← Quay lại trang sách

- 5 - 2 giờ 23 phút

Trong không gian khép kín như một cỗ quan tài của gian tiền sảnh, chiếc chìa khóa đã từng được sử dụng thiếu cân nhắc đang hơi run rẩy khi anh cắm nó vào ổ khóa một cách bất hợp pháp lần thứ ba trong tối hôm ấy. Tim cô cũng rung động đồng nhịp với nó. Nhưng chút hơi run của bàn tay anh chính là sự dũng cảm, và không cần ai nói với cô điều đó. Anh đang bước vào, chứ không phải ra khỏi đó; đi thẳng vào đó, không hề trốn chạy. Người nào nói rằng mình không bao giờ sợ hãi thì đó là một kẻ dối trá. Vậy nên cô ngưỡng mộ bàn tay run rẩy của anh; nó thành thực và can đảm.

Cuối cùng anh cũng tra được chìa khóa vào ổ, xoay nó một vòng, và cánh cửa mở ra. Họ bước vào trong. Vai anh hơi căng lên, cô có thể cảm thấy cử động này truyền sang mình, và cơ cấu chốt của ổ khóa nhẹ nhàng trở lại hốc cài. Giờ thì cửa trước đã được khóa lại. Vẫn còn lại một khoảng sáng mờ xam xám hình trái xoan, đó là ánh sáng đèn đường, vốn mờ mờ ảo ảo, đã vật lộn cố chui vào trong bám theo họ, để rồi bỏ cuộc sau khi vươn xa được tới đó. Nó lùi lại, trở nên nhỏ hơn, thu lại chỉ bằng mắt một con bò khi họ tiến từng bước tới trước.

Gian sảnh trong – cô đoán chừng họ đang ở trong một gian sảnh – chứa đựng thứ không khí ngột ngạt của một nơi đã đóng im ỉm cả ngày. Cô cố gắng mường tượng ra quang cảnh ngôi nhà bằng khứu giác của bản thân. Cô không phải là chuyên gia phân biệt mùi, nhưng bao trùm và nổi lên trên cảm giác ngột ngạt, nơi này có thứ mùi đắt tiền của da và đồ gỗ. Không thật rõ rệt, chỉ là ấn tượng của cảm giác. Không có mùi ẩm mốc của sự mục nát hay bỏ hoang, không có mùi thức ăn hỏng, không có mùi túi thơm của nữ giới. Không có dấu ấn đặc trưng, có thể hơi mộc mạc, nhưng không hề rẻ tiền.

“Anh ta ở đằng sau, trên tầng.” Anh thì thầm. “Tôi không muốn bật bất cứ nguồn sáng nào, vì bên ngoài có thể trông thấy.”

Một lần nữa, một cử động được truyền sang cho cô biết rằng anh vừa đút tay vào túi áo để tìm thứ gì đó. “Không, đừng dùng diêm.” Cô thận trọng nói. “Anh dẫn đường đi, tôi sẽ theo sau. Tôi sẽ nắm ống tay áo anh. Đợi chút, để tôi đặt cái này xuống đã.”

Cô mò mẫm lần tới bên tường, đặt chiếc va li gần chỗ ván ốp chân tường, nơi cô có thể nhanh chóng tìm lại nó. Rồi cô quay lại bên anh, đứng vào vị trí của người tháp tùng nhờ liên lạc ngoại cảm, bàn tay đặt lên ống tay áo khoác của anh. Họ khó nhọc tiến bước trong bóng tối đặc quánh như một thứ chất lỏng bồng bềnh.

“Bậc thang.” Một lát sau anh khẽ nói.

Cô cảm thấy anh đang bước lên. Cô đưa chân dò dẫm, rồi tìm thấy bậc thang dưới cùng nhờ ngón chân. Các bậc thang còn lại tuần tự kế tiếp nhau và không gây ra bất cứ rắc rối nào nữa. Cầu thang cót két vài lần dưới tổng khối lượng của hai người trong sự im ắng tĩnh mịch. Cô tự hỏi liệu còn ai khác trong nhà không, ai đó vẫn còn sống. Từ những gì họ biết thì rất có thể vẫn còn ai đó. Nhiều án mạng xảy ra trong đêm chỉ được phát hiện vào ngày hôm sau.

“Rẽ.” Anh thì thầm.

Cánh tay anh rời khỏi cô, xoay sang bên trái. Cô ngoan ngoãn xoay theo. Cầu thang đã trải ngang ra thành một chiếu nghỉ. Họ xoay nửa vòng, thực hiện một điệu cotillion ma quái trong bóng tối.

Cô cảm thấy cánh tay anh lại di chuyển lên trên, sau một quãng ngắn di chuyển ngang trên mặt phẳng. Cô tìm thấy một đợt bậc thang mới, theo hướng ngược lại với đợt bậc thang trước. Rồi không còn bậc thang nào nữa. Lúc này họ đã lên đến tầng hai.

“Rẽ.” Anh thì thào.

Cánh tay anh thúc vào cô, lần này là xoay vòng sang bên phải. Cô chỉnh hướng di chuyển theo. Lúc này họ đi theo một hành lang ở tầng trên.

Thứ mùi của da và đồ gỗ trở nên đặc trưng hơn. Một điếu xì gà ẩn hiện ở đâu đó trong không khí, quá mờ nhạt để có thể tóm bắt. Trong nó cũng có chút gì đó ngọt ngào hơn, không phải một bóng ma; đó là một ký ức, quá xa, đã trôi qua quá lâu rồi. Có lẽ là hạt phấn duy nhất trong không biết bao nhiêu mét khối không khí khô khan? Hay sự tỏa hương của giọt nước hoa duy nhất đã lan qua nơi này... một năm trước, hay một đêm trước? Cô nghĩ đến một cửa hàng nước hoa, nhớ ra nó giữa những nơi chốn khác, thời điểm khác; cô không thực sự phát hiện ra nó ngay lúc này.

Cô cảm thấy mình vừa bước qua một ngưỡng cửa bằng gỗ, chỉ hơi nhô lên, không đủ cao để gây cản trở.

Không khí thay đổi một chút, rất mơ hồ. Có ai đó ở đây cùng với họ, nhưng lại chẳng có ai trong đó. Người ta nói bạn không thể ngửi thấy cái chết, ít nhất là cái chết mới xảy ra. Vậy nhưng vẫn có một sự tĩnh lặng, một sự hiện diện nhiều hơn là trống rỗng.

Cô thấy mừng vì họ không tiến lên thêm nữa. Cánh tay anh đã dừng lại. Cô dừng lại bên cạnh. Anh với cánh tay còn lại ra sau và làm gì đó, rồi cô cảm nhận được một luồng không khí khi một cánh cửa lướt qua. Cô nghe tiếng nó đóng lại đằng sau.

“Hãy chuẩn bị đôi mắt cô sẵn sàng nào, tôi bật đèn đây.” Anh cảnh báo.

Cô nhắm mắt lại để bảo vệ chúng. Anh đèn bật lên sáng lóa với sự chói chang không chịu nổi sau cuộc hành hương dài trong bóng tối. Người đàn ông đã chết là thứ đập vào mắt trước tiên; ánh sáng dường như đã tạo thành quầng xung quanh anh ta.

Bản thân căn phòng là một thứ hỗn hợp, một sự pha trộn, một kiểu phòng được dùng vào đủ mục đích. Nó sở hữu số lượng sách vừa phải, hai hay ba hàng xếp trên những chiếc giá gắn vào tường, biến nó thành một thư viện ở mức độ hạn chế. Trong phòng có một chiếc bàn làm việc kiểu Sheraton, vì thế nó có thể được sử dụng như phòng làm việc ở một mức độ nhất định. Có mấy chiếc ghế tựa bọc da êm ái, giống như loại được kê trong các câu lạc bộ; một tủ rượu và những chiếc gạt tàn, khiến nó trông giống một phiên bản phòng khách nam giới hơn bất cứ chức năng nào khác. Một phòng khách trên lầu, gắn liền với một người cụ thể hơn là với cả ngôi nhà. Ở một xã hội cổ xưa hơn, một nơi như thế đã từng có lúc được gọi là hang ổ.

