

Tôi nghe thấy tiếng rung nhẹ từ bức tường cạnh chỗ mình đang làm việc. Cửa giữa hai phòng mở ra, tôi ngả đầu liếc nhìn về sau. Ở phía đối diện có một chiếc gương, và tôi có thể thấy anh ta trong đó; anh ta đang đứng đối diện với bức tường tôi đang đục, chỉ cách chỗ tôi một chút. Anh ta mở thứ gì đó như một tấm ván gỗ – toàn bộ bức tường bên đó đều ốp ván gỗ tới chừng nửa chiều cao – và đang vặn đĩa số nhỏ trên một chiếc két đặt trong tường. Cái két không lớn lắm, loại két cỡ nhỏ mà người ta thường đặt trong phòng. Anh ta mở nó, lôi ra một ngăn kéo nông, và tôi thấy anh ta lấy ra một ít tiền, sau đó khóa két lại.

Tôi thậm chí không nán lại theo dõi thêm nữa. Tôi lập tức trở lại với công việc. Tôi không quan tâm. Tất cả những gì tôi quan tâm là rung động tôi có thể cảm thấy từ bức tường bên cạnh. Sau đó, tôi nhớ đến tấm gỗ hôm trước, vậy là tôi hình dung ra đó hẳn phải là mặt sau hay mặt bên của phần ván gỗ của cái hốc đặt chiếc két. Và tôi bỏ mặc suy nghĩ này ở đó, không bận tâm tới nó nữa. Tôi không yêu cầu cô phải tin; tôi hoàn toàn không trách cứ nếu cô nghi ngờ.”

“Lúc đầu tôi đã không tin khi anh nói rằng anh đến từ cùng thị trấn với tôi. Nếu chuyện đó là đúng thì tại sao chuyện này lại không chứ?” Đó là tất cả những gì cô nói.

“Vậy thì điều tôi sắp kể với cô còn khó tin hơn. Bản thân tôi cũng không biết nó đã xảy ra như thế nào; tôi chỉ biết rằng nó đã xảy ra và tôi không liên quan gì đến nó. Họ có một cái bàn nhỏ ở dưới nhà, ngay cạnh cửa ra vào. Vài lần, không hề cố ý, tôi để mở hộp đồ nghề của mình trên bàn, trong khi chúng tôi bận rộn làm việc trên lầu. Trong đó đôi khi xuất hiện những thứ không liên quan tới công việc của chúng tôi, mà có lẽ nguyên nhân là do đãng trí. Thế rồi, khi chúng tôi xong việc và quay về cửa hiệu, tôi bỏ hết mọi thứ trong hộp ra và thấy có thứ chắc đã bị rơi vào giữa đống dụng cụ, dây rợ và các món khác của tôi, do nhầm lẫn. Hoặc ai đó đã thả nhầm nó vào hộp, hoặc tự tôi đã cầm nhầm rồi bỏ vào hộp mà không biết, trong lúc thu dọn đồ đạc. Có một cô hầu gái mặt lúc nào cũng lờ đờ đã mở cửa cho chúng tôi một, hai lần, có thể cô ta đã gây ra nhầm lẫn này khi đang lau bụi quanh cái bàn, và nghĩ thứ đó là đồ nghề của tôi. Tôi chỉ biết rằng mình không cố ý làm việc đó, tôi thề với cô là tôi chỉ trông thấy nó khi đã về đến cửa hiệu. Đến giờ tôi vẫn không biết làm thế nào mà nó lại có mặt trong đó.”

“Đó là cái gì vậy?” Cô hỏi.

“Đó là chìa khóa cửa trước ngôi nhà, tôi đã mang nó theo trong hộp đồ nghề vì nhầm lẫn. Hay ít nhất thì nó là một trong những chiếc chìa khóa cửa trước.”

Cô chỉ nhìn anh, thật lâu và chăm chú.

Anh tiếp tục, “Tôi không biết nó chui vào trong đó bằng cách nào. Tôi chỉ biết rằng tôi đã không làm việc đó, không hề biết về nó cho tới khi nhìn thấy.” Rồi anh buông thõng tay xuống bên sườn. “Tôi không trông đợi sẽ có ai tin câu chuyện này.”

“Một giờ trước hẳn tôi đã không tin.” Cô thừa nhận. “Bây giờ thì tôi cũng không chắc nữa. Tiếp tục đi, hãy kể nốt câu chuyện.”

“Phần còn lại không cần phải kể nhiều, hẳn là cô có thể đoán được. Đáng lẽ tôi phải cho ông chủ biết về cái chìa khóa, và đưa nó cho ông ấy. Đáng lẽ tôi đã làm thế, nhưng ông ấy không còn ở cửa hiệu nữa; ông ấy đã về nhà và để mặc tôi lo việc đóng cửa. Khi đó lựa chọn tốt thứ nhì của tôi là trở lại ngôi nhà và trả chìa khóa cho họ, nhưng lúc ấy đã muộn và tôi thì vừa mệt vừa đói; tôi muốn ăn và nghỉ ngơi, bởi tôi đã làm việc cả ngày. Vậy là tôi để cái chìa khóa ở đó và dự định hôm sau sẽ ghé qua trả lại nó cho gia chủ không chút trì hoãn. Tôi cũng đã không làm việc đó. Tôi bận túi bụi từ tám giờ sáng cho tới tối mịt và chẳng có cơ hội để trả nó lại. Đến hôm sau nữa thì việc đó đã hoàn toàn trôi khỏi đầu óc tôi. Nó không còn ở đó nữa, đã hoàn toàn bị lãng quên.

