← Quay lại trang sách

Chương 13

Avery mỉm cười trước các số liệu mà máy tính in ra.

“Trong tháng Mười, anh đã ghi hóa đơn trung bình là sáu mươi mốt giờ mỗi tuần.”

“Tôi nghĩ là sáu mươi bốn,” Mitch nói.

“Sáu mươi mốt là đủ tốt rồi. Thật đấy, chúng ta chưa từng có người nào mới năm đầu đã ghi hóa đơn trung bình trong tháng cao đến vậy. Nó có hợp thức không đấy?”

“Không đệm hàng. Thật ra tôi còn có thể đẩy lên cao hơn nữa.”

“Anh làm việc bao nhiêu giờ mỗi tuần?”

“Từ tám mươi lăm đến chín mươi. Tôi có thể ghi hóa đơn bảy mươi lăm nếu muốn.”

“Tôi khuyên anh không nên làm vậy, ít ra là trong hiện tại. Nó có thể gây ra chút ganh tỵ ở quanh đây. Các cộng sự trẻ đang theo dõi anh rất sát sao đấy.”

“Ông muốn tôi giảm tốc?”

“Dĩ nhiên là không. Ngay hiện giờ, anh và tôi đã tụt lại một tháng phía sau. Tôi chỉ lo những giờ đăng đẳng. Chỉ lo một chút thôi. Hầu hết các cộng sự đều khởi đầu như ngọn lửa cháy rừng – những tuần lễ tám mươi, chín mươi giờ - nhưng chỉ sau đôi ba tháng họ đã bị thiêu rụi. Sáu mươi lăm đến bảy mươi là trung bình. Nhưng hình như anh có một xung lực phi thường.”

“Tôi không cần ngủ nhiều.”

“Vợ anh nghĩ sao về chuyện này?”

“Chuyện đó có gì là quan trọng.”

“Cô ấy có phiền hà về những giờ đăng đẳng không?”

Mitch nhìn chằm chặp Avery, nghĩ về cuộc cãi cọ đêm hôm trước, khi anh về ăn tối vào lúc ba phút trước nửa đêm. Đó là một cuộc chiến có kiểm soát, nhưng là một cuộc chiến tồi tệ nhất đến nay, và nó còn hứa hẹn sẽ bị những người khác theo dõi. Không có đất cho sự buông bỏ. Abby nói cô cảm thấy gần gũi với ông Rice hàng xóm còn hơn cả với chồng mình.

“Cô ấy hiểu. Tôi bảo cô ấy tôi có thể trở thành đối tác trong hai năm và nghỉ hưu trước tuổi ba mươi.”

“Có vẻ như anh đang phấn đấu chuyện đó thật.”

“Ông đâu phàn nàn gì, đúng không? Từng giờ mà tôi ghi hóa đơn trong tháng rồi đều nằm trong hồ sơ của ông, và ông đâu có vẻ gì quá quan tâm khi dồn việc cho tôi.”

Avery đặt bản in lên chiếc tủ búp-phê và chau mày với Mitch. “Tôi chỉ mong anh không bị thiêu rụi hay lơ là việc nhà.”

Có vẻ thật kỳ cục khi nhận lời khuyên về hôn nhân từ một gã đàn ông đã bỏ vợ. Anh nhìn Avery với nhiều vẻ khinh khi nhất mà anh có thể tạo ra. “Ông không cần phải lo chuyện gì xảy ra trong nhà tôi. Chừng nào mà tôi còn hiệu quả nơi đây thì ông nên lấy đó làm mừng.”

Avery chồm qua bàn. “Coi nào, Mitch, tôi không giỏi lắm trong những việc như thế. Nó đến từ cấp cao hơn. Lambert và McKnight lo rằng anh đang thúc đẩy hơi quá gắt. Ý tôi là năm giờ vào buổi sáng, sáng nào cũng như sáng nào, thậm chí cả một số ngày Chủ nhật. Như vậy là căng thẳng lắm đó, Mitch.”

“Họ nói gì?”

“Không nói gì nhiều. Tin hay không thì tùy. Mitch, những người này đang thực sự quan tâm đến anh và gia đình anh. Họ muốn có các luật sư hạnh phúc với các bà vợ hạnh phúc. Nếu mọi thứ êm xuôi thì các luật sư cũng hiệu quả hơn. Lambert đặc biệt gia trưởng. Ông ấy đang lên kế hoạch nghỉ hưu sau vài năm nữa, và ông ấy đang tìm cách làm sống dậy những năm tháng vinh quang của ông ấy thông qua anh và những người trẻ khác. Nếu ông ấy hỏi han quá nhiều hay có chút vẻ dạy đời thì hãy bỏ qua cho ông ấy. Ông ấy xứng đáng để sắm vai cha chú ở nơi đây.”

“Bảo họ là tôi ổn, Abby cũng ổn, tất cả chúng ta đều vui vẻ và tôi làm việc rất hiệu quả.”

“Tốt. Giờ thì đến chuyện mới lạ đây. Tôi và anh sẽ đến Grand Cayman một tuần nữa tính từ ngày mai. Tôi phải gặp vài chủ ngân hàng người Cayman nhân danh Sonny Capps và ba thân chủ khác. Chủ yếu là công việc, nhưng chúng ta luôn có thể tranh thủ đôi chút để lặn bình và lặn ống thở. Tôi đã nói với Royce McKnight rằng tôi cần anh, và ông ta đã chuẩn y chuyến đi. Ông ta nói có lẽ anh cần một chút R&R. Anh có muốn đi không đấy?”

“Dĩ nhiên, tôi chỉ hơi bất ngờ thôi.”

“Đó là chuyến đi làm ăn nên không được mang vợ theo. Lambert hơi lo điều đó sẽ sinh sự ở nhà.”

“Tôi nghĩ ông Lambert đang lo lắng quá nhiều về những gì xảy ra trong nhà tôi. Hãy nói với ông ấy rằng tôi kiểm soát được. Không có vấn đề gì cả.”

“Vậy là anh sẽ đi?”

“Chắc chắn rồi. Tôi sẽ đi. Chúng ta sẽ ở đó trong bao lâu?”

“Vài ngày. Chúng ta sẽ ngụ tại một trong các căn hộ chung cư của hãng. Sonny Capps có thể ngụ trong một căn khác. Tôi đang cố lấy máy bay của hãng, nhưng chúng ta có thể sẽ phải dùng chuyến bay thương mại.”

“Với tôi thì không có vấn đề gì.”

Ở Miami, chỉ có hai hành khách trên chiếc Cayman Airways 727 là đeo cà vạt. Và sau một vòng Punch Rum khuyến mãi đầu tiên, Avery lấy chai của ông ra và nhét nó vào túi áo khoác. Món Punch Rum được phục vụ bởi các cô tiếp viên xinh đẹp da nâu người Cayman với những đôi mắt xanh và nụ cười duyên dáng. Các em dưới đó thật là tuyệt. Avery nói không chỉ một lần.

Mitch ngồi sát cửa sổ, cố giấu nỗi phấn khích từ chuyến đi nước ngoài đầu tiên. Anh đã tìm được một cuốn sách về các đảo Cayman trong thư viện. Có tất cả ba đảo lớn: Grand Cayman, Little Cayman, và Cayman Brac. Hai hòn đảo nhỏ hơn có dân cư thưa thớt và hiếm khi có khách đến. Grand Cayman có mười tám ngàn dân, mười hai ngàn công ty đăng ký hoạt động và ba trăm ngân hàng. Dân cư gồm hai mươi phần trăm da trắng, hai mươi phần trăm da đen, và sáu mươi phần trăm còn lại thì không rõ, và cũng chẳng ai thèm quan tâm. Georgetown, thủ đô của nó, những năm gần đây đã trở thành một thiên đường thuế quốc tế với các chủ ngân hàng kín kẽ cũng giống như các chủ ngân hàng Thụy Sĩ. Không có thuế thu nhập, thuế doanh nghiệp, thuế bất động sản hay thuế quà tặng. Một số công ty và một số khoản đầu tư được đảm bảo không thu thuế trong vòng năm mươi năm. Các hòn đảo là lãnh thổ thuộc Anh với chính quyền ổn định một cách bất bình thường. Thu nhập từ thuế xuất khẩu và du lịch được tài trợ cho bất cứ thứ gì mà chính quyền thấy cần thiết. Không có tội ác hay thất nghiệp.

