← Quay lại trang sách

Hạnh

Hạnh cho tên mình là một sự mỉa mai. Trong hơn hai mươi năm mang cái tên ấy, chàng không một lần nào gọi là gặp may, mà cũng chẳng bao giờ thực là sung sướng.

Ngay lúc ra đời Hạnh đã suýt bỏ mạng và suýt làm mẹ chết lây. Cha Hạnh mếu máo bảo thầy thuốc:

- Xin ông cố cứu lấy nhà tôi, không cần nghĩ đến cái thai.

Nhưng thầy thuốc cứu được cả hai mẹ con. Thế là Hạnh cất tiếng khóc, ra chào đời, để làm em ba anh và hai chị. Ông phán Hà bảo bà phán:

- Nó sống thực là một sự may, vậy đặt tên nó là Hạnh.

Vì thế mà tên chàng là Hạnh. Và có lẽ vì thế mà Hạnh bị ghét, bị ruồng rẫy, bị hành hạ. Bà phán như lúc nào cũng nhìn thấy phản chiếu trong gương mắt đứa con khốn nạn hình ảnh cái chết hụt của bà. Nhiều khi nghe Hạnh khóc lâu quá, bà sang buồng bèn mắng vú em:

- Mày không dỗ cho thằng ôn con nó nín được à?

Rồi cáu tiết bà giơ tay phát mạnh vào mông đứa bé và thét:

- Quý báu lắm đấy! Có câm mồm ngay không?

Sau khi bà phán hằn học quay đi, Hạnh lại nhận tiếp luôn cái phát thứ hai của vú em.

Thòi thơ ấu, Hạnh sống trong kinh khủng và lãnh đạm. Từ ông phán, bà phán cho chí năm anh chị, hai em bé và cả bọn người nhà, không ai ưa Hạnh hết. Người ta không hành hạ, đánh đập, trêu ghẹo Hạnh thì cũng để mặc Hạnh lủi thủi chơi ở xó vườn, hay ở một góc nhà. Hạnh chạy nhảy một mình, bày đình bày chùa một mình. Bọn anh em có đến gần thì cũng chỉ đấm đá Hạnh hay phá đình chùa của Hạnh.

Bản tính nhút nhát, nhút nhát vì sợ hãi. Hạnh lại ốm yếu, nên thường hay khóc, hay quấy. Vì thế người ta đặt cho Hạnh cái biệt hiệu “Thằng cu Nhè”. Rồi người ta chỉ gọi Hạnh bằng cái biệt hiệu ấy hầu như quên hẳn tên Hạnh.

Hạnh cho những bữa ăn là thứ hình phạt nặng nề. Ngồi vào mâm trước cha mẹ, anh em, Hạnh bị mẹ mắng: “Cái thằng cu Nhè chỉ háu ăn chẳng chờ đợi ai cả!” Câu nói ít khi không điểm một cái tát hay một cái cốc nên thân. Chậm chạp đến sau hết mọi người, Hạnh cũng chẳng tránh thoát câu mỉa mai: “Gớm thằng cu Nhè dềnh dàng mãi, còn định để người ta mời nữa hay sao?” Lúc ăn hình như ông Phán chỉ để ý đến Hạnh, bắt bẻ cách cầm đũa, bát cách gắp: “Ăn gì mà ăn ngốn ngấu thế?” Hay: “Thằng Hạnh gắp mãi một dĩa giò; thôi để nhường cho em”. Sự thực, những món ngon ít khi Hạnh được ăn đến hai miếng.

Rồi Hạnh đi học. Buổi đầu Hạnh học ở nhà. Ông Phán mượn một người đỗ bằng tiểu học dạy các con. Hạnh chăm chỉ chẳng kém anh em mà lại còn phần thông minh hơn ai hết. Nhưng thầy giáo chẳng bao giờ để ý đến Hạnh.