Căn phòng không nam tính tới mức tự cao tự đại, tính cách của nó không hề hiển hiện rõ ràng. Nó trước nhất và hơn hết là một căn phòng, phần còn lại hoàn toàn là do góc nhìn của người quan sát.

Các bức tường có màu xanh lục nhạt, nhạt tới mức chúng có vẻ trắng toát dưới ánh đèn. Chỉ khi một màu trắng thực sự được đặt kề bên chúng, chẳng hạn như khi một tờ giấy được giơ lên trên nền của các bức tường, khi đó mới có thể nhận ra tông màu nhạt nhòa đó. Các món đồ gỗ đều làm bằng gỗ óc chó. Thảm và lưng tựa ghế đều mang màu nâu sẫm như đất. Những chiếc chụp đèn – có tất cả hai cái – đều được làm bằng giấy da.

Căn phòng có hình chữ nhật, thuôn dài theo hướng họ bước vào. Hai bức tường của hai cạnh ngắn đều để trơn. Bức tường phía sau họ tất nhiên là có khung cửa, thứ mà họ vừa dùng để vào phòng. Bức tường đối diện có hai, một dẫn vào phòng ngủ, cái còn lại dẫn vào phòng tắm. Quinn rời khỏi cô, bước vào phòng ngủ. Cô có thể thấy hình dáng không rõ ràng của anh trong căn phòng tối mờ đó, đang kéo những tấm rèm nặng trịch che kín các cửa sổ để tránh cho ánh sáng lọt ra phía sau ngôi nhà. Căn phòng họ vừa bước vào không có lối thông ra ngoài, không có cửa sổ, không có gì hết.

Anh không bận tâm tới buồng tắm, như vậy rõ ràng nó cũng không hề có cửa sổ hay lối thoát nào.

Cô cảm nhận được anh, được các cử động của anh, nhưng chỉ loáng thoáng, như một thứ nằm ngoài tầm nhìn, một thứ ở ngoài phạm vi nhận thức của cô.

Trước đây cô chưa từng trông thấy một xác chết. Ý nghĩ đó cứ quay cuồng trong đầu óc rối bời của cô, như một thứ trục lăn mạnh mẽ. Cô đứng đó, chăm chăm nhìn xuống, không phải với một sự thích thú không lành mạnh, mà là một sự sợ hãi choáng váng, đầy suy tư. Vậy ra đây là thứ đã khiến chúng ta sợ hãi đến vậy, suy nghĩ ấy lướt qua tâm trí cô. Đây là thứ sẽ xảy ra với chúng ta, với bản thân cô, với Quinn – thật trẻ trung, thật nhanh nhẹn trong kia – cũng như với tất cả những người khác, vào một ngày nào đó. Vậy ra đây là nơi mà tất cả những điệu nhảy của ta dẫn tới, tất cả những đồng xu ta cóp nhặt; tất cả những lần giương vây xòe vuốt với những kẻ làm phiền ta, tất cả những lần ta khư khư bám lấy những quan niệm lý tưởng về con người của mình. Tất cả những ổ bánh ta lấy ra từ khay ở Automat ngày này qua ngày khác, ta cũng chỉ đang lừa chính mình, chúng không thể ngăn cản được thứ này... Vậy ra nó là thế này. Là thế này.

Cô từng nghĩ rằng mình đã thấy qua mọi thứ, đã biết mọi thứ, nhưng đây là thứ cô chưa biết. Vào một tối nọ, có một cô gái ở vũ trường nơi cô làm việc, ngay giữa bản Bắt đầu điệu Beguine, đột nhiên nhăn nhó rồi đổ ụp xuống như bị bắn. Sau đó người ta nói rằng cô ta đã dùng thứ gì đó, song chẳng ai biết chắc. Tất cả những gì Bricky biết là cô ta đã bước vào vũ trường một cách bình thường, đứng thẳng người và nhảy vòng quanh; đến khi đi ra cô ta lại nằm phẳng lì, không nhúc nhích, chỉ hơi giật giật một chút. Tất cả bọn họ cùng ùa tới các cửa sổ, xúm lại thành đám và ngó xuống, bất chấp những gì viên quản lý nói, bất chấp những lời mắng mỏ của ông ta. Họ nhìn thấy cô gái được khiêng đi dưới vỉa hè, được đưa vào xe cứu thương, trông nhỏ bé, phẳng lì một cách thảm hại trên chiếc cáng trắng bệch. Tối hôm sau, cô ta không tới làm nữa. Cô ta không bao giờ tới làm nữa.

Nhưng dẫu vậy, nó vẫn là trước khi điều đó xảy ra. Còn đây là sau khi nó đã xảy ra.

Trước đây cô chưa từng trông thấy một xác chết.

Cô nhìn vào khuôn mặt anh ta, cố gắng tái hiện nó, cố gắng hình dung ra nó một cách đầy đủ. Việc này cũng giống như đọc một trang sách có nét chữ đã nhòe mờ, méo mó. Khuôn mặt này cũng như một trang mực bị nước mưa dội lên. Mọi thứ vẫn còn đó, nhưng tất cả đều bị lệch đi một chút. Những đường nét từng là đặc trưng của khuôn mặt lúc này đã trở thành những vết ghép nối. Khuôn miệng trước đây từng mạnh mẽ hay yếu đuối, cay đắng hay vui vẻ; giờ chỉ còn là một khe hở, một nơi gương mặt mở ra. Đôi mắt từng hiền từ hay tàn nhẫn, khôn ngoan hay ngờ nghệch; giờ chỉ còn là hai vật thể bóng loáng, vô hồn, như miếng mi-ca nhét trong khối đất sét màu vàng xám.

Mái tóc anh ta được chăm sóc kĩ lưỡng, vẫn còn đầy sức sống và ánh sáng, bởi nó chết sau cùng, hay đúng hơn là nó không chết khi cơ thể chết đi, mà vẫn tiếp tục mọc dài ra. Ngay cả cú ngã và cái chết đột ngột cũng hầu như không tác động gì đến nó. Chỉ có một hay hai sợi bị lệch ra khỏi nếp chải đã được cái lược của anh ta chỉnh luyện vào khuôn phép qua nhiều năm.

Anh ta có cặp lông mày sẫm màu rất đẹp, trông giống như khăn choàng lông hải cẩu. Không quá dày, nhưng có điểm nhấn hợp lý. Và lúc này chúng đang duỗi thẳng một cách hoàn hảo; cái chết đã lấy đi sự trăn trở cũng như sự cần thiết phải uốn cong lông mày, theo cách này hay cách khác.

Với tất cả những quan sát này, cô không thể mường tượng được nhiều về con người trước đây của anh ta. Anh ta ước chừng khoảng ba mươi lăm tuổi. Nhưng tuổi tác của đàn ông thường khó đoán hơn phụ nữ; anh ta có thể mới ba mươi mà cũng có thể đã bốn mươi tuổi. Anh ta hẳn đã có một khuôn mặt điển trai cho tới chừng một giờ trước, hay bất cứ thời điểm nào mà việc đó xảy ra – tấm mặt nạ bằng ma-tít còn lại đó đã cho cô biết điều này – nhưng đó là đặc điểm ít quan trọng nhất mà một người có thể có. Cả thiên thần lẫn ác quỷ đều tuấn tú.

Anh ta đã từng rất biết cách tận hưởng những khía cạnh vui vẻ của cuộc sống. Thậm chí cả khi chết anh ta vẫn mặc chỉn chu bộ đồ dạ tiệc, ngực áo sơ mi hồ bột hầu như không có vết nhàu, bông hoa cài vào lỗ khuyết áo vẫn ở nguyên vị trí.

Đế giày của anh ta ánh lên mờ mờ vì dính sáp đánh sàn, điều đó có nghĩa là anh ta đã khiêu vũ bằng đôi giày này trước đó chưa lâu. Đôi giày không hề bị sứt sẹo hay trầy xước, vậy nên anh ta là một người nhảy giỏi, biết tránh người khác và để người khác tránh mình trên một vũ trường đông đúc. Biết được điều đó thì có ích gì vào lúc này chứ? Anh ta sẽ không bao giờ nhảy lại nữa.

Quinn đã quay lại bên cô. Cô cảm nhận được anh đang đứng đằng sau mình mà không cần nhìn, và cô thấy mừng vì có anh ở đó. Vai họ hơi chạm vào nhau, và cảm giác này thật dễ chịu.