Grand Cayman dài ba mươi bảy cây số và rộng mười hai cây số ở nhiều đoạn, nhưng từ trên không thì nó trông nhỏ hơn nhiều. Đó là một hòn núi đá nhỏ bao quanh bởi một vùng nước trong veo như ngọc bích. Việc hạ cánh diễn ra hầu như trên một hồ nước mặn, nhưng ở những giây cuối cùng một dải nhựa đường hiện ra và đón lấy máy bay. Họ xuống máy bay và nhanh chóng đi qua hải quan. Một anh chàng da đen chộp lấy các túi xách của Mitch rồi ném chúng cùng các túi xách của Avery vào thùng sau của một chiếc Ford LTD đời 1972. Mich trả tiền típ cho anh ta một cách hào phóng.

“Bãi Seven Mile!” Avery ra lệnh sau khi nốc cạn chỗ Punch Rum cuối cùng còn sót lại.

“Vâng, mon,” người tài xế lè nhè nói. Anh ta bẻ lái chiếc taxi rồi vọt thẳng theo hướng Georgetown. Chiếc radio phát một điệu giậm giật. Người tài xế lắc lư, gõ nhịp bằng các ngón tay trên bánh lái. Anh ta đang đi ngược chiều, nhưng mọi người ở đây ai cũng làm thế cả. Mitch ngả sâu vào chiếc ghế mòn vẹt rồi bắt chéo hai chân. Chiếc xe không có máy điều hòa, chỉ có các cửa sổ để mở. Không khí nhiệt đới oi bức vuốt qua khuôn mặt anh, thổi tung mái tóc anh. Thật là dễ chịu.

Hòn đảo rất bằng phẳng, và con đường đến Georgetown nhộn nhịp những chiếc xe châu Âu, xe gắn máy và xe đạp. Các ngôi nhà đều nhỏ bé, chỉ một tầng lầu với mái tôn và những tác phẩm bích họa đầy chăm chút và nhiều màu sắc. Các thảm cỏ đều hẹp với những cọng cỏ thưa thớt, nhưng bụi bặm được quét dọn tươm tất. Khi họ đến gần thành phố, các ngôi nhà chuyển thành các cửa hàng cùng hàng ngàn tòa nhà ba tầng khung sơn trắng, nơi du khách đứng dưới các mái che để tránh nắng. Người tài xế đánh một vòng rất gắt rồi đột nhiên họ ở giữa một khu thương mại đông đúc với những tòa nhà ngân hàng hiện đại.

Avery đảm nhận vai trò hướng dẫn viên du lịch. “Ở đây, các ngân hàng đến từ khắp mọi nơi. Đức, Pháp, Anh, Canada, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Đan Mạch. Thậm chí cả Ả Rập Saudi và Israel nữa. Hơn ba trăm cái là ít nhất. Nó trở thành một thiên đường thuế rất lớn. Các chủ nhà băng ở đây cực kỳ im ắng. Họ làm cho đám Thụy Sĩ trông cứ như một lũ khoác lác vậy.”

Chiếc taxi chậm lại trong luồng giao thông dày đặc, và gió cũng ngừng thổi. “Tôi thấy có nhiều ngân hàng Canada,” Mitch nói.

“Cái tòa nhà ngay chỗ kia là tòa Royal Bank của Montreal. Chúng ta sẽ đến đó vào lúc mười giờ sáng. Phần lớn công việc của chúng ta là với các ngân hàng Canada.”

“Có lý do đặc biệt nào không?”

“Chúng rất an toàn, và rất kín kẽ nữa.” Con đường đông đúc chợt rẽ ngang, đâm vào một con đường đông đúc khác. Bên kia đoạn giao nhau, sắc xanh Caribe lấp lánh xuất hiện ở chân trời. Một con tàu du lịch đang neo bên trong vịnh.

“Vịnh Hogsty đấy,” Avery nói. “Đó là nơi bọn hải tặc đậu thuyền của chúng cách đây ba trăm năm. Chính Râu Đen đã quần thảo các hòn đảo này và chôn giấu của ăn cướp của hắn. Một số của cải đó đã được tìm ra cách đây vài năm trong một cái hang ở phía đông nơi đây, gần Boden Town.” Mitch gật đầu như thể anh tin câu chuyện đó. Người tài xế mỉm cười với hình ảnh của chính anh ta trên tấm gương chiếu hậu.

Avery quẹt mồ hôi trán. “Nơi này luôn thu hút đám hải tặc. Một thời là Râu Đen, giờ thì là đám hải tặc thời hiện đại. Họ thành lập các tập đoàn rồi giấu tiền bạc ở đây. Có đúng vậy không, mon?”

“Đúng vậy đó, mon,” người tài xế đáp lại.

“Đó là bãi Seven Mile,” Avery nói. “Một trong những bãi biển đẹp và nổi tiếng nhất thế giới. Có đúng vậy không, mon?”

“Đúng vậy đó, mon.”

“Cát trắng như đường. Nước trong veo, ấm áp. Những cô gái đẹp ấm áp. Có đúng vậy không, mon?”

“Đúng vậy đó, mon.”

“Tối nay sẽ có tiệc ngoài trời ở Palms, đúng không?”

“Vâng, mon. Vào lúc sáu giờ.”

“Quán đó ở sát căn hộ chung cư của chúng ta. Palms là một khách sạn nổi tiếng, với các hoạt động nóng nhất trên bãi biển.”

Mitch mỉm cười, nhìn các khách sạn lướt qua. Anh nhớ lại cuộc phỏng vấn tại Harvard, khi Oliver Lambert rao giảng về việc hãng không tán thành việc ly hôn và gái gú. Và cả chuyện nhậu nhẹt nữa. Có lẽ Avery đã quên những bài thuyết pháp đó chăng? Cũng có thể là không.

Căn hộ chung cư nằm ở trung tâm của bãi Seven Mile Beach, ở sát bên một khu phức hợp và khách sạn Palms. Như kỳ vọng, những căn hộ mà hãng sở hữu đều rộng mênh mông và được trang trí rất bắt mắt. Avery nói chúng có thể được bán với giá tối thiểu là nửa triệu mỗi căn, nhưng chúng không phải để bán. Chúng cũng không phải để cho thuê. Chúng là nơi cư trú dành cho các luật sư đã mệt nhoài của hãng Bendini, Lambert & Locke. Và cả một số ít thân chủ rất được ưu ái nữa.

Từ ban công phòng ngủ ở tầng hai, Mitch ngắm những con thuyền nhỏ trôi lững lờ trên mặt biển lóng lánh. Mặt trời đã bắt đầu xuống thấp và những con sóng nhỏ phản chiếu những tia sáng theo hàng triệu hướng khác nhau. Chiếc thuyền du lịch di chuyển chầm chậm ra khỏi đảo. Hàng chục người đang tản bộ trên bãi biển, đá cát, té nước, rượt theo đám ghẹ, uống Punch Rum và món bia Red Stripe của Jamaica. Nhạc điệu Caribe trôi dạt ra từ Palms, nơi một quầy bar có mái che thu hút tựa nam châm những kẻ lang thang trên bãi biển. Từ một túp lều tranh gần đó, người ta cho thuê ống thở, bè đôi và banh bóng chuyền.

Avery bước ra ban công trong chiếc quần lửng hoa hòe màu cam và vàng. Cơ thể ông gầy và săn chắc, không có một chỗ nhão nào. Ông sở hữu một phần lợi ích trong một câu lạc bộ sức khỏe ở Memphis và luyện tập hàng ngày. Hiển nhiên, trong câu lạc bộ này có những chiếc giường rám nắng. Mitch thấy rất ấn tượng.

“Anh thấy tôi ăn mặc thế nào?” Avery hỏi.

“Rất đẹp. Hợp với ông lắm đó.”

“Tôi còn một chiếc quần nữa, nếu anh thích.”

“Không, cảm ơn. Tôi sẽ trung thành với chiếc quần đùi thể thao Western Kentucky của tôi.”

Avery nhấp một hơi thức uống rồi ngắm nghía khung cảnh. “Tôi đến đây đã hàng chục lần mà vẫn thấy phấn khích. Tôi từng nghĩ sẽ xuống đây ở khi nào về hưu.”

“Thế thì tuyệt quá rồi. Ông có thể tản bộ trên bãi biển và rượt bắt mấy con ghẹ.”