Thế rồi chỗ làm đóng cửa như tôi đã kể với cô, và tôi rơi vào thế kẹt. Tiền của tôi hết nhẵn, và... ừm, nói ngắn gọn thì, hôm qua tôi đã lôi hộp đồ nghề ra xem liệu có thể đem cầm nó kiếm ít tiền được không. Tôi đã đem cầm gần như tất cả mọi thứ có thể. Tôi lôi cái hộp ra xem xét và thấy cái chìa khóa bên trong. Tôi trông thấy nó, và đột nhiên nhớ ra rằng nó từ đâu đến.

Tôi nhét chìa khóa vào túi, mặc đồ chỉnh trang rồi trở lại ngôi nhà. Tất cả những gì tôi nghĩ là biết đâu họ có thể thuê tôi làm một việc lặt vặt nào đó, thậm chí là vặn chặt lại một cái đui đèn cũng được.

Tôi tới đó, bấm chuông; không thấy ai ra mở cửa. Tôi tiếp tục bấm chuông; vẫn không thấy ai. Lúc ấy là khoảng đầu giờ chiều. Tôi đã định rời đi, nhưng không thể dứt khoát được. Tôi cứ tha thẩn quanh đó, tự hỏi nên làm gì tiếp theo. Thế rồi có một cậu nhóc giao hàng đi ra từ tòa nhà gần đó trông thấy tôi đang ngước nhìn ngôi nhà, chờ người ra mở cửa. Không cần tôi hỏi, cậu nhóc tự động nói luôn rằng trong nhà không có ai, họ đã về tư gia ở vùng nông thôn để nghỉ hè từ tuần trước. Tôi hỏi cậu nhóc, nếu thế thì tại sao họ không lấy ván bịt cửa ra vào và buông rèm các cửa sổ như mọi người vẫn làm. Cậu nhóc trả lời rằng, theo như cậu ta biết thì một thành viên của gia đình đã nán lại vài ngày nhằm hoàn tất chuyện làm ăn nào đó; nhiều khả năng ngôi nhà sẽ được đóng cửa cài then cẩn thận khi người này xong việc và sẵn sàng lên đường, gia nhập cùng các thành viên còn lại. Tôi hỏi xem cậu ta có biết lúc nào tôi có thể gặp người này không, về chuyện đó thì cậu nhóc cũng chẳng biết nhiều hơn, nhưng cậu ta gợi ý điều mà hiển nhiên ai cũng sẽ nghĩ đến, theo lẽ thường, rằng hãy thử đến gọi cửa vào buổi tối xem sao.

Vậy là tôi quay về phòng trọ và đợi đến tối. Chính trong khoảng thời gian đó, suy nghĩ ấy bắt đầu hình thành. Cô biết mà; chắc tôi không cần phải nói ra nó là gì.”

“Tôi biết.” Cô thừa nhận.

“Nó lớn lên một cách vô thức mà tôi không hề nhận ra, và những thứ kiểu đó đều xấu xa. Chúng giống như cỏ dại, thật khó để loại bỏ một khi chúng đã bắt rễ trong ta. Và có quá nhiều thứ hỗ trợ cho nó... tưới nước cho nó, cô có thể nói như vậy. Tôi đã tiêu đến tận đồng xu cuối cùng, tôi không thể kiếm nổi một bữa tối. Khi đã tiêu đến xu cuối cùng, cô sẽ không dám lãng phí nó, thậm chí là để mua bánh hay cà phê; cô có thể sẽ cần nó vào hôm sau – cô sợ phải chia tay với nó. Suốt hai tuần nay tôi đã phải liên tục lẩn tránh để không bị đuổi khỏi phòng trọ, và cô cũng chỉ có thể câu giờ được đến thế mà thôi; việc bị đuổi cổ sẽ diễn ra bất cứ lúc nào. Thế đấy, ý tưởng đó nảy ra như cỏ dại, trong khi tôi ngồi bên mép giường suốt buổi chiều dài dằng dặc, tung chiếc chìa khóa lên rồi bắt lấy trước mặt mình.”

“Đến khoảng bảy giờ, khi trời vừa tối được một lúc, tôi ra ngoài và đi đến ngôi nhà đó lần thứ hai.” Anh mỉm cười ảm đạm. “Đến đây thì tôi không còn gì để biện minh nữa, và cô có thể thoải mái lắng nghe phần còn lại của câu chuyện. Tôi tới góc đường gần ngôi nhà, dừng lại một phút, và đây là những gì tôi thấy. Có một ngọn đèn đang bật, ánh sáng tỏa ra từ cửa sổ tầng dưới, vậy là tôi đã quay lại đúng lúc để gặp người ở lại, nếu đó là lý do mà tôi tới đây. Có một chiếc taxi trước cửa đang chờ ai đó. Ngay lúc tôi đang quan sát, đột nhiên ánh đèn vụt tắt, và một phút sau, một người đàn ông cùng một người phụ nữ đi ra, tới chỗ chiếc taxi. Tôi có thừa đủ thời gian để bắt kịp trước khi họ chui vào xe. Họ đi thong thả, không hề vội vã. Tôi đã có thể chạy tới chỗ họ từ nơi tôi đang đứng hoặc gọi lớn tiếng để thu hút sự chú ý, và hẳn là họ sẽ đứng lại chờ. Vậy nhưng chân tôi lại bám rễ ở đó, không cho tôi nhúc nhích. Tôi đứng đó im lặng quan sát, đợi họ rời đi. Tôi không biết ai trong hai người là thành viên gia đình chủ nhà, ai đã ghé qua để đón ai, nhưng tôi có thể thấy rõ họ đang ra ngoài chơi tối và vắng mặt trong nhiều giờ tới. Người phụ nữ mặc váy dài còn người đàn ông mặc đồ dạ tiệc, tôi có thể thấy rõ điều đó từ nơi tôi đang đứng. Và khi người ta mặc như thế, họ sẽ không quay về trong một giờ tiếp theo hay đại loại vậy.