“Chúng ta có nên khép...? Chúng có vẻ như đang dõi theo anh khi anh không nhìn chúng vậy, còn khi anh nhìn thì chúng lại thôi không theo dõi nữa.”

“Không, đừng chạm vào chúng.” Anh thì thào. “Dù sao tôi cũng không biết phải làm thế nào, cô biết chứ?”

“Tôi đoán là người ta phải khép hai mí mắt lại.”

Nhưng không ai trong hai người làm việc đó.

“Anh có thể biết... nguyên nhân... là gì không?” Cô hỏi với giọng tưởng như sắp nghẹt thở. “Cái chết do nguyên nhân gì gây ra vậy?” Cô chậm rãi hạ mình xuống sàn, như thể bị lôi kéo bởi một thôi thúc không sao cưỡng lại được. Anh đứng thẳng người lâu hơn một chút, rồi cũng hạ xuống cùng cô.

“Hẳn phải có dấu vết ở đâu đó trên người anh ta.”

Anh thấy bàn tay cô rụt rè cong lại trên cái khuy giữ hai vạt áo vest áp vào nhau. Các ngón tay cô xòe rộng, như thể đang cố gắng cởi cái khuy đó ra mà không phải tiếp xúc quá gần với bất cứ thứ gì khác.

“Đợi đã, để tôi làm việc này”, anh vội nói. Anh khéo léo cởi cái khuy và hai vạt áo vest mở phanh ra.

“Đây rồi.” Cô nín thở.

Một vết nhỏ màu đỏ sậm đã chuyển sang gần như đen lộ ra, làm ố một bên chiếc áo gi lê trắng. Tuy nhiên, vết đỏ này nằm dưới nách khá xa, tâm của nó gần như ở ngay trên vị trí của tim.

“Chắc là một phát súng.” Anh nói. “Phải, một viên đạn. Vết máu tròn và tỏa ra. Một nhát dao sẽ tạo ra một vệt dài hẹp.”

Anh cởi khuy áo gi lê và mở phanh nó ra. Bên dưới cũng có vết máu, nhưng các vết ở bên trong lan rộng hơn nhiều. Chiếc áo sơ mi đẫm máu như một tờ giấy thấm, đẫm ướt một bên sườn và một chút ở phía trước thành những vết tách rời. Anh cố không để cô nhìn thấy cảnh này quá nhiều, giữ hai vạt áo vest nâng lên cao một chút, như một tấm màn che. Rồi anh khép chúng lại phía trên vết thương.

“Hẳn là một khẩu súng rất nhỏ.” Anh nói. “Tôi không phải chuyên gia, nhưng đây là một lỗ đạn rất nhỏ.”

“Có lẽ chúng đều như thế cả.”

“Có lẽ thế.” Rồi anh thừa nhận. “Tôi chưa từng thấy một vết đạn bắn nào trước đây, nên tôi không thể nói gì được.”

“Ít ra chúng ta cũng có thể chắc chắn một điều”, cô nói, “đó là không còn ai khác ở lại căn nhà, ngoại trừ anh ta, bởi nếu không họ đã phải nghe thấy tiếng súng nổ.”

Lúc này anh đang đưa mắt nhìn quanh phòng. “Chúng đã mang nó đi cùng rồi; không có dấu hiệu của bất cứ cái nào quanh đây cả.”

“Anh đã nói họ của gia chủ nhà này là gì ấy nhỉ... của gia đình sống trong ngôi nhà này ấy?”

“Graves.”

“Đây là chủ gia đình à, ông bố ấy?”

“Không có ông bố nào cả; ông ấy đã chết mười hay mười lăm năm gì đó. Chỉ còn bà mẹ, một người phụ nữ rất có tiếng tăm, tôi nghĩ vậy. Rồi có hai người con trai và một cô con gái. Đây là người con trai lớn. Còn một người con hai nữa, đang là sinh viên, học đại học xa nhà. Cô con gái thì mới bước chân vào xã hội thượng lưu, như người ta vẫn gọi; cô biết đấy, người ta viết về cô này rất nhiều trên báo.”

“Nếu chúng ta có thể tìm hiểu nguyên do, nếu chúng ta có thể tìm ra động cơ...”

“Trong vài giờ tới. Cảnh sát đôi khi phải mất hàng tuần. Và cảnh sát biết mọi thứ cần phải làm.”

“Hãy bắt đầu từ những điều đơn giản nhất. Anh ta đã không tự mình gây ra chuyện này, bởi nếu vậy khẩu súng hẳn vẫn nằm đâu đó trong phòng, nhưng giờ thì nó không có ở đây.”

“Tôi đoán việc này cũng khá chắc rồi.” Anh do dự, không có vẻ gì là chắc chắn.

“Trộm cướp là lý do phổ biến nhất. Khi anh quay lại lần thứ hai, có thứ gì anh tùng thấy vào lần đầu tiên đã bị lấy đi không?”

“Tôi không biết.” Anh thừa nhận. “Tôi bước vào nhà mà không hề dùng đến ánh sáng, cô biết đấy. Tôi vấp phải anh ta và ngã sụp xuống.”

Cô thở dài đồng cảm.

“Cảm giác lúc đó như có một luồng điện xốc thẳng vào tim vậy. Vậy nên, sau khi quẹt diêm lên và thấy rõ đó là cái gì, tôi chỉ loạng choạng tới chỗ cái két... ý tôi là vòng ra sau nó... nhét tiền trả lại, rồi ra ngoài nhanh nhất có thể mà không dừng lại quan sát.”

Cô vỗ hai đầu gối của mình, đang nằm cách mặt sàn chừng ba mươi phân. “Vậy thì giờ là lúc để quan sát. Anh có nghĩ rằng mình có thể nhận ra có thứ gì đó đã biến mất so với lần trước không?”

“Không.” Anh thẳng thắn đáp. “Đừng quên là ngay cả lần đầu tôi cũng rất gấp gáp. Nhưng tôi sẽ cố, để xem tôi có thể hay không.”

Họ đứng lên và tạm thời quay lưng với cái xác. Họ đi tới phòng tắm; Quinn đi trước, vì anh biết công tắc đèn ở đâu.

Căn phòng bừng lên trong ánh sáng trắng lóa ngay khi anh vừa bật công tắc. Tấm gương gắn trên một bồn rửa nằm ở đầu đối diện căn phòng khiến họ nhầm lẫn rằng có những người khác vừa bước chân vào cùng lúc với họ. Những đứa trẻ đang hoảng sợ này là ai mà trông trẻ trung, vô vọng và bất lực đến thế?

Dù sao thì, cô cũng không để điều đó làm lãng phí thời gian của mình.

Thứ nổi bật nhất trong phòng là một cái lỗ vuông, thứ mà anh đã trổ ra trên lớp thạch cao, nằm bên tay phải khi họ bước vào, ngay sau vị trí của chiếc két ở phòng ngoài. Thật khó tin là từng có thời các bức tường của một ngôi nhà lại được xây dày đến vậy.

Anh đã bố trí tấm rèm che dùng khi tắm vòi hoa sen để che giấu cái lỗ đó; đã kéo, đã trùm nó lên che kín phía đó. Anh đã kể với cô như vậy. Nhưng hồi nãy, khi quay trở lại trong tâm trạng hốt hoảng vội vã, anh đã gạt nó sang một bên và để nguyên như thế. Nó đã bị đẩy dồn lại, gập xếp thành nếp, có thể nói như vậy, và cái lỗ trên tường nằm phơi ra ở khoảng trống mà tấm rèm để lộ.

Anh đã đục cái lỗ một cách gọn gàng, nhưng cô chẳng thấy chút tự hào nào trong việc đó, và cô biết anh cũng không. Cô dám chắc như vậy từ khuôn mặt anh. Như thể anh đã dùng một chiếc thước để đo trước, các cạnh của cái lỗ đều thẳng băng. Quanh thành lỗ chỉ lộ ra một chút viền dính thạch cao trắng mảnh như nét bút chì. Lớp sơn trên phần tường xung quanh gần như không bị rạn nứt, rất ít bị tác động. Có một, hai mảnh nhỏ trông như sắp sửa bung ra, nhưng chỉ vậy thôi. Anh hẳn đã dùng chân gạt hết vôi vữa rơi xuống dưới bồn tắm. Cô không hỏi anh, nhưng không còn chút vôi vữa nào dưới sàn, và cái bồn tắm lại theo kiểu cổ, có đáy nhô cao lên và được đỡ bằng chân chống.