“Rồi chơi domino và uống Red Stipe nữa. Anh đã uống Red Stripe bao giờ chưa?”

“Chưa, theo như tôi nhớ.”

“Ta làm một chai nhé.”

Quầy bar ngoài trời có tên là Rumheads. Nó đang chật ních với khoảng ba mươi du khách và vài người địa phương ngồi cùng nhau chơi domino quanh một chiếc bàn gỗ. Avery vất vả chen qua đám đông rồi trở lại với hai chai bia. Họ tìm được một chỗ ngồi gần sòng domino.

“Tôi nghĩ đó là điều tôi sẽ làm khi nghỉ hưu. Tôi sẽ xuống đây chơi domoni sống qua ngày. Và uống Red Stripe nữa.”

“Bia ngon nhỉ.”

“Và khi tôi chán domino thì tôi sẽ chơi phóng phi tiêu.” Ông hất đầu về một phía góc, nơi một đám người Anh say xỉn đang ném phi tiêu vào một tấm bia và chửi bới lẫn nhau. “Và khi tôi chán phi tiêu thì, xem nào, ai biết được tôi sẽ làm gì. Xin lỗi nhé.” Ông tiến thẳng đến chiếc bàn ở mái hiên, nơi hai cô gái mặc bikini vừa ngồi xuống. Ông tự giới thiệu mình và họ mời ông ngồi. Mitch gọi một Red Stripe nữa rồi đi ra bãi biển. Xa xa, anh có thể trông thấy các tòa nhà ngân hàng của Georgetown. Anh bước theo hướng đó.

Thức ăn được bày biện lên những chiếc bàn xếp quanh bể bơi. Cá mú nướng, cá mập nướng, cá nục, tôm chiên, thịt rùa, hào biển, tôm và bánh tôm.

Tất cả đều từ biển và tất cả đều tươi. Khách túm tụm quanh các bàn tự phục vụ trong khi các hầu bàn nhốn nháo chạy tới lui với những bình gallon Punch Rum. Họ ăn trên những chiếc bàn nhỏ ngoài sân, nhìn ra Rumheads và nhìn ra biển. Điệu reggae cất lên. Mặt trời lặn sau những áng mây rồi hạ xuống đến chân trời.

Mitch đi theo Avery băng qua buổi tiệc đứng và, như chờ đợi, họ đến chiếc bàn nơi hai cô gái đang ngồi chờ. Họ là chị em, cả hai đều ở độ tuổi cuối hai mươi, cả hai đều đã ly hôn, cả hai đều say xỉn. Cô gái tên Carrie đã mê tít Avery, còn cô kia, Julia, thì lập tức để mắt đến Mitch. Anh tự hỏi không biết Avery đã nói gì với họ.

“Em thấy anh đã lập gia đình,” Julia thì thào khi sáp lại gần anh.

“Phải, và rất hạnh phúc.”

Cô mỉm cười như thể chấp nhận sự khiêu khích. Avery và cô gái của ông đá lông nheo với nhau. Mitch vớ lấy một chiếc ly và nốc cạn.

Anh xiên thức ăn và không thể nghĩ đến gì khác ngoài Abby. Sẽ khó mà thanh minh nếu một sự thanh minh là cần thiết. Ăn tối với hai cô gái quyến rũ là một điều không thể thanh minh. Cuộc trò chuyện tại bàn trở nên ngượng nghịu và Mitch không nói thêm được lời nào. Một người phục vụ đặt một chiếc bình lớn lên bàn, và nó nhanh chóng được uống cạn. Avery trở nên khả ố. Ông nói với hai cô gái rằng anh từng chơi cho đội New York Giants, từng đoạt hai giải Super Bowl. Kiếm được hàng triệu đô trước khi bị một chấn thương đầu gối làm hủy hoại sự nghiệp. Mitch lắc đầu và uống thêm. Julia thèm nhỏ dãi và xích lại gần anh hơn nữa.

Băng nhạc tăng âm lượng, và đã đến lúc để khiêu vũ. Một nửa đám đông di chuyển đến một sàn nhảy bằng gỗ giữa bể bơi và bãi biển, bên dưới hai ngọn cây.

“Ta khiêu vũ nhé!” Avery reo lên rồi tóm lấy cô gái của ông. Họ lách qua các bàn rồi nhanh chóng biến mất vào đám đông du khách đang giậm giật và xô đẩy.

Anh cảm thấy cô gái dịch lại sát hơn, rồi tay cô đặt lên đùi anh. “Anh có muốn nhảy không?” cô hỏi.

“Không.”

“Tốt. Em cũng thế. Vậy anh muốn gì nào?” Cô cạ ngực lên bắp tay của anh và nhoẻn một nụ cười quyến rũ nhất, cách anh chỉ vài phân.

“Tôi không có kế hoạch làm gì cả.”

Anh gỡ tay cô ra.

“Ô, coi nào. Ta vui vẻ chút đi. Vợ anh chẳng bao giờ biết đâu mà.”

“Này, cô là một cô gái xinh đẹp, nhưng cô đang lãng phí thời gian với tôi đấy. Bây giờ hãy còn sớm, cô có thừa thời gian để lượm một anh chàng ngon lành.”

“Chỉ có anh mới dễ thương.”

Bàn tay đã trở lại, và Mitch hít một hơi sâu.

“Sao cô không biến đi.”

“Xin lỗi, anh nói gì?”

Bàn tay lại rút về.

“Tôi nói cô biến đi.”

Cô lui ra xa hơn. “Anh sao vậy?”

“Tôi có ác cảm với các loại bệnh truyền nhiễm. Biến đi.”

“Vậy sao anh không tự biến đi.”

“Một ý tưởng tuyệt vời. Tôi biến đây. Chúc bữa tối vui vẻ.”

Mitch vớ lấy ly Punch Rum của anh rồi len lỏi qua đám người đang nhảy để trở ra quầy bar. Anh gọi một Red Stripe rồi ngồi một mình trong một góc nhỏ dưới hàng hiên. Bãi biển trước mắt anh vắng tanh. Ánh đèn của hàng chục con tàu đang chầm chậm di động trên mặt nước. Sau anh là âm thanh của Barefoot Boys và những tiếng cười trong đêm Caribe. Tuyệt lắm, anh nghĩ, nhưng sẽ còn tuyệt hơn nữa nếu như có Abby. Có thể họ sẽ đến đây nghỉ vào mùa hè năm tới. Họ cần có thời gian bên nhau, cách xa nhà và cách xa văn phòng. Có một khoảng cách giữa họ - một khoảng cách mà anh không thể xác định được. Một khoảng cách mà họ không thể thảo luận nhưng cả hai đều cảm nhận. Một khoảng cách mà anh sợ hãi.

“Anh đang nhìn gì vậy?” Giọng nói khiến anh giật mình. Một cô gái bước đến bàn và ngồi xuống cạnh anh. Cô là một người bản địa, da sẫm màu, mắt xanh hoặc lục nhạt. Không thể nào biết được trong bóng tối. Nhưng đó là một đôi mắt đẹp, rất nồng ấm và không hề ngượng ngùng. Mái tóc sậm và xoăn của cô xõa ra sau, hầu như đến tận eo. Cô là một sự pha trộn lạ lẫm giữa da đen, da trắng, và có lẽ là Latin. Và có lẽ còn nhiều hơn thế nữa. Cô mặc một chiếc bikini trắng, áo ngực trễ rất thấp, chỉ vừa vặn che bộ ngực lớn, và chiếc váy màu sáng của cô có đường xẻ ở hông làm lộ ra hầu như mọi thứ khi cô ngồi bắt chéo chân. Không đi giày.

“Chẳng nhìn gì cụ thể cả” Mitch nói. Cô ta còn trẻ, có nụ cười thơ trẻ lộ ra một hàm răng hoàn hảo.

“Anh từ đâu đến vậy?” cô hỏi.

“Hoa Kỳ.”

Cô khúc khích cười. “Dĩ nhiên là vậy rồi. Tại đâu ở Hoa Kỳ?” Đó là một thứ tiếng Anh mềm mại, êm dịu, chuẩn xác, tự tin đối với một người Caribe.

“Memphis.”

“Có rất nhiều người đến đây từ Memphis. Rất nhiều người đi lặn.”

“Em sống ở đây à?” anh hỏi.