Họ chui vào trong taxi và rời đi, còn tôi cũng rời khỏi chỗ của mình. Tôi đi bộ quanh dãy nhà, bàn tay đút trong túi mân mê chiếc chìa khóa, tranh đấu với ý nghĩ đó. Tôi quay lại ngôi nhà từ phía đối diện và đi vòng quanh dãy nhà lần nữa, theo hướng ngược lại. Tôi đã tranh đấu rất quyết liệt, đúng thế, nhưng có lẽ như thế vẫn chưa đủ. Dạ dày tôi đang rỗng tuếch, và ta không thể tranh đấu quyết liệt được trong hoàn cảnh như thế. Tôi đã không mang theo hộp đồ nghề, nhưng vẫn có vài món dụng cụ nhỏ trong túi áo, vừa khéo là những thứ tôi cần. Lần này cô không cần phải nhọc công bắt trí tưởng tượng của mình vất vả làm gì; chúng không hề tách rời khỏi những món khác và chui vào túi tôi một cách tình cờ, tôi đã tự tay lựa chúng rồi nhét vào đó.

Thậm chí tôi đã ném chiếc chìa khóa vào một thùng rác mà tôi đi ngang qua, cố dập tắt sự cám dỗ. Nhưng không ăn thua; chỉ sau chưa đến hai phút tôi đã lại yếu đuối và quay trở lại, nhặt nó ra. Sau đó, tôi gấp gáp rảo bước nhanh hơn, vòng qua góc phố, quay trở lại và đi thẳng tới trước cửa ngôi nhà mà không do dự thêm nữa. Thế đấy, tôi đã thua cuộc. Và cảm giác ban đầu khi thua cuộc theo cách đó thật sự tuyệt vời ghê gớm; đừng bao giờ để chúng đùa bỡn với cô như vậy.”

Anh khẽ bật cười, nhưng chẳng hề có chút vui vẻ. “Phần còn lại thì chẳng cần đến một kế hoạch chi tiết. Bản thân cô cũng có thể tiếp tục từ đó được. Tôi bấm chuông lần cuối cùng, chỉ để ra vẻ. Tôi biết lúc này trong nhà chẳng còn ai nữa. Rồi tôi bước vào trong tiền sảnh trước nhà, thử mở cửa bằng chiếc chìa khóa. Cánh cửa mở ra ngay từ lần thử đầu tiên; chủ nhà đã không hề thay khóa, mấy kẻ lơ mơ đó. Có khi thậm chí họ còn chưa từng nhận ra rằng chiếc chìa khóa đã biến mất, tôi cũng chẳng biết nữa.

Tôi không cần đến ánh sáng để tìm đường. Tôi đi thẳng lên cầu thang, như ông chủ của tôi và tôi đã làm nhiều lần trước đó, rồi bước vào căn phòng làm việc hay phòng gì đó ở phía sau, trên tầng hai. Tôi bật đèn phòng tắm lên; làm vậy ở nơi này là an toàn, bởi căn phòng không có cửa sổ nào mở ra ngoài để có thể làm lộ ánh sáng. Tôi lấy ra mấy món dụng cụ đã mang theo và bắt đầu tiếp cận cái két từ đằng sau. Tôi đục mở lại cái lỗ đã trổ trên tường phòng tắm, chỉ có điều lần này tôi nhắm thẳng vào cạnh sau cái két, thay vì cạnh bên. Và tôi cũng trổ cái lỗ to hơn lần trước, đủ to để có thể cạy ra một ván gỗ trên thành hốc nơi đặt két.

Đó là loại két ngớ ngẩn nhất tôi từng thấy. Chỉ có cửa và khung làm bằng thép, phần còn lại toàn là ván gỗ. Chỉ cần cạy tấm ván đằng sau ra là coi như nó đã mở toang; ta có thể thò tay vào và lôi các ngăn kéo ngược ra sau, sang phía phòng tắm. Có lẽ là cái két cũng đủ chắc chắn để khó lòng bị phá từ đằng trước, nhưng hẳn là người ta đã không tính đến trường hợp nó bị tiếp cận từ phía sau như thế này.

Trong ngăn kéo nhét đầy giấy tờ và nhiều thứ khác, nhưng tôi chỉ quan tâm tới tiền. Tôi lấy hết tiền ra, bỏ lại đồ trang sức, các món đồ gia bảo và chứng khoán mà họ cất trong đó. Rồi tôi lại đẩy các ngăn kéo đựng đồ vào trong như cũ và chỉnh trang mọi thứ gọn ghẽ. Tôi dọn sạch những mảnh vữa và thạch cao dưới sàn, rồi kéo tấm rèm che buồng tắm trượt ra một chút để che khuất cái lỗ to hoác mà tôi tạo ra. Nếu anh ta – tôi đoán người đàn ông là người sống trong ngôi nhà – bước vào đây khi trở về lúc khuya muộn, nhiều khả năng anh ta cũng sẽ không nhận ra có gì bất thường. Anh ta sẽ không thể phát hiện, cho tới tận sáng mai, khi kéo rèm ra để đi tắm.