Ở tận cùng của cái hốc mở ra trong tường, có thể thấy lờ mờ vách gỗ dính thạch cao trắng xóa. Anh thò tay vào trong và nắm quanh rìa tấm gỗ, theo cách anh đã làm trước đây, gỡ nó ra rồi đặt xuống. Nó là phần rìa sau của khung ốp gỗ tạo thành khoang chứa két.

Sau đó, anh chậm rãi rút cái két bằng thép từ phía sau, rồi đỡ nó nằm nghiêng trên cả hai cánh tay. Đó là một cái két bằng thép thông thường, thậm chí còn chẳng có ổ khóa, được nhét vào trong một khoang chứa ốp gỗ nằm chìm trong tường. Đúng là ở phía đối diện, bên kia phòng, cái két có một cánh cửa thép với một ổ khóa số; nhưng từ đằng sau thì việc tấn công nó dễ chẳng khác nào dùng dao nóng cắt bơ.

“Chẳng mấy khó khăn, phải không nào?” Cô hỏi.

“Tôi đoán nó được lắp từ lâu rồi, khi mà tội phạm còn chưa giỏi như bây giờ. Khi người ta còn không nghĩ rằng những chuyện như vậy có thể xảy ra trong nhà mình...”

Thế rồi anh im bặt, khuôn mặt hơi đỏ lên. Anh đang cảm thấy xấu hổ về điều mà mình đã làm, cô có thể nhận thấy điều đó. Anh là một tên tội phạm. Anh cảm thấy xấu hổ khi nghĩ lại hành động của mình, bản năng của anh phản đối điều đó. Đó hoàn toàn là một dấu hiệu tốt. Đây là cách mà chàng trai hàng xóm cần phải cảm thấy khi đã thực hiện một hành vi như thế.

Anh dùng chân khều một chiếc ghế tắm ba chân tráng men, rồi họ để cái két nặng trịch lên đó và mở nó ra để kiểm tra những thứ bên trong.

Tiền ở ngay trên cùng, số tiền mà anh vừa trả lại. Họ bỏ chỗ tiền qua một bên, tiếp tục lục lọi các tập giấy tờ. Ngả vàng, cũ kĩ đến khó tin, phần lớn còn nhiều tuổi hơn cả anh và cô.

“Đây là một bản di chúc... Cô có nghĩ rằng nó có liên quan gì tới vụ giết người không?”

“Tôi hy vọng là không... Nếu vậy thì đây không phải là loại vụ án mà chúng ta có thể điều tra ra kịp thời gian.”

Anh tiếp tục lục lọi, trong khi cô dừng lại để đọc nội dung của đống giấy tờ. “Đây là di chúc của người bố. Ông ấy đã chỉ định người thực hiện di chúc...” Cô ngoái đầu ra căn phòng ngoài. “Stephen, đó có phải là tên anh ta không?” Rồi lại chăm chú đọc thêm chút nữa. “Tôi không nghĩ cái này có liên quan tới vụ giết người. Mọi thứ đều được để lại cho người vợ, Henriette; những đứa con không được hưởng tài sản cho tới khi bà ta qua đời. Và bà mẹ không phải là người bị sát hại, mà là cậu con trai.” Cô gập bản di chúc lại rồi ném nó qua một bên.

“Dù sao thì đó cũng không phải là động cơ mà chúng ta đang tìm hiểu. Động cơ ấy là trộm cướp.”

“Anh đã nói là trong két có vài món đồ trang sức. Chúng đâu rồi, tôi không thấy chúng?” Trong giây lát, hy vọng của cô lại dâng lên.

“Chúng nằm trong ngăn thứ hai, đằng sau ngăn này. Nắp đậy cong ra sau ở một số chỗ, tôi sẽ chỉ cho cô thấy. Dù sao thì những món đồ ấy cũng không có giá trị lắm. Ý tôi là chúng cũng có giá trị nhất định, nhưng không phải kim cương hay những thứ tương tự.”

Anh mở nắp ngăn thứ hai ra. Họ lấy ra mấy chiếc hộp bọc nhung kiểu cổ mang hình dáng khác nhau, tất cả giờ đều đã ngả sang màu nâu xám. Một chuỗi ngọc trai. Một vòng cổ cẩn hoàng ngọc. Một cây trâm kiểu cổ bằng thạch anh tím.

“Mấy viên ngọc trai hẳn phải đáng giá vài nghìn.”

“Mọi thứ vẫn nguyên vẹn như lúc đầu.” Anh nói. “Tôi đã thấy tất cả những thứ này. Không có thứ gì bị lấy đi, từ lúc tôi...”

Anh dừng lời, và cho dù lần này không đỏ mặt nữa, anh lại đưa mắt nhìn xuống.

Cô cảm thấy hết sức thất vọng; trong chuyện này, hy vọng của họ đang cài số lùi. “Vậy thì đây không phải một vụ trộm”, cô bình tĩnh nói. “Sẽ khó khăn hơn cho chúng ta để...”

Họ hối hả cất mọi thứ về chỗ cũ. Tiền được cất vào sau cùng. Lần này anh nhìn chúng với vẻ căm thù. Cô biết. Cô không trách anh.

Họ đóng cái két lại, anh nâng nó lên rồi đẩy trở lại vào hốc tường. Anh chẳng buồn mất công dùng tấm rèm che lại nữa. Cô biết anh cũng đang suy nghĩ về điều đó. Với một xác chết nằm lù lù trước mắt, cố gắng che đậy dấu vết ít quan trọng hơn của một tội lỗi khác liệu có ích gì? Thật vô ích khi cố gắng tiếp tục tách riêng chúng ra. Chắc chắn người ta sẽ phát hiện ra nó ngay khi cái xác được tìm thấy.

“Được rồi, loại bỏ nguyên nhân đó.” Anh chán nản nói.

Họ lại đi vào trong. Anh tắt điện ở nơi hai người vừa rời khỏi.

Họ dừng lại, nhìn nhau bất lực. Giờ họ biết phải làm gì đây?

“Có những động cơ khác, cũng đơn giản như vậy”, cô nói, “chỉ là cá nhân hơn. Thù hận, tình yêu... Điều tiếp theo mà chúng ta phải làm...”

Anh hiểu ý cô. Anh kiên quyết bước tới bên cái xác, ngồi xuống cạnh nó một lần nữa.

“Anh vẫn chưa... đúng không?” Cô hỏi.

“Chưa, tôi chỉ châm một que diêm, sau khi vấp phải anh ta, rồi tiến lại gần sờ trán anh ta để kiểm tra, chỉ vậy thôi.”

Cô vượt qua cảm giác ghê sợ của mình, bước tới bên anh, rồi cũng ngồi xuống. Cũng sát vào như anh. “Được rồi, vậy thì giờ chúng ta phải moi hết mọi thứ ra.” Cô nói. “Tôi sẽ giúp anh.”

“Cô không cần phải mó tay vào. Tôi sẽ lấy mọi thứ ra. Cô có thể xem xét khi tôi đưa chúng cho cô.”

Họ mỉm cười với nhau một cách lạnh lẽo, vờ như không hề cảm thấy ghê tởm điều mình sắp làm.

“Tôi sẽ bắt đầu từ đây.” Anh nói. “Đây là túi cao nhất trong mọi bộ vest.”

Túi ngực. Không có gì trong đó ngoài chiếc khăn tay bằng vải lanh loại tốt, được gấp lại thành hình quạt, khiến một phần nhỏ nhô ra khỏi miệng túi.

Cô mở cái khăn ra, “Nhìn này, viên đạn xuyên qua cái khăn. Bởi cách cái khăn được gấp lại nên nó chỉ tạo ra một cái lỗ nhỏ ở dưới cùng. Rồi khi mở khăn ra, viên đạn tạo thành ba cái lỗ, như một kiểu hoa văn vậy. Giống như khi ta cắt giấy làm thành các hình đăng ten.” Cả hai không hề mỉm cười; đó là một thứ hài hước quá ghê sợ.