“Vâng. Cả đời em. Mẹ em là người bản địa. Ba em đến từ Anh. Ông ấy đã đi rồi, trở về nơi mà từ đó ông ấy đến.”

“Em uống chút gì không?”

“Có. Rum và Soda.”

Anh đứng ở quầy bar để chờ các món uống. Một thứ gì đó âm ỉ, bồn chồn nhói lên trong bao tử. Anh có thể lẩn vào màn đêm, biến mất trong đám đông rồi tìm đường trở về khu chung cư một cách an toàn. Anh có thể khóa trái cửa rồi đọc một cuốn sách về các thiên đường thuế quốc tế. Thế thì chán quá. Cộng thêm với việc Avery lúc này đang ở đó với cô nàng bé bỏng nóng hổi của ông ta. Cô bé ấy vô hại, Rum và Red Stripe nói với anh như vậy. Họ sẽ uống cùng nhau đôi ba ly rồi nói lời từ biệt.

Anh trở lại với các thức uống và ngồi đối mặt với cô gái, ngồi xa nhất có thể. Chỉ có hai người họ ở hàng hiên.

“Anh có phải là người đi lặn không?” cô hỏi.

“Không. Tin hay không tùy em, nhưng anh ở đây là vì công việc. Anh là một luật sư và anh đã có cuộc họp với vài ông chủ ngân hàng sáng hôm nay.”

“Anh còn ở đây bao lâu?”

“Vài ngày nữa.” Anh lịch sự nhưng ngắn gọn. Càng ít nói bao nhiêu thì càng an toàn bấy nhiêu. Cô đổi chân, bắt chéo rồi mỉm cười ngây thơ. Anh cảm thấy mình yếu ớt.

“Em bao nhiêu tuổi?” anh hỏi.

“Em hai mươi tuổi, và tên em là Eilene. Em khá lớn tuổi rồi.”

“Anh là Mitch.”

Bao tử của anh giần giật và anh cảm thấy hơi choáng. Anh nhấp nhanh ly bia của mình. Anh liếc nhìn đồng hồ. Cô theo dõi với cùng một nụ cười quyến rũ.

“Anh đẹp trai lắm.”

Đó là một lời ngỏ hơi vội vã. Giữ bình tĩnh, anh tự răn mình, hãy giữ bình tĩnh.

“Cảm ơn em.”

“Anh có phải là một người chơi thể thao không?”

“Kiểu như thế. Sao em lại hỏi vậy?”

“Trông anh giống người chơi thể thao. Anh rất vạm vỡ và chắc khỏe.”

Chính cái cách cô nhấn mạnh từ “chắc khỏe” đã khiến bao tử anh quặn đau trở lại. Anh ngắm cơ thể cô và cố rặn ra vài lời khen nào đó không mang tính khêu gợi. Hãy quên cái cơ thể đó đi.

“Em làm việc ở đâu?” anh hỏi, hướng đến một lĩnh vực ít nhạy cảm hơn.

“Em là thư ký tại một cửa hàng nữ trang trong thành phố.”

“Em sống ở đâu?”

“Ở Georgetown. Còn anh đang ở đâu?”

“Tại căn chung cư ở kế bên.” Anh hất đầu về phía đó, và cô quay sang trái. Cô muốn thấy tòa chung cư, anh thầm nghĩ. Cô nhấp thức uống.

“Sao anh không dự tiệc?” cô hỏi.

“Anh không thích tiệc tùng.”

“Vậy anh có thích bãi biển không?”

“Nó đẹp lắm.”

“Dưới ánh trăng nó còn đẹp hơn nữa.”

Cũng lại nụ cười ấy. Anh không thể nói năng gì.

“Có một quầy bar hay hơn dọc bãi biển, cách đây khoảng một cây số rưỡi,” cô nói. “Ta đi bộ đến đó nhé.”

“Anh không biết nữa, anh phải về thôi. Anh có việc phải làm trước sáng mai.”

Cô bật cười, đứng dậy. “Không ai ở Cayman lại dậy sớm thế đâu. Thôi nào. Em còn nợ anh một chầu nước.”

“Không. Anh tốt nhất không nên uống.”

Cô nắm tay anh và anh đi theo cô từ hàng hiên ra bãi biển. Họ im lặng bước đi cho đến khi Palms khuất dạng và tiếng nhạc nhỏ dần. Lúc này mặt trăng đã lên cao và sáng hơn, và bãi biển thì vắng ngắt. Cô tháo thứ gì đó rồi cởi váy, để lộ ra tất cả ngoại trừ một mảnh dây quanh eo và một mảnh dây giữa hai chân. Cô cuộn chiếc váy lại, vắt nó lên cổ anh, rồi nắm lấy tay anh.

Điều gì đó mách bảo anh phải chạy. Phải vứt chai bia vào đại dương. Vứt chiếc váy lên cát. Phải bỏ chạy trối chết. Chạy về khu chung cư. Khóa cửa lại. Khóa cửa sổ lại. Chạy. Chạy. Chạy.

Nhưng điều gì đó cũng bảo anh phải hãy thư giãn. Đó chỉ là một cuộc vui vô hại. Hãy uống thêm đôi chút. Nếu có chuyện gì xảy ra thì hãy cứ tận hưởng. Sẽ chẳng ai hay biết. Memphis ở cách đây hàng ngàn dặm. Avery sẽ không biết. Mà Avery thì liên quan gì? Ông ta còn nói gì được chứ? Ai ai cũng đều như vậy cả. Nó từng một lần diễn ra lúc anh ở trung học, trước khi anh kết hôn và sau khi anh dính líu, anh đã đổ lỗi cho bia, cho quá nhiều bia. Và rồi anh đã sống sót mà không bị dính vết sẹo lớn nào cả. Thời gian sẽ xử lý chuyện đó. Abby sẽ chẳng bao giờ biết. Chạy. Chạy. Chạy.

Họ đi bộ một cây số rưỡi và không thấy có quầy bar nào cả. Bãi biển tối đen. Một đám mây toa rập che khuất mặt trăng. Họ không gặp một ai kể từ Rumheads. Cô lôi tay anh về phía những chiếc ghế nhựa bãi biển gần mép nước. “Mình nghỉ ngơi chút đi,” cô nói. Anh uống nốt chai bia.

“Anh im lặng mãi thế?” cô nói.

“Em muốn anh nói gì?”

“Anh nghĩ em có đẹp không?”

“Em đẹp lắm. Và thân hình em cũng đẹp nữa.”

Cô ngồi lên mép ghế và sục chân trong nước. “Ta đi tắm nhé.”

“Anh, ờ, anh không hứng thú lắm.”

“Coi nào, Mitch. Em thích tắm lắm.”

“Cứ đi đi. Anh sẽ canh chừng đồ.”

Cô quỳ xuống cát, cạnh bên anh, mặt đối mặt với anh, chỉ cách có vài phân. Bằng một thao tác chầm chậm, cô đưa tay ra sau cổ.

Cô cởi khóa mảnh bikini trên và để nó rơi ra, thật chậm. Ngực của cô nay đã lớn hơn nhiều. Nó tì lên cẳng tay trái của anh. Cô trao mảnh bikini cho anh. “Cầm giúp em.” Nó mềm mại, trắng muốt và cân nặng chưa đến năm gam. Anh như bị tê liệt. Mới cách đây vài phút còn nặng nhọc, hơi thở anh nay đã dừng hoàn toàn.

Cô đi chầm chậm ra biển. Sợi dây trắng không che bất cứ thứ gì phía sau. Mái tóc sẫm tuyệt đẹp của cô xõa đến eo. Cô khoắng nước đến đầu gối rồi trở lại bãi biển.

“Lại đây, Mitch. Nước dễ chịu lắm.” Cô nhoẻn nụ cười rạng rỡ và anh trông thấy nó. Anh mân mê mảnh bikini trên và hiểu rằng đó là cơ hội cuối cùng của anh để bỏ chạy. Nhưng anh đang ngây ngất và yếu đuối. Việc chạy thoát đòi hỏi anh phải có nhiều sức mạnh hơn tất cả những gì anh có thể tập hợp. Anh muốn chỉ ngồi đó và biết đâu cô sẽ bỏ đi. Biết đâu cô sẽ bị chết đuối. Biết đâu thủy triều sẽ ra tay, cuốn cô vào đại dương.