Vậy đấy, đó là toàn bộ câu chuyện, ít nhất là phần lấy tiền. Tôi tắt đèn và bước xuống cửa trước, quan sát cỡ một, hai phút gì đó, cho tới khi tin chắc rằng không ai có thể phát hiện ra tôi. Rồi tôi bước ra ngoài, khóa cửa lại và hối hả rời khỏi đó.

Và ngay lập tức, tôi bắt đầu phải trả giá cho việc đó. Ôi trời, tôi đã phải trả giá một cái giá quá đắt! Trước khi tôi kịp tiêu một xu trong số tiền đó hay đi được một dãy nhà, tôi đã phải trả giá. Cho tới lúc đó thì đường phố là của tôi. Đó gần như là tất cả những gì tôi có, nhưng ít nhất thì tôi cũng có nó. Tôi đói, thiểu não, thất nghiệp; nhưng tôi có thể đàng hoàng nhìn thẳng vào mặt mọi người. Tôi đi bất cứ đâu tôi thích, đường phố là của tôi. Giờ thì đột nhiên, những con phố bị tước mất, nấn ná trên chúng quá lâu cũng là nguy hiểm. Những khuôn mặt tiến lại phía tôi, nếu họ nhìn tôi có vẻ quá chăm chú, lập tức họ sẽ trở thành một thứ cần phải cảnh giác. Và cả những người bước đi sau tôi nữa... Vai tôi chốc chốc lại co rút lại, như thể trông đợi một bàn tay đặt lên nó.

Nhưng phần tồi tệ hơn cả – giờ tôi đã ngẫm ra rồi – đó là tôi không còn biết mình muốn làm gì với số tiền này nữa. Nửa giờ trước tôi đã nghĩ ra cả trăm thứ mà mình khao khát, tới mức sẵn sàng đánh đổi một cánh tay để có được. Vậy mà giờ tôi còn chẳng nhớ nổi dù chỉ một điều.

Tôi đã nghĩ rằng tôi đói; gần như tôi đã không ăn gì trong một tuần hoặc hơn thế nữa, nhưng tôi nhận ra rằng giờ thì thậm chí cả cơn đói ấy cũng không còn nữa. Tôi bước vào nhà hàng sang trọng nhất có thể tìm thấy, một nhà hàng thực sự sang trọng và lập tức gọi tất cả mọi thứ trong thực đơn, như tôi vẫn luôn mơ sẽ làm một ngày nào đó. Khi đang gọi món thì chuyện đó nghe có vẻ thật tuyệt, nhưng khi các món ăn bắt đầu xuất hiện thì... có gì đó bất ổn. Tôi không thể nuốt trôi được. Cứ mỗi lần họ mang ra một món mới và đặt xuống để tôi ăn thử, không hiểu sao tôi lại thấy mình đang nghĩ, Mày đang ăn chính tương lai của mày đấy, hàng năm trời tương lai, và món ăn liền mắc nghẹn trong cổ họng tôi.

Sau một hồi, tôi không thể chịu đựng nổi nữa; tôi lấy ra một tờ năm đô la, để lại bàn rồi đứng dậy rời khỏi đó, không cần chờ lấy lại tiền thừa. Và khi bước ra ngoài, tôi không thể ngăn được suy nghĩ rằng khi tôi chỉ còn có một xu, một xu thực sự thuộc về tôi, tôi cũng không gặp vấn đề nào khi uống cà phê và nuốt cái bánh được mang cho mình. Kỳ thực, cổ họng tôi vẫn còn mở rộng thật lâu sau khi mấy món này trôi xuống, cứ thế chờ đợi.

Tôi không biết nữa, có lẽ bản chất của con người chỉ có thể hoặc thành thật hoặc lươn lẹo, và người ta không thể đột ngột thay đổi từ thế này sang thế kia mà không phải trải qua đau đớn chất chồng. Có lẽ người ta phải làm thế từ từ và phải mất hàng năm trời.

Thế rồi tôi lại bước đi trên các con phố, nhưng giờ chúng không còn là những con phố cũ nữa. Giờ tôi săm soi mọi khuôn mặt xuất hiện phía trước, cảnh giác với mọi tiếng bước chân vang lên đằng sau. Rồi tôi nghe thấy tiếng nhạc phát ra từ một dãy cửa sổ đang mở bên kia đường. Một gã có bộ dạng mà tôi không ưa đứng bên dãy nhà cuối phố, có vẻ hắn đi đằng sau tôi quá dai dẳng. Vậy là tranh thủ lúc hắn không để ý, tôi băng qua đường và bước vào tòa nhà đó. Có vẻ đó là một chỗ tốt để ẩn mình một lúc, tránh khỏi tầm mắt và các con phố. Tôi mua cả một mớ vé nhảy để đảm bảo có thể nán lại một lúc lâu, rồi tôi nhìn quanh, và cô gái đầu tiên tôi thấy...”, anh cau trán về phía cô, vẻ lúng túng, “là cô.”

“Là tôi.” Cô trầm ngâm nhắc lại, bàn tay chậm rãi trượt theo rìa bàn hết tới lại lui, hết tới lại lui.