“Đó là tất cả những gì có trong cái túi đó. Giờ đến lượt túi trái bên ngoài. Anh ta đã đè lên nó một chút, áo khoác bị kẹt dưới người anh ta.” Anh phải nhấc cái xác lên một chút để kéo áo khoác ra ngoài.

Rồi sau khi đã làm xong việc đó...

“Túi này rỗng không, chẳng có gì trong đó hết, không chút gì.” Anh lôi lần vải xa-tanh đen của cái túi ra, để nó lộn trái cho cô thấy.

“Giờ đến lượt túi bên tay phải.”

Anh cũng lộn trái cái túi này ra. “Cũng không có gì.” Chúng tạo thành hai quả bóng nhỏ màu đen phồng một nửa ở hai bên hông cái xác, như một đôi phao tay bé tẹo. Anh tạm thời bỏ chúng lại như cũ.

“Giờ đến lượt túi trong áo vest.”

Lần này cánh tay của anh phải lách dọc theo ngực cái xác để lần tới chỗ cái túi. Khuôn mặt anh không để lộ ra điều gì. Dù sao thì giữa tay anh và cái xác vẫn còn một lớp áo sơ mi cứng đờ.

“Lấy mọi thứ ra”, cô khẽ thì thào, “không quan trọng là thứ gì.”

Cô khẽ lẩm bẩm kiểm kê lại mọi thứ, đủ để anh nghe được trong khi họ bắt tay vào việc, chuyển mọi thứ từ trong túi qua, từ tay anh sang bàn tay cô rồi đặt xuống sàn.

Một cách ghê rợn, họ giống như hai đứa trẻ lớn quá khổ đang chơi với những cái xô trên một đống cát, hay đang nặn bánh đất hoặc chơi trò gì đó. Cái cách họ ngồi cạnh nhau, đầu gối chĩa lên. Anh không nói gì, song từ khuôn mặt anh, cô có thể thấy rằng anh đang nghĩ họ chẳng có chút cơ hội nào... không phải với quãng thời gian ngắn ngủi còn lại của họ.

Đằng sau họ, trên giá sách, có một chiếc đồng hồ. Họ đang phải dùng hết sức mạnh tinh thần để ngăn bản thân không ngoái lại nhìn nó. Nhưng họ vẫn có thể nghe thấy nó. Nó không ngừng băm nát sự im lặng. Nó không ngớt tích tắc, tích tắc thật giễu cợt, thật tàn nhẫn, thật nhanh chóng. Không bao giờ ngưng lại, không bao giờ bỏ cuộc, chạy, chạy, chạy...

“Hộp đựng thuốc lá. Bằng bạc. Của Tiffany’s. Được tặng cho anh ta bởi một người có chữ cái đầu tên là B. Tặng S từ B. Trong hộp còn lại ba điếu thuốc. Dunhill.” Cạch. Cô đóng cái hộp lại rồi đặt xuống.

“Ví. Trâm cài cà vạt hiệu Mark Cross. Hai tờ năm đô la và một tờ một đô la. Hai vé xem chương trình biểu diễn ở Winter Garden. C-112,114. Hàng ghế thứ ba kể từ chỗ dàn nhạc, hẳn là vậy rồi. Được, ít ra thì chúng ta cũng biết anh ta đã ở đâu tối nay, từ tám giờ bốn mươi đến mười một giờ.”

“Hai giờ rưỡi trong ba mươi lăm năm”, anh ảm đạm nói.

“Chúng ta không cần phải lần ngược lại cả cuộc đời anh ta. Chúng ta chỉ cần tìm hiểu những gì đã diễn ra trong khoảng hai giờ hay hai giờ rưỡi tiếp theo, sau khi buổi trình diễn kết thúc. Anh ta đã không bị giết tại Winter Garden; anh ta vẫn còn sống khi bước ra khỏi đó. Điều này đã thu ngắn buổi tối lại đáng kể, đã loại đi một khoảng thời gian dài.”

“Còn gì trong túi nữa không?”

“Danh thiếp. Một Stafford nào đó. Một Holmes nào đó. Một Ingoldsby nào đó. Tôi đoán đây là... Không, đợi chút, ở đây còn một thứ nữa, trong cái ngăn nhỏ thứ hai này. Một bức ảnh. Một bức ảnh chụp anh ta và một cô gái mặc đồ cưỡi ngựa, cả hai đều ngồi trên lưng ngựa.”

“Đưa tôi xem nào.”

Anh xem qua bức ảnh, gật đầu. “Chính là cô gái tôi đã thấy cùng ra khỏi nhà với anh ta tối nay. Cô ta cũng có mặt, trong phòng ngủ, được lồng khung bạc. Tôi đã thấy cô ta khi tới đây làm việc hồi trước. Cô ta tên là Barbara.”

“Vậy là không phải cô ta giết người. Nếu là thế, cô ta hẳn đã không còn có mặt ở trong phòng ngủ của anh ta, trong cái khung bạc. Khi đó cái khung có lẽ vẫn còn, nhưng bức ảnh của cô ta thì không. Đó là lẽ thường tình.”

“Trong tất cả các túi chỉ có từng đó thứ thôi. Giờ tôi sẽ lấy các thứ trong bốn túi quần, hai túi ở hai bên hông, hai túi đằng sau. Túi sau bên trái, không có gì. Túi sau bên phải, khăn tay dự phòng, không còn gì khác. Túi hông bên trái, không có gì. Túi hông bên phải, chùm chìa khóa của anh ta và một nắm tiền lẻ.”

Cô hờ hững đếm qua chỗ tiền lẻ, như thể nhận ra chúng vô giá trị tới mức nào. “Tám mươi tư cent.” Cô nói và đặt chúng xuống.

“Thế là hết các túi quần túi áo của anh ta. Và chúng ta vẫn không nhích xa hơn được chút nào so với trước đó.”

“Có đấy, Quinn. Rất nhiều là đằng khác. Đừng nói thế. Nói cho cùng, chúng ta đâu có kỳ vọng tìm thấy một mảnh giấy có ghi, ‘Gửi ai quan tâm: X là kẻ đã giết tôi’, phải không nào? Chúng ta đã tìm được một cái tên từ hư không – Barbara – và chúng ta biết rằng Barbara trông thế nào, và cô này đã đi ra ngoài cùng nạn nhân vào đầu buổi tối nay. Chúng ta cũng biết họ đã đi đâu. Điều đó giúp thu hẹp phần mơ hồ xuống chỉ còn vài giờ ở khoảng trước và sau nửa đêm. Tôi nghĩ, chỉ riêng mấy cái túi áo túi quần mà cho chúng ta biết chừng đó cũng là nhiều rồi.”

Tích tắc, tích tắc, tích tắc...

Cô nhìn xuống sàn. Cô đặt tay lên vai anh một lúc, như để trấn tĩnh, động viên anh. “Tôi biết”, cô thì thầm rất khẽ. “Đừng nhìn nó, Quinn. Đừng ngoái lại nhìn nó. Chúng ta có thể làm được, Quinn. Chúng ta có thể. Chúng ta có thể thành công. Hãy không ngừng nói như vậy.”

Cô đứng lên.

“Tôi nhét mấy thứ này trở lại nhé?” Anh hỏi.

“Lúc này cứ để chúng ở đó đã. Cũng chẳng ảnh hưởng gì nhiều đâu.”

Anh cũng đứng dậy theo cô.

“Tiếp theo chúng ta hãy kiểm tra căn phòng.” Cô bảo. “Căn phòng xung quanh anh ta. Chúng ta đã kiểm tra anh ta, giờ hãy xem xét căn phòng, để xem chúng ta có thể tìm được gì.” Họ tách ra, dùng cái xác làm cột mốc. “Anh bắt đầu từ đằng kia. Tôi sẽ bắt đầu từ phía này.”

“Chúng ta tìm cái gì đây?” Anh hỏi với giọng đều đều, lưng quay về phía cô.

Tôi không biết, cô muốn bật khóc. Ôi, Chúa ơi, chính tôi cũng đâu có biết!

Tích tắc, tích tắc, tích tắc...

Cô cúi xuống để tránh không nhìn vào cái mặt đồng hồ, thậm chí ngay cả khi cô đi ngang qua trước mặt nó. Như một con đà điểu rúc đầu xuống cát, cô tự nhủ. Mà việc đó cũng chẳng dễ dàng gì; cái đồng hồ ở ngay kia, bên phía phòng cô phải kiểm tra, trừng trừng nhìn thẳng vào mặt cô. Những cuốn sách trên một tầng của giá sách đã được tách thành hai nửa để nó ngự ở giữa.