“Đi nào, Mitch.”

Anh cởi áo ra và bì bõm bước vào nước. Cô mỉm cười, quan sát anh. Và khi anh đến gần cô, cô cầm lấy tay anh, dẫn anh đến chỗ nước sâu hơn. Cô vòng tay quanh cổ anh, và họ hôn nhau. Anh lần ra những sợi dây. Họ hôn nhau lần nữa.

Cô đột ngột dừng lại và, không nói một lời, chạy thẳng về bãi biển. Cô ngồi trên cát, giữa hai chiếc ghế, tháo nốt phần còn lại của chiếc bikini. Anh ngụp đầu xuống nước và nín thở tưởng như đến bất tận. Khi anh trồi lên, cô đang ngồi ngả ra sau, chống cùi chỏ trên cát. Anh nhìn quanh bãi biển và, dĩ nhiên, chẳng thấy ai. Chính vào khoảnh khắc đó, mặt trăng lại rúc vào một đám mây khác. Không có một chiếc thuyền nào, không có một chiếc bè nào, hay một chiếc xuồng, một người đi bơi, một người lặn biển, bất cứ thứ gì hay bất cứ ai đang di chuyển trên mặt nước.

“Anh không thể làm việc đó,” anh lẩm bẩm qua hàm răng nghiến chặt.

“Anh nói gì vậy, Mitch?”

“Anh không thể làm việc đó,” anh hét lên.

“Nhưng em muốn anh.”

“Anh không thể.”

“Coi nào, Mitch. Không ai biết đâu mà.”

Sẽ không ai biết đâu. Không ai biết. Anh chầm chậm bước đến cô. Sẽ không ai biết đâu.

Ở băng sau chiếc taxi là sự im lặng tuyệt đối khi các luật sư đi xe đến Georgetown. Họ đã muộn giờ. Họ đã ngủ quên và lỡ mất bữa sáng. Cả hai đều không được khỏe lắm. Avery đặc biệt bơ phờ. Đôi mắt ông đỏ ngầu và khuôn mặt nhợt nhạt. Ông chưa kịp cạo râu.

Vượt qua luồng giao thông dày đặc, người tài xế dừng xe trước ngân hàng Royal Bank of Montreal. Chưa gì mà hơi nóng và cái ẩm đã gây ra ngột ngạt.

Randolph Osgood là chủ ngân hàng, một gã người Anh tẻ nhạt trong bộ vest xanh dương hai hàng nút, cặp kính sừng gọng đen, vầng trán cao bóng loáng và chiếc mũi nhọn hoắt. Ông ta đón tiếp Avery như một người bạn cũ, rồi tự giới thiệu với Mitch. Họ được dẫn vào một văn phòng rộng ở tầng hai nhìn ra vịnh Hogsty Bay. Hai thư ký đang chờ sẵn.

“Chính xác ông cần gì vậy, Avery?” Osgood lí nhí hỏi.

“Ta hãy kích hoạt bằng cà phê đi nhé. Tôi cần bản tổng kết toàn bộ các tài khoản của Capps, Al Coscia, Dolph Hemmba, Ratzlaff Partners và Greene Group.”

“Vâng, và ông muốn lui lại cỡ bao lâu?”

“Sáu tháng. Từng tài khoản một.”

Osgood búng ngón tay với một trong các thư ký. Cô ta đi ra rồi trở vào với một khay cà phê và bánh ngọt. Cô thứ ba thì lấy sổ ghi chép.

“Dĩ nhiên, Avery, chúng tôi cần sự cho phép và quyền hạn của luật sư cho từng thân chủ này,” Osgood nói.

“Chúng ở cả trong hồ sơ,” Avery nói trong khi mở chiếc cặp.

“Đúng, nhưng chúng hết hạn rồi. Chúng tôi cần những hồ sơ cập nhật. Từng tài khoản một.”

“Được.” Avery đẩy một hồ sơ sang phía bên kia bàn. “Chúng ở cả trong đó. Mọi thứ đều đã được cập nhật.” Ông nháy mắt với Mitch.

Một thư ký cầm hồ sơ rồi trải các tài liệu lên bàn. Từng văn kiện được soi mói bởi cả hai thư ký, rồi bởi đích thân Osgoods. Các luật sư ngồi uống cà phê và chờ đợi.

Osgood mỉm cười, nói, “Có vẻ mọi thứ đều ổn. Chúng tôi sẽ ghi các biên bản. Ông còn cần gì khác không?”

“Tôi cần thiết lập ba công ty. Hai cho Sonny Capps và một cho Green Group. Chúng tôi sẽ đi theo quy trình thường lệ. Ngân hàng sẽ đóng vai trò bảo hộ, vân vân.”

“Tôi sẽ cung cấp các tài liệu cần thiết,” Osgoods nói rồi nhìn sang một cô thư ký. “Còn gì nữa không?”

“Tạm thời chỉ có thế.”

“Rất tốt. Ba mươi phút nữa chúng ta sẽ có các biên bản đó. Các ông dùng bữa trưa cùng tôi nhé?”

“Tôi xin lỗi, Radolph. Tôi phải từ chối thôi. Mitch và tôi đã có hẹn trước. Có lẽ để mai đi.”

Mitch biết chẳng có cuộc hẹn trước nào cả, ít ra từ phía anh. “Có lẽ vậy,” Osgoods đáp. Ông rời phòng cùng các cô thư ký. Avery khép cửa rồi tháo cà vạt. Ông bước đến cửa sổ và nhấp một ngụm cà phê. “Này, Mitch, tôi xin lỗi vụ tối qua nhé. Rất xin lỗi. Tôi hơi xỉn nên không được sáng suốt lắm. Tôi đã sai khi đẩy cô gái đó cho anh.”

“Lời xin lỗi được chấp nhận. Đừng để chuyện đó diễn ra lần nữa nhé.”

“Không đâu, tôi hứa đấy.”

“Cô ta có ngon lành không?”

“Tôi nghĩ là ngon. Tôi cũng chẳng nhớ nhiều lắm. Anh làm gì với em gái của cô ta vậy?”

“Cô ta bảo tôi biến đi. Tôi ra bãi biển rồi đi dạo một lúc.”

Avery cắn miếng bánh rồi chùi mép. “Anh biết tôi ly thân rồi mà. Chúng tôi có lẽ sẽ ly dị sau chừng một năm nữa. Tôi rất kín kẽ vì cuộc ly hôn có thể sẽ rất tệ hại. Hãng có một điều luật bất thành văn: những gì chúng ta làm ở xa Memphis thì sẽ phải ở lại cái nơi xa xăm ấy. Hiểu chưa?”

“Coi nào, Avery, ông biết tôi sẽ không kể cho ai mà.”

“Tôi biết, tôi biết.”

Mitch thấy mừng về cái điều luật bất thành văn này. Anh đã thức dậy với ý thức mình vừa phạm trọng tội. Anh đã nghĩ đến cô ta trên giường, trong phòng tắm, trên taxi, và nay anh thấy khó mà tập trung vào bất cứ việc gì. Anh thậm chí đã nhận ra mình đang nhòm ngó các cửa hàng nữ trang khi họ đến Georgetown.

“Tôi có câu hỏi này.” Mitch nói.

Avery gật đầu và ăn bánh.

“Khi Oliver Lambert, McKnight, và cả băng họ tuyển mộ tôi cách đây vài tháng, tôi thấy rất ấn tượng về việc họ liên tục nhắc nhở về sự nghiêm ngặt của hãng đối với chuyện ly hôn, gái gú, nhậu nhẹt, ma túy, tất tật mọi thứ chỉ ngoại trừ công việc và tiền bạc. Đó là lý do tôi nhận việc. Tôi đã thấy công việc và tiền bạc rồi đó, nhưng nay tôi lại đang thấy những thứ khác. Các ông sai ở chỗ nào vậy? Hay tất cả mọi người đều như thế cả?”

“Tôi không thích câu hỏi của anh.”

“Tôi biết ông không thích. Nhưng tôi muốn có câu trả lời. Tôi xứng đáng để nhận câu trả lời. Tôi cảm thấy như mình bị lừa dối vậy.”

“Vậy anh định làm gì? Rời khỏi hãng vì tôi uống rượu và làm tình với một con điếm ư?”

“Tôi chưa từng nghĩ đến việc rời khỏi hãng.”