Hai người cùng im lặng. Mới rồi anh đã nói liên tục, bởi thế quãng im lặng đối lập này với họ dường như dài hơn nhiều so với thực tế. Nó có lẽ chỉ kéo dài một, hai giây.

“Giờ anh sẽ làm gì?” Cuối cùng cô hỏi, ngước lên nhìn anh.

“Tôi có thể làm gì đây? Chỉ có thể đợi, có lẽ vậy; đợi đến khi họ bắt được tôi. Họ luôn làm được điều đó. Anh ta sẽ phát hiện ra vụ trộm vào khoảng chín hay mười giờ sáng, khi anh ta vào đó để tắm. Và nhiều khả năng cậu nhóc giao hàng sẽ nhớ ra đã trông thấy một người đàn ông bấm chuông cửa chiều hôm trước. Rồi ông chủ cũ của tôi sẽ nói cho họ biết tôi là ai và tôi sống ở đâu. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Họ sẽ biết tôi, sẽ bắt được tôi. Ngày mai. Ngày kia. Cuối tuần. Có gì khác nhau đâu cơ chứ? Họ luôn làm được, họ không bao giờ thất bại. Ta không bao giờ dừng lại nghĩ về việc đó trước khi hành động. Ta chỉ nghĩ đến nó sau khi việc đã xong. Với tôi cũng thế, và giờ tôi đang nghĩ về nó.”

Anh nhún vai tuyệt vọng. “Cố chạy trốn khỏi thành phố, ẩn trốn ở đâu đó cũng vô ích; cách đó chẳng bao giờ thành công. Đặc biệt là với những gã như tôi, những kẻ chẳng có chút kinh nghiệm nào trong chuyện lẩn trốn. Nếu người ta tìm bắt tôi, họ sẽ bắt được tôi dù là ở đâu, ở đây hay bất cứ nơi nào khác. Cánh tay họ vươn tới khắp nơi, có cố trốn tránh cũng vô ích. Vậy nên có lẽ tôi sẽ chỉ lang thang quanh đây và đợi.” Anh ngồi đó, nhìn chằm chằm xuống sàn nhà với nụ cười bí ẩn, thất bại. Như thể anh đang tự hỏi bằng cách nào mà chuyện này có thể xảy ra, và hoàn toàn bất lực trong việc đưa ra câu trả lời.

Có điều gì đó trong ánh mắt ấy khiến cô xúc động.

Trong đó có chút gì đó bất lực, ta có thể gọi đó là một sự bất lực cam chịu, và nó khiến cô đồng cảm. Chàng trai hàng xóm, cô nghĩ mà trong tim chợt nhói. Đó là con người anh, toàn bộ con người anh. Anh không phải kẻ lừa đảo, không phải kẻ chuyên săn các cô gái trên vũ trường. Anh chỉ đơn giản là chàng trai ở cổng nhà bên mà cô vẫy tay chào khi ra vào cổng nhà mình. Hay anh chàng đôi khi dựa xe đạp vào hàng rào và tán chuyện với cô một hồi, với nụ cười rạng rỡ hết cỡ. Anh đã tới đây để làm những việc lớn lao, để chơi thành phố này một cú, và giờ thì thay vì thế, thành phố đã chơi anh một cú. Anh đã hôn tạm biệt mẹ hoặc em gái tại ga tàu hay bến xe bus, và cô sẵn sàng đặt cược bất cứ thứ gì rằng trong mấy phút đầu tiên sau khi chia tay họ, anh đã ít nhiều muốn khóc, ý nghĩ mà tất nhiên anh đã không để lộ ra. Cô biết, vì cô cũng đã như thế. Và rồi vầng hào quang chói lọi hiện ra, xóa đi cảm xúc ấy; nó hứa hẹn những điều lớn lao, thứ hào quang khiến cho những người trẻ sẵn sàng lao vào trận chiến. Có lẽ trước khi giờ đầu tiên của cuộc hành trình trôi qua thì tất cả kế hoạch của anh đã hình thành xong xuôi, những tòa lâu đài của anh đã mọc lên; danh tiếng, tiền bạc, hạnh phúc, tất cả những thứ rồi sẽ đến đều đã được định hình. Cô có thể đọc được những ý nghĩ trong đầu anh trong ngày lên đường, bởi những ý nghĩ của cô cũng như vậy. Ở quê nhà, họ, những người thân, hẳn đã nghĩ rằng anh thật cừ khôi, rằng anh thật tuyệt vời. Và phần tức cười nhất trong chuyện này là họ đúng và phần còn lại của thế giới, những người không nghĩ như thế, đã sai. Ở quê nhà, người thân của anh có lẽ đã đọc những lá thư anh gửi về cho những người hàng xóm nghe ở hàng rào sau nhà, khoe khoang về việc anh đang thành công ra sao. Người thân của cô cũng đã làm như thế.

Và hãy nhìn anh lúc này xem, nhìn anh ở đây, trong căn phòng này cùng cô. Cô cũng không hơn gì anh, chẳng biết tại sao sự tình lại tồi tệ như thế, tại sao nó lại đến nước này. Cô chỉ biết anh không đáng phải chịu kết thúc thế này, trốn tránh, ẩn nấp, bị săn đuổi, không biết khi nào một bàn tay sẽ đặt lên vai và giữ chặt lấy mình. Chàng trai hàng xóm, chàng trai hàng xóm tươi cười, thân thiện ấy.