Ánh sáng xanh, cô lẩm nhẩm thành tiếng, trong lúc đôi chân chậm rãi bước dọc theo giá sách. Dầu đốt đèn Trung Hoa, Tiểu sử cá nhân...

Rồi cô hạ mắt xuống.

Tích tắc! Một khoảnh khắc trôi qua, một khoảnh khắc nữa mất đi khỏi quỹ thời gian eo hẹp của họ.

Rồi cô lại ngước mắt nhìn lên phía phải. Hướng Bắc tới phương Đông, Tấn bi kịch X... “Anh ta cũng không phải người đọc nhiều”, cô bình luận.

“Làm sao cô biết?” Anh tò mò hỏi vọng sang từ phía căn phòng mà anh đang kiểm tra.

“Chỉ là suy đoán của tôi thôi. Khi một người đọc nhiều sách, tất cả sách trên giá của anh ta sẽ rất giống nhau, ý tôi là thường đồng nhất một loại. Đây chỉ là một mớ hỗn độn; một cuốn loại này, một cuốn loại kia. Anh ta có lẽ phải sáu tháng mới sờ vào sách một lần, mỗi khi có một đêm mất ngủ hay đại loại thế.”

Cô là người đầu tiên tới chỗ nó, và dừng lại.

Rồi sau một khoảnh khắc trầm ngâm, cô gọi với sang chỗ anh, “Quinn.”

“Gì vậy?”

“Một người đàn ông hút thuốc lá – chúng ta đã tìm thấy hộp đựng thuốc lá trong túi áo anh ta – có thường hút cả xì gà không?”

“Cũng có thể. Nhiều người hút cả hai. Sao thế, cô tìm thấy đầu mẩu xì gà ở bên đó à?”

“Chà, vậy thì liệu anh ta có thể hút hai loại cùng lúc không? Một mình anh ta? Có hai đầu mẩu trong cái gạt tàn ở đây...”

Anh bước tới chỗ cô và nhìn vào cái gạt tàn.

“Tôi nghĩ có ai đó đã ở trên này cùng anh ta.” Cô nói. “Một người đàn ông nào đó. Anh không thể nói chắc được vị trí tàn nào tương ứng với chiếc ghế nào, gạt tàn ở vị trí có thể với tới từ cả hai. Một đầu mẩu đặt vào một rãnh hõm trên thành gạt tàn, đầu mẩu còn lại nằm trên một rãnh khác, ở phía đối diện.”

Anh cúi xuống quan sát gần hơn. “Anh ta đã không hút cả hai. Hai điếu này thuộc về hai nhãn hiệu khác nhau, không ai làm thế cả. Đã có ai đó ở trên này với anh ta, đúng vậy. Còn một điều nữa. Họ đã có một cuộc thảo luận về chuyện gì đó. Hay ít nhất một trong hai người đang rất kích động, còn người kia thì không. Hãy nhìn vào đầu mẩu bên này. Vẫn còn lành lặn; hơi ướt nước bọt, nhưng vẫn nguyên vẹn. Giờ hãy nhìn sang đầu mẩu phía bên này. Nó bị nhai nát tươm; tơi tả. Một trong hai người đang sôi lên vì chuyện gì đó. Cái đầu mẩu đã cho thấy điều đó.” Anh ngước lên nhìn cô. “Đây là điều tốt nhất mà chúng ta tìm được từ đầu đến giờ.”

“Tuy nhiên, ai là người nổi nóng và ai là người bình tĩnh đây? Graves hay người đàn ông kia? Chúng ta không biết.”

“Không, nhưng điều đó cũng không quá quan trọng. Nó cho chúng ta biết rằng có một người nữa ở đây, và với chúng ta đây là điều đáng quan tâm. Chỉ riêng sự hiện diện của hai loại xì gà khác nhau đã cho thấy rằng cuộc gặp gỡ này chẳng thân thiện chút nào. Một trong hai người đã từ chối lời mời xì gà của người kia... hoặc là đã chẳng có lời mời nào được đưa ra... và hút xì gà của mình. Họ hút đồng thời, nhưng không cùng nhau, cô hiểu ý tôi chứ? Có một sự căng thẳng, một trận cãi vã hoặc một cuộc tranh luận đã diễn ra.”

“Tốt, nhưng chưa đủ.” Cô đồng ý. “Nó không cho chúng ta biết người đàn ông còn lại là ai.”

Anh đi tới mé giáp tường của một trong hai chiếc ghế; hai chiếc ghế không hề được kê sát tường mà dịch về một bên, lệch ra khỏi phần giữa phòng, và che khuất phần đó cho tới tận lúc này.

“Đây là đồ uống của một trong hai người, được đặt xuống sàn gần sát ghế của anh ta.”

“Có ly đồ uống nào của người kia không?” Cô nhanh chóng hỏi, nỗ lực bảo vệ giả thiết của anh về sự xích mích.

Anh bước tới mé trong chiếc ghế thứ hai, nhìn xuống. “Không.”

Cô thở ra nhẹ nhõm. “Vậy thì điều đó chứng tỏ họ không thân tình với nhau. Tôi đã lo lắng trong một phút. Nó cũng cho chúng ta thấy đây chắc chắn phải là Graves, ngồi tại chỗ này, nơi có cái ly rỗng. Anh ta là chủ nhà. Anh ta tự rót cho mình một ly, nhưng không mời khách. Hoặc có mời, nhưng vị khách đã từ chối vì tức giận.”

“Phải. Không chắc chắn một trăm phần trăm, nhưng cũng rất có lý. Có thể là ngược lại, nhưng nhiều khả năng là không. Một vị chủ nhà không thân thiện với cô sẽ không hỏi cô có muốn uống gì không, rồi thể hiện nó bằng cách không uống cùng khách. Vị chủ nhà sẽ không ngỏ lời mời đồ uống ngay từ đầu. Vậy chúng ta cứ coi như đây là Graves, ở phía bên này.”

“Vấn đề không phải là anh ta ngồi ở đâu”, cô thất vọng lẩm bẩm, “mà là anh ta đã ngồi với ai.”

“Đợi một chút, ở đây có gì đó...” Bàn tay anh chỉ vào đường nối giữa tay vịn và thân của chiếc ghế thứ hai, chiếc ghế họ đã quyết định là của vị khách. Khuôn mặt họ cùng xìu xuống một chút, khi anh cầm nó lên.

“Vỉ diêm.” Cô chán nản nói.

“Trong thoáng chốc tôi đã hy vọng nó có thể là thứ gì khác.” Anh thừa nhận. “Tôi thấy nó thò ra ở đó. Graves có vỉ diêm trên người; hồi nãy tôi đã lấy nó ra. Vỉ diêm này chắc hẳn là của người kia. Tôi đoán nó trượt xuống đó trong khi vị khách kích động.”

Anh mở vỉ diêm gấp nhỏ xíu ra rồi lập tức đóng lại, định ném nó trở lại nơi anh vừa tìm thấy. Thế rồi anh hối hả đưa nó lại gần, mở nó ra lần thứ hai. Anh cau mày.

“Ái chà! Người này chắc chắn đã rất kích động. Nhìn xem hắn đã dùng bao nhiêu que diêm chỉ để châm một điếu xì gà này! Cô thấy không, hoặc là hắn đã quẹt hết que này tới que khác trong suốt cuộc nói chuyện, và có khi còn quên không sử dụng đến một nửa trong số chúng; hoặc điếu xì gà liên tục bị tắt vì hắn quên không rít nó, vì hắn đã nói quá nhanh.”

“Có thể vỉ diêm đã được dùng hết một nửa trước khi hắn đến đây.” Cô đưa ra ý kiến. “Đâu nhất thiết phải sử dụng một vỉ diêm mới, ngay cả với một điếu xì gà.”

Nhưng rõ ràng anh đã đi quá điểm này rồi. Anh không hề đáp lại. Anh vẫn đang nhìn chằm chằm vào nó, chăm chú hơn nhiều so với mức mà thứ đó đáng nhận được.