“Tốt. Đừng nghĩ.”

“Nhưng tôi có quyền được nhận câu trả lời.”

“Được rồi, nghe đây. Tôi là gã lông bông nhất trong hãng, và họ sẽ xuống tay rất nặng khi tôi đả động đến chuyện ly hôn. Tôi gạ gẫm phụ nữ hết lần này đến lần khác, nhưng chẳng ai hay biết cả. Hay ít ra là họ không bắt thóp được tôi. Tôi chắc chắn các đối tác khác cũng làm vậy, nhưng anh sẽ chẳng bao giờ bắt thóp được họ. Không phải tất cả bọn họ, nhưng là một vài người. Hầu hết đều có hôn nhân rất ổn định và luôn chân thành với vợ mình. Tôi thì luôn là một gã xấu, nhưng họ chịu đựng tôi vì tôi quá giỏi. Họ biết tôi uống rượu vào bữa trưa và đôi khi cả trong văn phòng; họ biết tôi vi phạm một số luật lệ thiêng liêng của họ, thế mà họ vẫn cứ phong tôi làm đối tác bởi vì họ cần tôi. Và nay tôi đã là đối tác rồi thì họ chẳng thể làm được gì nữa. Tôi không phải là một gã quá tệ đâu, Mitch ạ.”

“Tôi có nói ông tệ hồi nào đâu.”

“Tôi không hoàn hảo. Một số họ cũng như thế, tin tôi đi. Họ là những cỗ máy, những con rô bốt. Họ sống, họ ăn, họ ngủ, tất cả đều vì Bendini, Lambert & Locke. Tôi thì thích được vui vẻ một chút.”

“Cho nên ông là một ngoại lệ...”

“Tôi không chỉ biết có luật lệ, đúng vậy. Và tôi sẽ không xin lỗi về chuyện đó.”

“Tôi đâu đã đòi hỏi ông xin lỗi. Chỉ là muốn làm rõ thôi mà.”

“Vậy thì đã rõ chưa?”

“Đã. Tôi luôn ngưỡng mộ sự thẳng thắn của ông.”

“Còn tôi thì luôn ngưỡng mộ tính kỷ luật của anh. Một người đàn ông mạnh mẽ luôn trung thành với vợ bất chấp các cám dỗ như anh vừa trải qua đêm qua. Tôi thì không được mạnh mẽ như thế, không muốn thì đúng hơn.”

Cám dỗ. Anh đã nghĩ đến việc đi dọ xét các cửa hàng nữ trang trong giờ ăn trưa.

“Coi nào, Avery, tôi đâu phải là ông thánh, và tôi cũng chẳng thấy sốc chút nào cả. Tôi không phải là kẻ đi phán xét, cả đời tôi đã bị phán xét quá đủ rồi. Tôi chỉ thấy lúng túng về các luật lệ thôi, chỉ có vậy.”

“Các luật lệ không bao giờ thay đổi. Chúng được khắc trên bê tông, trên đá granite. Nếu vi phạm quá nhiều thì sẽ bị cho ra rìa. Hoặc là cứ vi phạm xả láng đi, nhưng đừng có để bị bắt thóp.”

“Nghe cũng có lý lẽ đấy.”

Osgoods và nhóm thư ký trở vào phòng với các bảng in tài liệu từ máy tính. Họ chất thành những chồng ngay ngắn trên bàn và đã sắp xếp toàn bộ theo ký tự.

Đống tài liệu này sẽ giữ các ông bận rộn một vài ngày,” Osgoods nói với một nụ cười giả tạo. Ông búng ngón tay và các cô thư ký biến mất. “Nếu các ông cần gì thì có tôi ở văn phòng.”

“Vâng, cảm ơn,” Avery nói khi cầm lên bộ hồ sơ đầu tiên. Mitch cởi áo vest và nới lỏng cà vạt.

“Chính xác chúng ta đang làm gì ở đây?” anh hỏi.

“Hai việc. Thứ nhất, chúng ta sẽ rà soát đầu vô của tất cả các tài khoản này. Chúng ta chủ yếu tìm lãi suất thu về, tỉ giá nào, bao nhiêu, vân vân. Chúng ta sẽ tiến hành kiểm toán chặt chẽ đối với từng tài khoản để đảm bảo lãi suất đến được nơi nó phải đến. Lấy ví dụ, Dolph Hemmba gửi lãi suất của ông ta đến chín ngân hàng khác nhau tại Bahamas. Điều đó là ngu ngốc, nhưng nó lại làm cho ông ta vui. Nó cũng khiến cho không ai có thể đeo theo được, chỉ ngoại trừ tôi ra. Ông ta có khoảng mười hai triệu trong ngân hàng này, cho nên cũng đáng để theo lắm chứ. Ông ta có thể tự làm việc đó, nhưng lại cảm thấy nên giao cho tôi thì tốt hơn. Với mức phí hai trăm năm mươi mỗi giờ, tôi cứ mặc kệ. Chúng ta sẽ kiểm tra lãi suất mà ngân hàng này đang trả cho từng tài khoản. Tỷ giá dao động tùy theo số lượng nhân tố. Điều này đã được sự nhiệm ý với ngân hàng, và đó là một cách tốt để giữ cho họ lương thiện.”

“Tôi nghĩ họ lương thiện mà.”

“Họ là vậy, nhưng họ là chủ ngân hàng, nhớ không? Anh phải tìm gần ba mươi tài khoản ở đây, và khi ra về chúng ta sẽ biết được cán cân chính xác, lãi suất thu về là bao nhiêu và đang đi về đâu. Thứ hai, chúng ta có ba công ty thuộc quyền tài phán của người Cayman. Đó là một công việc pháp lý khá dễ dàng và có thể thực hiện ở Memphis. Nhưng các thân chủ lại nghĩ rằng chúng ta phải đến đây mới làm được việc đó. Nhớ chưa, chúng ta đang giao dịch với những người đầu tư đến hàng triệu. Vài trăm ngàn cho chi phí pháp lý chẳng bõ bèn gì với họ cả.”

Mitch lật giở tập bản in về Hemmba. “Gã Hemmba này là ai vậy? Tôi chưa từng nghe về ông ta.”

“Tôi có cả đống thân chủ mà anh chưa từng nghe. Hemmbar là một nhà nông lớn ở Arkansas, một trong những chủ đất lớn nhất bang.”

“Hai mươi triệu đô la?”

“Đó chỉ là trong ngân hàng này.”

“Hẳn là rất nhiều bông và đậu nành.”

“Hãy chỉ nói rằng ông ta có những đầu tư mạo hiểm khác.”

“Chẳng hạn như?”

“Tôi thực sự không thể nói.”

“Hợp pháp hay bất hợp pháp?”

“Hãy chỉ nói rằng ông ta đang giấu IRS hai mươi triệu cộng lãi suất tại nhiều ngân hàng Caribe.”

“Chúng ta có đang giúp ông ta không?”

Avery trải các tài liệu lên một bên đầu bàn rồi bắt đầu kiểm tra những đầu vô. Mitch nhìn và chờ câu trả lời. Sự im lặng trở nên nặng nề hơn và rõ ràng câu trả lời sẽ không đến. Anh có thể ép, nhưng anh đã có quá nhiều câu hỏi trong một ngày. Anh xắn tay áo lên và bắt đầu làm việc.

Đến trưa, anh được biết về “cuộc hẹn trước” của Avery. Cô gái của ông đang đợi ông trong một cuộc hẹn hò nhỏ ở chung cư. Ông gợi ý họ nghỉ giải lao trong vài giờ và nhắc đến một quán cà phê ở khu thương mại mà Mitch nên đến thử.

Thay vì uống cà phê, Mitch tìm đến Thư viện Georgetown ở cách ngân hàng bốn dãy phố. Ở tầng một, anh được hướng dẫn đến khu vực các tờ báo định kỳ, nơi anh tìm ra chiếc kệ chứa đầy những ấn bản cũ của tờ The Daily Caymanian. Anh dò lại sáu tháng trước rồi rút ra tờ tập san đề ngày 27 tháng Sáu. Anh trải nó ra chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ hướng ra đường. Anh nhìn ra cửa sổ, rồi nhìn kỹ hơn nữa. Có một gã đàn ông mà mới đây anh vừa gặp trên con đường gần ngân hàng. Hắn ngồi sau tay lái một chiếc Chevette vàng bệ rạc đậu trên con đường nhỏ đối diện với thư viện. Đó là một gã chắc nịch, tóc đen, có dáng dấp người nước ngoài. Hắn mặc một chiếc sơ mi sặc sỡ màu lục và cam, đeo kính mát du lịch loại rẻ tiền.