Cuối cùng cô cũng ngẩng đầu lên khỏi đôi bàn tay đang che khuất nó. Cô nhích ghế lên trước, như thể bằng cách đó cô đã đưa nó vượt qua lằn ranh vô hình đánh dấu ranh giới giữa người nghe thụ động và người trong cuộc chủ động, cho dù cú nhích chỉ rất nhỏ mà thôi. Cô nhìn chăm chăm vào anh thật kĩ trong khoảnh khắc, để ngẫm nghĩ về những điều cô sắp nói ra hơn là để nhận thức về anh. “Nghe này”, cuối cùng cô nói. “Tôi có một đề nghị. Anh nghĩ sao nếu hai chúng ta cùng quay lại nơi chúng ta thuộc về, trở lại quê nhà nơi chúng ta đã rời đi? Để bắt đầu lần thứ hai, để cho chúng ta một cơ hội nữa? Cả hai cùng lên chuyến xe bus lúc sáu giờ mà tôi đã không bao giờ có thể lên một mình?”

Anh không trả lời. Lúc này cô đang nhổm người tới trước để nhấn mạnh hơn ý tưởng của mình. “Anh không thấy rằng sẽ là bây giờ hoặc không bao giờ sao? Anh không thấy nơi này đang làm gì với chúng ta sao? Anh không thấy sau một năm nữa chúng ta sẽ ra sao ư? Khi đó sẽ quá muộn, sẽ chẳng còn gì để cứu vãn nữa. Khi đó sẽ chỉ còn lại hai con người khác, mang cái tên giống chúng ta, nhưng không còn là chúng ta nữa...”

Đôi mắt anh đưa sang phía mấy chồng tiền trên bàn, rồi quay lại phía cô. “Lúc này với tôi đã quá muộn rồi. Chỉ muộn mất vài giờ, muộn mất nửa buổi đêm, nhưng từng ấy cũng chẳng khác gì một đời người.” Anh nói lại những gì đã nói lúc trước. “Tôi ước gì mình đã gặp cô tối qua, thay vì tối nay. Tại sao tôi lại không gặp cô trước thay vì sau khi làm việc ấy chứ? Giờ thì chẳng ích gì nữa. Họ sẽ phục sẵn khi tôi xuống xe bus ở bến tiếp theo. Đến khi đó họ đã biết tôi là ai, từ đâu tới; họ sẽ tìm kiếm tôi ở đó khi không thấy tôi ở đây. Nếu tôi đi cùng, tôi sẽ chỉ lôi cô vào chuyện của mình. Những người ở đó, chính những người tôi ít mong muốn họ biết chuyện nhất, sẽ thấy cuộc bắt giữ diễn ra ngay trước mắt họ...” Anh lắc đầu. “Cô hãy trở về đi. Cô vẫn còn cơ hội, còn tôi thì không. Hãy tự mình trở về, hãy trở về ngay tối nay. Cô nói đúng, nơi đây thật tồi tệ. Hãy trở về ngay bây giờ, trước khi cô lại yếu đuối. Tôi sẽ đi cùng cô tới chỗ xe bus nếu cô muốn, tôi sẽ tiễn cô lên đường, để đảm bảo cô có thể rời đi...”

“Tôi không thể; chẳng phải tôi đã nói với anh rồi sao? Tôi không thể tự mình làm được. Thành phố này quá mạnh so với tôi. Tôi sẽ lại xuống xe ở điểm dừng đầu tiên tại Jersey và quay trở lại. Tôi không thể làm được nếu không có anh, cũng hệt như anh rất có thể sẽ không thể làm được nếu không có ai đó như tôi. Việc này cần đến sức mạnh của hai chúng ta kết hợp lại. Anh là cọng rơm cuối cùng của tôi và tôi là cọng rơm cuối cùng của anh; chúng ta gặp nhau, và giờ chúng ta đã hiểu được lý do. Đừng vứt đi cơ hội cuối cùng này. Nó giống như chết trong khi vẫn đang sống...” Khuôn mặt cô nhăn nhó trong lời khẩn nài tuyệt vọng, ánh mắt cô giữ chặt lấy ánh mắt anh bằng cái nhìn quyết liệt.

“Họ sẽ chờ sẵn tôi ở đó, tôi chắc chắn là như vậy. Họ sẽ tóm cổ tôi thậm chí trước khi chân tôi kịp rời khỏi bậc lên xuống...”

“Sẽ không như vậy, nếu như không có gì biến mất, không có gì bị lấy đi. Khi đó họ sẽ có cớ gì để bắt anh đây?”

“Nhưng có thứ đã bị lấy đi. Nó đang ở đây, ngay trước mặt chúng ta.”

“Tôi biết, nhưng tôi muốn nói rằng vẫn còn thời gian để sửa chữa chuyện này. Không đi cùng với nó, không mang nó theo. Như vậy thì chạy trốn để làm gì? Chúng ta sẽ mang theo sự xấu xa của thành phố về nhà mất.”

“Ý cô là cô nghĩ tôi có thể...?” Nét hoảng sợ hiện trên mặt anh, như thể anh muốn hy vọng, nhưng lại sợ hãi, không dám cho phép mình hy vọng.

“Anh đã nói anh ta chỉ có một mình trong nhà. Anh đã nói anh ta ăn mặc chỉnh tề ra ngoài và sẽ về rất khuya. Anh đã nói anh không nghĩ anh ta sẽ phát hiện ra cho tới khi thức dậy vào buổi sáng...” Cô nói hối hả, không ngừng lại thở lấy hơi. “Anh vẫn còn giữ nó chứ, cái chìa khóa để vào nhà ấy?”