“Lại đây một chút.” Anh bảo, mắt vẫn không rời khỏi vỉ diêm. “Cái này nói gì với cô nào? Tôi muốn biết cô có nhận ra điều tôi vừa mới nhận ra không.”

“Kẹo cao su Doublemint à?”

“Không phải vỏ ngoài. Phần đựng diêm cơ, ở bên trong ấy.”

Đầu cô cúi xuống, ghé sát vào cạnh đầu anh. Họ đang cầm vỉ diêm như thể nó là thứ bùa hộ mệnh quý giá. “Đợi chút nào, thường thì một vỉ diêm có hai mươi que. Hai hàng mười que, trước và sau. Ở đây... dịch ngón tay cái ra nào... còn lại năm que, hai phía trước, ba phía sau. Như thế có nghĩa là hắn đã dùng hết mười lăm que diêm chỉ để châm một điếu xì gà, ý anh là vậy chứ gì?”

“Không, cô vẫn chưa hiểu ý tôi. Được rồi, nhìn này. Năm que diêm còn lại đều ở cuối hàng, về phía bên tay phải.”

“Ồ, đúng rồi...” Cô nói, có phần hơi muộn. “Tôi đã thấy thế từ đầu.”

“Giờ thì đợi đã. Đây. Đây là một vỉ diêm của tôi.” Anh đưa nó cho cô. “Lấy một que ra và đánh lửa đi. Đừng dừng lại suy nghĩ xem cô đang làm gì. Hãy chỉ quẹt một que diêm, như cô hẳn sẽ làm vào những lúc khác. Cô đang châm lửa cho cái bếp ga dưới bình cà phê. Làm đi, đừng dừng lại.”

Cô quẹt một que diêm, thổi tắt nó, rồi ngoảnh sang anh với vẻ ngập ngừng đầy quyến rũ.

“Giờ hãy nhìn lại vỉ diêm xem. Cô có thấy que diêm đó được lấy ra từ đâu không? Từ phía bên phải. Bất cứ một người đàn ông, một phụ nữ hay một đứa trẻ nào dùng thứ này cũng sẽ lấy ra một que diêm ra bắt đầu từ phía ngoài cùng, bên tay phải, rồi lấy lần lượt dọc theo hàng, từng que một sang bên trái. Vỉ diêm của gã này được lấy theo hướng ngược lại. Giờ cô hiểu ý tôi rồi chứ? Kẻ đã ngồi đối diện với Graves trên chiếc ghế này tối nay là một kẻ thuận tay trái.”

Miệng cô há ra thành một hình bầu dục câm lặng của vỡ lẽ, rồi cứ giữ nguyên như thế.

“Tôi không biết hắn là ai, trông hắn thế nào, liệu hắn có giết anh ta hay không. Nhưng tôi biết rằng hắn đã nổi xung hoặc bực bội vì chuyện gì đó, quẹt liền tù tì mười lăm que diêm để châm một điếu xì gà và nhai nát bét phần đầu lọc của nó, hắn có mâu thuẫn với Graves và hắn thuận tay trái.”

Cô đưa tay ra với lấy vỉ diêm và anh trao nó lại cho cô một cách lơ đãng. Rồi anh nhận thấy ánh mắt của cô trở nên thật lạ.

“Tôi xin lỗi, Quinn.” Cô nói với vẻ đồng cảm kỳ lạ.

“Ý cô là sao?”

“Tất cả những suy đoán đó vừa tan thành mây khói rồi.”

Lần này đến lượt ánh mắt anh trở nên thật lạ. “Tại sao? Làm thế nào?”

“Đây là một người phụ nữ.”

Đầu tiên cô cầm lấy bàn tay anh, giữ lấy nó, rồi dùng bàn tay còn lại đặt vỉ diêm vào đó. “Ngửi nó xem.” Cô nói ngắn gọn. “Đưa nó lên ngang môi trên của anh xem.”

Anh muốn tranh luận trước khi làm vậy. “Một phụ nữ đã nhai nát bét điếu xì gà kia thành rau chân vịt sao?” Anh đưa tay dữ dằn chỉ ra phía sau mình. “Một phụ nữ đã ngồi trên chiếc ghế đó?”

“Tôi không biết gì về điếu xì gà hay chiếc ghế cả. Tất cả những gì tôi đề nghị là anh hãy đưa cái vỉ diêm này lên ngang môi và giữ như thế trong một phút.”

“Mùi lưu huỳnh và các thứ khác, vẫn là mấy thứ mùi của diêm...”

“Hãy đợi một phút để thứ mùi này lộ rõ đã. Nó là thứ mùi mạnh hơn trong hai thứ mùi, nó trội lên trên thứ mùi còn lại. Nào.”

Khuôn mặt anh thừa nhận bằng cái nhăn mặt ngao ngán. “Nước hoa.” Anh nhăn nhó nói. “Mùi nước hoa thoang thoảng.”

“Cái vỉ diêm này được lấy ra từ xắc tay của một ai đó. Nó đã được mang đi cả ngày trong một cái xắc tay. Một cái xắc tay đẫm mùi nước hoa. Chỉ cần cho vào trong xắc là lớp vỏ các-tông đã ngấm mùi. Cô ta chỉ cần mở cái xắc ra một hay hai lần trong khi ở đây là đủ để khiến không khí trong này thoang thoảng thứ mùi đó. Tôi đã nhận ra nó từ ngoài hành lang, trong bóng tối, khi chúng ta đi vào. Đã có một người phụ nữ trong căn phòng này tối nay.”

Anh không muốn thừa nhận. Anh buộc phải thừa nhận, nhưng không muốn. “Thế còn điếu xì gà thì sao? Ai đã hút hai điếu xì gà, một nặng, một nhẹ? Một người hút một cách bình thản, người kia đầy kích động? Ý cô là anh ta đã hút cả hai cùng lúc sao?”

“Có lẽ đã có một người đàn ông ở đây trước khi cô ta có mặt. Hoặc có thể người đó đã có mặt ở đây sau cô ta. Cũng có thể hai người họ cùng có mặt ở đây một lúc.”

“Không, họ không thể.” Anh nói một cách độc đoán. “Đầu mẩu xì gà cho thấy người đàn ông đã ngồi trên chiếc ghế này, đối diện với nạn nhân. Vỉ diêm cho thấy một người phụ nữ đã ngồi ở đó. Họ không thể ngồi trên chiếc ghế đó cùng một lúc được.”

“Nếu tâm trí của người đàn ông đang rối tung rối mù và anh ta đã dùng hết diêm của mình, có thể anh ta đã hỏi mượn diêm của người phụ nữ. Anh ta ngồi ở chiếc ghế này nói chuyện với Graves, còn người phụ nữ ở đâu đó phía đối diện, lắng nghe họ.”

Anh bác bỏ giả thiết này bằng cái ngẩng đầu lên. “Như thế thật không phù hợp. Graves đang hút xì gà ở ngay đối diện với vị khách này, gần hơn nhiều so với vị trí người phụ nữ, dù cô ta ngồi ở đâu đi nữa. Không có cái ghế thứ ba nào ở gần. Rõ ràng anh ta có thể mượn diêm từ Graves, thay vì từ cô ta.”

“Nhưng nếu họ đang cãi cọ hết sức gay gắt thì sao?”

“Một que diêm không được xem là một cử chỉ thân thiện. Nó không giống như một ly rượu hay một điếu xì gà. Vị khách gần như có thể tự ý lấy diêm mà không cần hỏi. Dù sao đi nữa, nếu anh ta đã phải hỏi mượn thì nhất định phải có một vỉ diêm không còn lại que nào bị vứt bỏ đâu đây, một vỉ diêm đã dùng hết. Vậy thì nó đâu?” Anh bật một khớp ngón tay đang uốn gập lại lên khỏi thành trên lưng tựa của chiếc ghế. “Hai người đó không có mặt ở đây cùng lúc.”

“Được rồi, họ không ở đây cùng nhau. Nhưng điều đó cũng không giúp ích được gì nhiều. Ai đến trước? Bởi vì ai đến sau thì đó chính là kẻ sát nhân.”

“Giờ chúng ta đang đi giật lùi.” Anh ngao ngán nói.

Tích tắc, tích tắc, tích tắc...

Cả hai cùng nhìn xuống sàn, nhìn về phía khác, tránh xa cái đồng hồ.