Cũng chiếc Chevette ấy và cũng gã lái xe ấy đã đậu trước cửa hàng đồ lưu niệm gần ngân hàng. Và nay, chỉ mới ít lâu sau, nó đã đậu ở cách bốn dãy phố. Một người bản địa đi xe đạp dừng lại cạnh hắn và nhận một điếu thuốc lá. Gã đàn ông trong xe trỏ vào thư viện. Gã bản địa bỏ xe đạp lại, nhanh chóng băng qua đường.

Mitch gập tờ báo lại, nhét nó vào túi áo vest. Anh đi qua hai dãy kệ, tìm một tờ National Geographic, rồi ra bàn ngồi. Anh nghiền ngẫm tờ tạp chí và chăm chú nghe ngóng. Gã bản địa lên cầu thang, nhận ra anh, bước ra sau anh, có vẻ như dừng lại để ngó thử anh đọc gì, rồi hắn xuống thang và biến mất. Mitch chờ một lúc rồi trở lại cửa sổ. Gã bản địa đang nhận thêm một điều thuốc nữa và đang nói gì đó với gã ngồi trong chiếc Chevette. Hắn châm thuốc rồi lái xe đi.

Mitch trải tờ báo ra bàn rồi đọc lướt qua các tiêu đề phóng sự về hai luật sư người Mỹ và hướng dẫn viên lặn biển của họ bị chết trong một tai nạn bí ẩn một ngày trước đó. Anh ghi nhớ trong đầu rồi trả lại tờ báo.

Chiếc Chevette vẫn đang theo dõi. Anh băng qua ngay trước mặt nó, vượt qua một dãy phố rồi đi thẳng về hướng ngân hàng. Khu mua sắm bị ép chặt giữa các tòa nhà ngân hàng và vịnh Hogsty Bay. Các con đường đều hẹp và ngập tràn du khách đi bộ, du khách đi xe máy, du khách trong các căn hộ cho thuê. Anh củi vest ra, tạt vào một cửa hiệu bán áo thun mà trên gác có một quán nước nhỏ. Anh leo lên cầu thang, gọi một lon Coca, rồi ra ngồi ngoài ban công.

Chỉ sau vài phút, gã bản địa đi xe đạp đã ở trong quán. Hắn uống Red Stripe và quan sát từ phía sau tờ thực đơn in thủ công. Mitch nhấp lon Coca, nhìn khung cảnh nhộn nhạo ở bên dưới. Không thấy bóng dáng chiếc Chevette, nhưng anh biết nó đang ở gần đó. Anh thấy một người đàn ông khác nhìn anh đăm đăm từ ngoài đường rồi biến mất. Rồi đến một phụ nữ. Liệu anh có bị hoang tưởng không vậy? Rồi chiếc Chevette rẽ góc đi qua hai dãy phố và chầm chậm di chuyển ngay phía dưới anh.

Anh vào cửa hàng áo thun và mua một cặp kính mát. Anh đi bộ một dãy phố rồi tạt vào một lối đi nhỏ. Anh thấy một cửa hàng quần áo lớn dành cho du khách và đi vào đó qua cửa hông. Anh chăm chú nhìn ra đường và chẳng thấy gì cả. Những chiếc giá chất đầy quần lửng và áo thun đủ màu sắc – những y phục mà dân bản địa không bao giờ mua mà người Mỹ thì lại luôn mê mẩn.

Anh vẫn thủ cựu: quần lửng trắng, áo pullover đỏ. Anh tìm thấy một đôi dép rơm cách chi đó trông khá hợp với chiếc nón rơm mà anh ưng ý. Cô bán hàng cười khúc khích và chỉ cho anh phòng thay đồ. Anh kiểm tra con đường một lần nữa. Không có gì cả. Quần áo mặc vừa vặn và anh xin phép cô gái cho anh để lại bộ đồ vest và đôi giày ở sau tiệm trong vài giờ. “Được mà, mon,” cô ta nói. Anh thanh toán bằng tiền mặt, rồi dúi cho cô một tờ mười đô và nhờ cô gọi giùm taxi. Cô ta khen anh rất đẹp trai.

Anh sốt ruột nhìn đường cho đến khi chiếc taxi đến. Anh lao qua vỉa hè, chui vội vào băng sau. “Đến khu nhà lặn Abanks,” anh nói. “Chỗ đó xa lắm, mon.”

Mitch ném tờ hai mươi đô lên ghế. “Cứ đi đi. Để ý gương chiếu hậu. Nếu có ai đi theo thì báo cho tôi biết.”

Anh ta cầm lấy tiền. “Vâng, mon.”

Đội chiếc nón mới, Mitch ngồi thấp xuống trên băng ghế sau trong khi người tài xế lần đường xuống Shedden Road, ra ngoài khu mua bán, bọc qua Hogsty Bay, rồi đâm ra hướng đông, vượt qua Red Bay, ra khỏi thành phố Georgetown rồi đi vào một con đường dẫn đến Bodden Town.

“Ông đang chạy trốn ai vậy, mon?”

Mitch mỉm cười, hạ cửa sổ cạnh anh xuống. “Sở Thuế vụ.” Anh nghĩ đùa như thế là duyên, nhưng người tài xế xem chừng lại rối trí. Trên các đảo này làm gì có thuế và nhân viên thu thuế, anh sực nhớ. Người tài xế tiếp tục lái trong im lặng.

Theo báo chí, người hướng dẫn viên lặn là Philip Abanks, con trai của Barry Abanks, chủ nhân của khu nhà lặn. Khi chết, anh ta mới mười chín tuổi. Ba người đã chết đuối khi một vụ nổ nào đó đã xảy ra với con tàu. Một vụ nổ rất bí ẩn. Các thi thể được tìm thấy dưới mặt nước gần hai mươi lăm mét, vẫn mặc nguyên đồ lặn. Không có nhân chứng nào về vụ nổ, và cũng không có lời giải thích nào về lý do nó xảy ra cách hai dặm ngoài khơi, trong một khu vực lạ đối với người đi lặn. Bài báo nói có rất nhiều câu hỏi không có lời giải đáp.

Boden Town là một ngôi làng nhỏ cách Georgetown hai mươi phút đi xe. Khu nhà lặn nằm ở phía nam thị trấn trên một dải bờ biển biệt lập.

“Có ai đi theo chúng ta không?” Mitch hỏi.

Người tài xế lắc đầu.

“Làm tốt lắm. Đây là bốn mươi đô.” Mitch nhìn đồng hồ. “Bây giờ là gần một giờ. Anh trở lại đây chính xác vào lúc hai giờ rưỡi có được không?”

“Được chứ, mon.”

Con đường kết thúc ở rìa của bãi biển rồi biến thành một khu vực đậu xe đá trắng dưới bóng hàng chục cây cọ hoàng gia. Tòa nhà mặt tiền của khu nhà lặn là một ngôi nhà lớn hai tầng với mái tôn và cầu thang ngoài dẫn đến trung tâm ở tầng hai. Người ta gọi nó là Grand House. Nó được sơn màu lam nhạt với những đường viền trang trí sơn chỉn chu màu trắng, bị khuất một phần bởi những dây leo vịnh và những bụi hoa bỉ ngạn. Những kiến trúc chạm trổ bằng tay được sơn màu hồng. Các cửa chớp gỗ vững chãi thì sơn màu ô liu. Nó từng là trụ sở kiêm phòng ăn của khu nhà lặn Abanks. Ở bên trái của nó, những cây cọ thưa dần, và có một lối xe nhỏ lượn quanh Grand House rồi đổ dốc xuống một khu vực đá trắng rộng lớn. Mỗi bên có một nhóm chừng một chục nhà lều mái tranh, nơi trú ngụ của những người đi lặn. Một mê cung những lề đường lát gỗ chạy từ các nhà lều ra đến trung tâm của khu nhà lặn: quầy bar ngoài trời ở gần mép nước.