Đôi tay anh lúc này đang lục qua lục lại các túi quần áo, hối hả chuyển từ túi này qua túi khác cũng gấp gáp như cô đang nói. Nhịp điệu của hy vọng đang nhanh dần lên. “Tôi không nhớ rằng đã ném nó đi. Hẳn là tôi đã bỏ nó lại ở chỗ cánh cửa...” Anh đứng lên khỏi ghế để có tư thế tìm kiếm thuận lợi hơn. Đột nhiên anh thở hắt ra một hơi ngắn, cho thấy anh đã tìm ra chiếc chìa khóa trước khi nó xuất hiện trong tầm nhìn. “Tôi tìm thấy rồi.” Rồi anh rút cái chìa ra. “Đây. Nó đây, đây rồi.”

Trong một thoáng, cả hai như ngỡ ngàng trước sự hiện diện của nó.

“Thật buồn cười là tôi lại giữ rịt lấy nó thế này, phải không? Nó giống như một... một... như một thứ...?”

“Phải, đúng thế.” Cô biết ý anh muốn nói gì, cho dù đó không phải là từ mà hai người cần.

Anh lại cho chiếc chìa khóa vào túi áo. Đến lượt cô đứng bật dậy. “Bây giờ, nếu anh có thể quay lại ngôi nhà đó trước khi anh ta trở về... Chỉ cần vào rồi ra, vừa đủ thời gian để trả lại tiền về nơi anh đã lấy nó, đó là tất cả những gì anh phải làm. Sẽ chẳng có ai truy đuổi anh chỉ vì đục một cái lỗ vào tường, chừng nào không có thứ gì bị lấy đi...”

Cô hối hả thu lại những xấp tiền nằm rải rác, xếp gọn ghẽ thành một chồng để đưa cho anh. Thế rồi một ý nghĩ đột nhiên đến với họ, cùng một lúc, và hai người dừng lại nhìn nhau, mất hết tinh thần. “Anh đã tiêu mất bao nhiêu rồi? Anh đã lấy ra bao nhiêu?”

Anh đưa lòng bàn tay áp lên trán. “Tôi không biết. Đợi một phút, để xem tôi có thể... Năm đô la cho bữa ăn mà tôi đã không ăn. Và hẳn tôi đã mua lượng vé nhảy trị giá mười lăm đô la ở chỗ cô làm. Tất cả là hai mươi. Hai mươi đô. Không thể nhiều hơn thế.”

“Đợi chút, tôi có số tiền đó ở đây.” Cô quả quyết, “Tôi sẽ bù vào cho anh.”

Cô bật dậy, chạy tới bên giường, dẹp hết chăn gối sang một bên. Rồi cô nâng một bên rìa tấm đệm lên, thò tay vào một cái khe bí mật chạy dọc bên dưới, lấy ra một ít tiền giấy được nhét trong đó, bị ép thành những hình dáng méo mó như những bông hoa bị ép khô trong cuốn album.

“Ồ, không.” Anh bắt đầu phản đối. “Tôi không muốn... tôi không thể để cô làm thế. Đây là rắc rối của tôi, tại sao cô lại phải bù vào chỗ thiếu chứ?”

Cô chưng ra bộ dạng gay gắt nhất ở vũ trường, chỉ thẳng tay vào mặt anh. “Giờ thì nghe đây, tôi sẽ làm chuyện này, và tôi không muốn nghe bất cứ lý lẽ nào hết. Tất cả số tiền đó cần phải được trả lại; thậm chí nếu chỉ thiếu một đô la thì trên lý thuyết đó vẫn là một vụ trộm và anh vẫn có lý do để bị bắt. Bên cạnh đó, có gì khác đâu? Hãy gọi nó là một khoản vay, nếu điều đó khiến anh thấy thoải mái hơn. Anh có thể trả lại tôi sau khi chúng ta trở về nhà và anh làm việc trở lại. Ở đây tôi vẫn còn đủ tiền để mua vé xe bus cho cả hai. Sau này anh có thể hoàn lại cả khoản đó nữa, nếu anh muốn.” Cô dúi tiền vào tay anh. “Đây, hãy giữ lấy, cho chúng ta. Bây giờ đây là tiền của chúng ta, của anh và của tôi.”

Anh trao cho cô một ánh mắt đầy bối rối. “Ôi, tôi không biết phải nói...”

“Đừng nói gì cả.” Cô lại buông mình xuống chiếc ghế mà ban đầu cô đã tìm đến khi bước vào phòng, lúc vừa về đến nơi. “Điều quan trọng là phải chắc chắn rằng chúng ta sẽ cùng nhau rời khỏi thành phố này vào tối nay. Hãy đợi tôi một phút để tôi đi giày... Nhét vài thứ vào túi... Cũng chẳng có nhiều thứ cần mang theo...” Rồi cô thấy anh đang ngần ngừ định bước về phía cửa, nhìn cô dò hỏi. “Không, hãy ở lại đây với tôi, không cần phải đợi bên ngoài... Tôi sợ rằng tôi sẽ mất anh; anh là cơ hội duy nhất để trở về nhà tối nay...”

“Cô sẽ không mất tôi đâu.” Anh hứa, khẽ đến mức gần như không nghe được.

Cô lại bật dậy, xỏ chân vào đôi giày thuộc về chúng, với một tiếng giậm khẽ ở mỗi bên. “Buồn cười thật, nhưng giờ tôi chẳng còn thấy mệt nữa...”