Họ đang đứng cạnh hai chiếc ghế. Toàn bộ sự việc đã xảy ra cạnh hai chiếc ghế này.

Có thể điều này xảy ra là vì họ nhìn xuống một cách chăm chú như thế, để cố tránh khỏi âm thanh của chiếc đồng hồ. Đây là một thứ khó có thể nhìn thấy. Bản thân tấm thảm có màu nâu. Đột nhiên cô hạ người xuống theo ánh mắt mình. Hạ hẳn người xuống, nửa cúi gằm, tựa trên một đầu gối, chống một tay xuống sàn. Bàn tay cô lùa xuống dưới chiếc ghế thứ hai, nơi vỉ diêm được tìm thấy, nơi chủ nhân của mẩu xì gà bị nhai nát đã ngồi, rồi thu tay lại. Cô đứng thẳng dậy, ngửa lòng bàn tay giơ lên, dùng ngón tay chỉ vào một thứ trên đó.

“Đừng nói với tôi là một thứ khác...?” Anh thảng thốt với vẻ không tin nổi.

“À, anh tự nhìn đi”, là câu trả lời của cô.

Vật này rất nhỏ; bằng đúng cỡ một đồng xu nửa dime. Nó màu nâu, có hình bán nguyệt; một bên rìa uốn vòng tròn, rìa còn lại thẳng. Trên vật này có hai cái lỗ nhỏ còn nguyên, và ở phía rìa thẳng có dấu vết của hai cái lỗ nữa. Một búi chỉ màu nâu vẫn còn vướng vào hai cái lỗ nguyên vẹn.

“Khuy vỡ.” Anh khẽ nói gần như kính cẩn.

“Khuy áo vest?”

“Khuy ống tay áo. Những cái khuy mà cô không dùng đến, ở bên ngoài ống tay. Ý tôi là chúng ta không dùng. Cái khuy này quá nhỏ để có thể là thứ gì khác.”

“Chắc là nó đã bị vỡ một thời gian rồi, có thể là kể từ lần cuối bộ đồ của hắn được giặt khô, và cuối cùng tối nay nó rơi xuống dưới ghế. Có thể hắn đã cử động bàn tay quá nhiều, vung vẩy hoặc làm các động tác với điếu xì gà đó.”

“Nhưng làm thế nào cái khuy rơi xuống dưới gầm ghế được?”

“Rơi xuống từ mép ghế, tôi nghĩ vậy. Sau đó có thể trong lúc đứng bật dậy vì tức giận, hắn đã xô lệch cái ghế một chút, vậy là mảnh khuy vỡ ở dưới gầm ghế, dù vẫn nằm nguyên chỗ nó đã rơi xuống.”

“Làm sao chúng ta biết cái khuy này không phải của Graves chứ? Có thể nó đã lăn lóc dưới sàn nhiều ngày rồi.”

“À, chúng ta sẽ làm rõ việc này ngay bây giờ, trước khi có thể đi xa hơn. Đây là việc chúng ta có thể làm, ơn Chúa! Cái khuy này hẳn phải thuộc về một bộ đồ màu nâu hoặc nâu sẫm. Tôi không cần phải là một người đàn ông để biết được rằng những bộ đồ màu xanh dương hay xám không có khuy màu nâu. Lúc này anh ta đang nằm đó, mặc bộ đồ dạ tiệc, và cái khuy không phải rơi ra từ đó.”

Cô đi vào phòng ngủ, mở toang tủ quần áo ra, giật dây bật đèn. “Các cửa sổ an toàn cả chứ?”

“Phải, tôi đã che kín chúng rồi.” Đôi mắt anh mở to ngơ ngẩn, nhìn qua vai cô về phía trước. “Cô nhìn xem! Làm thế nào một người có thể sống đủ lâu để mặc tất cả những thứ xa xỉ...”

Họ đều có chung một ý nghĩ mà không nói ra, À, anh ta đâu có như vậy.

Những bộ đồ có màu nâu hoặc gần như vậy chỉ chiếm một số lượng nhỏ, như chúng vẫn luôn thế, vì một lý do nào đó, trong bất cứ tủ quần áo đàn ông nào, dù lớn hay nhỏ. “Ở đây có một bộ đồ màu mù tạt có thể coi là hợp màu.” Cô nhấc mắc áo xuống, lật ngược mặt dưới một ống tay áo lên, rồi kiểm tra ống tay áo còn lại, đưa ngón tay lướt nhanh qua hàng khuy áo. “Tất cả đều còn nguyên.” Cô treo bộ đồ lại chỗ cũ. “Một bộ màu nâu đây rồi.” Cô lấy nó xuống và kiếm tra.

“Đừng bỏ qua các túi quần sau.” Anh cẩn thận nhắc. “Túi sau bên trái thường có những cái khuy... ít nhất với đồ của tôi thì là vậy.”

“Vẫn còn nguyên.” Cô treo bộ đồ trở lại. “Tất cả chỉ có vậy. Không, đợi đã, có một chiếc áo vest nữa, được treo đằng kia, trên cái móc tận phía sau, hẳn là cũ lắm rồi. Nó cũng có màu nâu.” Cô thử kiểm tra chiếc áo, rồi treo nó trở lại. “Không đúng kiểu khuy; là khuy đặc có khuyên luồn chỉ ở đằng sau thay vì được đục lỗ xuyên qua. Mà dù sao thì cũng không có cái khuy nào bị thiếu.” Cô giật dây để tắt đèn, đóng cửa tủ quần áo lại. “Vậy là không phải của anh ta. Cái khuy thuộc về kẻ đã tới đây, đã nhai điếu xì gà, đã nổi cáu với anh ta, và có thể – mà cũng có thể là không – là người thuận tay trái.”

Họ hối hả quay trở lại bên trong. “Giờ chúng ta đã biết thêm hai chi tiết nữa về hắn, Quinn. Anh có nhận ra điều đó không? Hắn mặc một bộ đồ màu nâu hay nâu sẫm khi tới đây, và có một cái khuy bị bung ra hoặc bung ra một nửa ở một bên ống tay áo khoác. Chúa ơi, nếu chúng ta là các thám tử chuyên nghiệp, ai biết được chúng ta có thể làm gì với những thông tin này? Hoặc có khi chỉ với một nửa chỗ đó thôi?”

“Nhưng chúng ta không phải.” Anh nói, nếm một thứ tưởng tượng nào đó – không mấy dễ chịu – trên môi mình bằng đầu lưỡi.

“Tối nay chúng ta sẽ phải trở thành như thế.”

“Đây là thành phố lớn nhất trên thế giới.”

“Điều đó có thể khiến mọi việc dễ dàng hơn với chúng ta, thay vì khiến nó khó khăn hơn. Nếu đây là một nơi nhỏ bé, nếu đây là một ngôi làng như ở quê thì chúng sẽ biết rằng nguy cơ bị phát hiện là lớn hơn nhiều, chúng sẽ nằm im, thận trọng đề phòng, và chúng ta sẽ không bao giờ có thể... Nơi này quá lớn, và điều đó có thể sẽ khiến chúng cảm thấy an toàn, điều đó có thể sẽ khiến chúng có cảm giác an toàn một cách sai lầm, chúng có thể sẽ chẳng buồn ẩn nấp hay trốn tránh...” Cô ngừng lời và quan sát biểu cảm trên mặt anh. “Sao chứ, đó là một cách nhìn nhận tình hình, phải không nào? Đó là một cách.”

“À, chẳng ích gì đâu, Bricky.” Anh than thở. “Đùa bỡn với chính mình thì có ích gì chứ? Nghe cứ như một câu chuyện cổ tích dành cho trẻ con, nơi có thể dùng một câu thần chú để biến điều ta muốn thành hiện thực...”

“Đừng.” Cô nói với giọng nghèn nghẹn. “Đừng, làm ơn. Đừng khiến tôi phải làm tất cả vì hai chúng ta...” Đầu cô cúi xuống.

“Tôi nhát quá.” Anh nói. “Tôi xin lỗi.”

“Không, anh không nhát, không thì tôi đã không ở trong căn phòng này cùng anh.”

Tích tắc, tích tắc, tích tắc...

“Sau một phút nữa, tôi sẽ quay lại và nhìn vào cái đồng hồ đó, cả anh cũng