Mitch đi thẳng ra quầy bar, hướng đến những âm thanh giậm giật và những tiếng cười đùa quen thuộc. Nó giống như Rumheads, chỉ thiếu có đám đông. Sau vài phút, người phục vụ quầy, Henry, bưng ra cho Mitch một Red Stripe.

“Barry Abanks đang ở đâu?” Mitch hỏi.

Henry hất đầu ra biển rồi trở vào quầy bar. Ngoài xa, cách chừng tám trăm mét, một con tàu chầm chậm lướt đi trên mặt nước tĩnh lặng, hướng về phía khu nhà lặn. Mitch ăn một bánh phô mai và nhìn các thanh domino.

Con tàu đậu tại một cầu tàu giữa quán bar và một nhà lều lớn có hàng chữ CỬA HÀNG LẶN sơn trên cửa sổ. Những người đi lặn nhảy từ tàu xuống với các túi thiết bị, rồi, không có ngoại lệ nào, họ tiến thẳng đến quầy bar. Một người đàn ông thấp và đậm đứng cạnh con tàu, quát tháo các mệnh lệnh cho các thủy thủ trong khi họ đưa những bình lặn rỗng lên cầu tàu. Ông đội một chiếc nón bóng chày màu trắng, ngoài ra không có gì nhiều nhặn. Một chiếc túi đen nhỏ che phủ hết đũng quần và phần lớn phần mông phía sau của ông. Căn cứ theo làn da nâu dày, có vẻ như ông không mặc gì nhiều suốt năm mươi năm qua. Ông vào cửa hàng lặn, quát tháo các đội trưởng và thủy thủ, rồi đi đến quầy bar. Ông phớt lờ đám đông, tiến thẳng đến chiếc tủ lạnh, nơi ông lấy ra một chai Heineken, khui nắp rồi hớp một hơi dài.

Người phục vụ quầy nói gì đó với Abanks rồi hất đầu về phía Mitch. Ông khui một chai Heneiken nữa rồi bước đến bàn của Mitch. Ông không cười.

“Anh tìm tôi?” Đó hầu như chỉ là một cái nhếch mép.

“Ông là Abanks?”

“Chính tôi đây. Anh muốn gì?”

“Tôi muốn trao đổi với ông vài phút.”

Ông hớp lon bia rồi nhìn ra đại dương. “Tôi bận lắm. Tàu lặn của tôi sắp đi sau bốn mươi phút nữa.”

“Tôi tên là Mitch McDeere. Tôi là một luật sư đến từ Memphis.” Abanks nhìn anh bằng đôi mắt nâu ti hí. Mitch đã giành được sự lắng nghe của ông.

“Vậy thì?”

“Hai người chết cùng con trai của ông là bạn của tôi. Chuyện này không thể chỉ nói vài phút là xong.”

Abanks ngồi lên chiếc ghế đẩu, chống cùi chỏ lên gối. “Đó không phải là loại chủ đề tôi ưa thích.”

“Tôi biết. Tôi xin lỗi.”

“Cảnh sát dặn tôi không được trao đổi với bất cứ ai.”

“Đây là chuyện kín, tôi hứa đấy.”

Abanks nheo mắt nhìn màn nước xanh chói sáng. Khuôn mặt và hai tay ông mang những vết sẹo của cả một đời đi biển, một cuộc đời mười tám mét dưới mặt nước, hướng dẫn cho những người mới biết lặn cách đi qua và bọc quanh những rạn san hô và những con tàu đắm.

“Anh muốn biết điều gì?” ông dịu giọng hỏi.

“Chúng ta nói chuyện ở nơi nào khác có được không?”

“Dĩ nhiên. Ta đi dạo một chút nhé.” Ông quát Henry, nói vài lời tại bàn của những người đi lặn rồi rời đi. Họ tản bộ trên bãi biển.

“Tôi muốn nói chuyện về vụ tai nạn,” Mitch nói.

“Anh cứ việc hỏi. Tôi có thể không trả lời.”

“Điều gì đã gây ra vụ nổ?”

“Tôi không biết. Có lẽ là chiếc máy nén khí. Có lẽ là do xăng. Chúng tôi không biết chắc. Con tàu bị hư hại nghiêm trọng và hầu hết các manh mối đều đã mất trong ngọn lửa.”

“Đó có phải là tàu của ông không?”

“Phải. Một trong những con tàu nhỏ của tôi, một chiếc mười tám mét. Các ông bạn của anh đã thuê nó cho buổi sáng.”

“Các xác chết được tìm thấy ở đâu?”

“Ở độ sâu hai mươi bốn mét. Các xác chết không có gì đáng ngờ, chỉ ngoại trừ việc không thấy có vết phỏng hoặc vết thương chỉ ra rằng họ hiện diện trong vụ nổ. Cho nên tôi nghĩ chính điều đó đã làm cho các xác chết có vẻ rất khả nghi.”

“Bên pháp y nói họ chết đuối.”

“Phải, họ chết đuối. Nhưng các ông bạn của anh đang mở bình hết cỡ, điều này đã được một trong những thầy dạy lặn của tôi xem xét. Nó hoạt động hoàn hảo. Họ là những người lặn giỏi.”

“Con trai ông thì sao?”

“Nó thì không mở bình hết cỡ, nhưng nó bơi như cá vậy.”

“Vụ nổ xảy ra ở đâu?”

“Họ lên kế hoạch lặn dọc theo một loạt cấu trúc san hô tại Roger’s Wreck Point. Anh có thông thạo hòn đảo này không vậy?”

“Không.”

“Nó nằm tại East Bay ở Northeastern Point. Các bạn của anh chưa từng lặn ở đó, và con tôi đã gợi ý họ đi thử. Chúng tôi quen biết tốt với các ông bạn của anh. Họ là những người lặn có kinh nghiệm và nghiêm túc. Họ luôn muốn đi tàu riêng và không băn khoăn gì về chuyện tiền bạc. Và họ luôn muốn Philip làm đội trưởng cho họ. Chúng tôi không biết họ có lặn tại Northeastern Point hay không. Con tàu được tìm thấy đang bốc cháy trên biển cách đó những hai hải lý, cách xa bất cứ địa điểm lặn nào của chúng tôi.”

“Liệu có phải nó trôi dạt không?”

“Không thể nào. Nếu có trục trặc về động cơ, Philip đã sử dụng radio rồi. Chúng tôi có thiết bị hiện đại, và các thầy dạy lặn của chúng tôi luôn cập nhật các thiết bị nơi cửa hàng lặn. Không cách chi vụ nổ diễn ra ở Northeastern Point. Không ai trông thấy hoặc nghe thấy nó, và quanh đó luôn có người. Thứ hai, ở vùng nước này, một con tàu hỏng hóc không thể nào trôi dạt đến hai hải lý. Giả như con tàu có quả thực bị trôi dạt đi nữa, làm cách nào anh giải thích việc các thi thể trôi dạt ở độ sâu hai mươi bốn mét dưới nước? Họ được tìm thấy cách con tàu trong phạm vi hai mươi mét.”

“Ai tìm thấy họ?”

“Người của tôi. Chúng tôi bắt được bản tin qua radio, rồi tôi phái một đội đến. Chúng tôi biết đó là tàu của chúng tôi, và người của tôi bắt đầu lặn xuống. Chỉ vài phút là họ tìm thấy các thi thể.”

“Tôi biết chuyện này rất khó để kể lại.”

Abanks uống cạn chai bia của ông rồi ném nó vào một thùng rác bằng gỗ. “Vâng, đúng vậy. Nhưng thời gian cũng giúp làm nguôi ngoai nỗi đau. Tại sao anh quan tâm nhiều thế?”

“Các gia đình đặt ra nhiều câu hỏi.”

“Tôi rất tiếc cho họ. Tôi đã gặp các bà vợ của họ hồi năm ngoái. Họ đã ở một tuần cùng chúng tôi. Những con người thật là tốt.”

“Có thể nào họ đơn giản đang khám phá một vùng biển mới thì chuyện đó xảy ra?”

“Vâng, có thể. Nhưng khả năng đó rất thấp. Các con tàu của chúng tôi luôn báo cáo từng dịch chuyển từ điểm lặn này đến điểm lặn kế tiếp. Đó là một quy trình chuẩn, không có ngoại lệ nào. Tôi đã từng đuổi việc một đội trưởng thợ lặn vì không báo cáo một địa điểm trước khi đi đến một địa điểm kế tiếp. Con tôi là đội tr?