Anh quan sát cô quẳng các thứ thẳng vào cái va li tàn tạ mà cô vừa lôi ra từ dưới gầm giường. “Cô có cho rằng khi tôi tới đó thì anh ta đã trở về rồi không?”

“Anh ta sẽ chưa trở về nhà. Chúng ta cần liên tục tự nhủ như vậy, cầu mong mọi chuyện đúng là như vậy. Đó là cách duy nhất. Anh đã không bị bắt gặp khi lẻn vào trong đó để lấy tiền, vậy tại sao anh lại phải bị bắt gặp khi tới đó để trả lại tiền chứ? Anh ta đã ra ngoài đi đâu đó cùng cô gái mà anh đã thấy đi cùng với anh ta... thậm chí có khả năng anh ta sẽ không quay về cho đến tận ba rưỡi hay bốn giờ sáng; cho tới khi anh ta đã đưa cô gái đó về nơi cô ta sống và...”

Cô tới bên cửa sổ, kéo nó lên và ló đầu ra ngoài. Không phải ở giữa cửa, mà chếch sang một bên, ở tận góc xa, nhìn chéo góc ra ngoài. “Nhìn xem, chúng ta vẫn còn thời gian. Anh vẫn có thể làm được, anh vẫn còn một cơ hội để tranh đấu.”

“Cô nhìn gì ngoài kia vậy?”

Cô lại thu đầu vào trong. “Đó là thứ tử tế duy nhất trong thành phố này. Mỗi buổi tối nó đều giúp tôi trụ vững cho đến phút cuối cùng, khi tôi đã nghĩ rằng mình không thể chịu đựng thêm một phút nào nữa. Nó không bao giờ lừa tôi, không bao giờ bịp tôi, và tôi biết tối nay nó cũng sẽ không làm thế. Đấy là người bạn duy nhất mà tôi có, người bạn duy nhất tôi từng có kể từ khi tới đây. Nó sẽ không làm chúng ta thất vọng. Đó là chiếc đồng hồ trên tòa nhà Paramount, ở tận đầu kia của thành phố; anh có thể thấy nó từ đây, nếu nhìn đúng hướng, vào nơi có một khoảng không hở ra giữa hai tòa nhà... Đi nào, Quinn, nó nói rằng chúng ta vẫn có thể; và đến giờ nó chưa từng chỉ dẫn sai cho tôi.”

Cô đóng nắp va li xuống. Anh đưa tay ra và cô đưa nó cho anh. Anh vẫn giữ cửa mở sau khi cô đã đứng ngoài hành lang. “Đầy đủ mọi thứ rồi chứ? Chắc chắn là không còn gì nữa chứ?”

“Đóng cửa lại đi.” Cô mệt mỏi nói. “Tôi không muốn nhìn lại nó nữa. Hãy để chìa khóa ở trong, tôi không còn cần đến nó nữa.”

Họ lần lượt đi xuống cái cầu thang ọp ẹp, tay anh xách cái va li tồi tàn của cô. Nó cũng chẳng nặng cho lắm; gần như chẳng có gì bên trong – chỉ toàn là những hy vọng đã tan vỡ. Họ rón rén bước đi, vì sự kín đáo bản năng đi kèm với những cuộc trốn chạy trong đêm nhiều hơn là vì sợ đánh động những người khác trong khu nhà.

Đột nhiên, anh thấy cô đưa tay tới chỗ một mảng vữa có hình ngôi sao bị tróc ra trên tường và áp tay vào đó trong giây lát.

“Cô làm thế để làm gì?”

“Nó từng là điểm may mắn của tôi.” Cô thì thầm. “Tôi luôn chạm vào nó mỗi khi rời khỏi chỗ này. Cách đây khoảng một năm, khi tôi vẫn còn tìm đến các phòng tuyển diễn viên và những chỗ tương tự. Anh biết đấy, người ta trở nên như thế mỗi khi bị vận may quay lưng. Đã lâu lắm rồi kể từ lần cuối cùng tôi chạm vào nó. Nó chưa bao giờ đem lại cho tôi chút may mắn nào. Nhưng có thể tối nay nó sẽ làm thế. Tôi hy vọng là vậy. Tối nay chúng ta sẽ cần đến may mắn.”

Anh đã đi quá chỗ đó vài bậc thang. Anh dừng lại giây lát, do dự, rồi quay người, bước lại một, hai bậc cầu thang, tới chỗ mảng võ, áp tay vào đó như cô đã làm. Rồi anh lại bước xuống theo cô.

Họ dừng lại bên cánh cửa một lúc, đứng cạnh nhau trước khi tiếp tục. Rồi cô đặt tay lên nắm đấm cửa. Anh cũng đưa tay ra trước, gần như cùng lúc. Bàn tay anh đặt lên bàn tay cô. Họ để yên như thế một thoáng. Họ nhìn nhau và mỉm cười, không diễn kịch, không làm dáng, như những đứa trẻ vẫn mỉm cười. Anh nói, “Vậy đấy, tôi rất mừng vì đã được gặp cô tối nay, Bricky.” Cô nói, “Tôi cũng rất mừng vì đã được gặp anh, Quinn.”

Rồi anh nhấc tay ra và để cô mở cửa. Nơi này dẫu sao cũng từng là nhà cô, cho đến tận lúc này.

Bên ngoài, đường phố thật trống vắng và tĩnh lặng...