Các anh em Hạnh được một điểm tốt thì thầy giáo trầm trồ khen ngợi. Ở bài của Hạnh, cái điểm tốt ấy sẽ rất thường, không đáng kể. Nhưng trái lại, nếu Hạnh vì hôm trước mệt nên không thuộc bài, thì thế nào cái thước kẻ cũng gõ lên đầu hay dằn lên tay Hạnh. Những trò khác gặp trường hợp ấy chỉ bị mắng mấy câu qua loa, hay bị phạt chép lại hai, ba lần bài học là cùng.

Ra trường Hạnh cũng chẳng sung sướng hơn. Vì bẽn lẽn, nhút nhát, Hạnh không tỏ ra được với ông giáo cái sức học khá và cái thông minh vững chãi của mình. Thành thử Hạnh bị lẫn trong đám học trò xoàng. Kỳ thi hàng tháng Hạnh có nhất được vài bài, người ta cho ngay là một sự may. Còn khi Hạnh để cho người láng giềng chép bài thi của mình thì lúc chấm thầy giáo không phải ngờ vực gì nữa: kẻ chép bài là Hạnh. Nếu Hạnh cho không cho hắn dòm bài làm thì sẽ bị hắn hành hạ khổ sở ngay vì ở lớp và ở trường Hạnh không vây cánh, không bạn thân. Hạnh là một trò ít lời, ít vui cười đùa bỡn, ít có ác cảm nhưng cũng ít có thiện cảm với hết thẩy mọi người.

Năm mười ba, Hạnh đậu bằng cơ thủy cùng với hai anh, hơn Hạnh hai và một tuổi. Lúc về nhà, ông phán bà phán soắn suýt hỏi thăm và khen ngợi hai con lớn. Mãi về sau ông phán mới biết tin Hạnh trúng truyển. Ông kinh ngạc kêu:

- Thằng Hạnh cũng đi thi cơ đấy à?

Sau bốn năm cần cù, học tập - bốn năm lạnh lùng, tẻ ngắt, không được tình bè ban hay tình anh em an ủi, vỗ về - Hạnh thi đậu luôn hai bằng thành chung và trung đẳng tiểu học.

Được bổ giáo học, Hạnh dạy ở một trường huyện, về miền trung du. Trong ba bốn năm, đời chàng lạnh lùng, tẻ ngắt như xưa, không bè bạn, không tình ái, không cả yêu mến của bọn học trò nhà quê.

Nhưng một hôm, Hạnh gặp nạn. Xuống một cái dốc dài, và trơn vì trời mưa, xe đạp của chàng trượt bánh văng chàng vào sườn đồi. Và chàng ngất đi...

Tỉnh dậy, trong làn không khí sặc mùi éther, Hạnh thấy mình nằm trên chiếc giường nệm, trong một gian phòng ấm áp, có lửa cháy trong lò sưởi. Sờ tay lên đầu, vì đầu chàng vừa đau, vừa nhức, chàng thấy có vải quấn chằng chịt. Bấy giờ chàng mới nhớ ra rằng mình ngã xe đạp, và đoán chừng người ta khiêng mình đến đây, một bệnh viện, hay một nơi cấp cứu bên dường.

Gần giường, một cái giá gỗ với chậu nước đầy, chiếc khăn bông trắng và bánh xà phòng đựng trong hộp sắt nhẹ. Trên mặt bàn ngủ, ba bốn lọ thuốc có dán nhãn đỏ. Hạnh hiểu ngay rằng người ta vừa băng bó cho mình xong. Chàng toan gọi người vào để hỏi xem mình ở đâu. Nhưng bản tính nhút nhát và do dự, chàng lại thôi, nằm im lặng nhìn hết vật nọ đến vật kia.

Qua cánh cửa sổ mở bụi mưa phùn, cảnh bên ngoài mịt mùng u ám. Hình như đó là một cái vườn cây cối um tùm. Bỗng hai cánh cửa sổ đóng hờ mở tung ra. Một luồng gió lạnh tạt mưa vào phòng, và thổi rạt chiếc màn ren treo ở cửa phòng. Hạnh định ngồi dậy nhưng mình mẩy đau ran, không sao nhúc nhích được. Chàng gọi:

- Có ai đấy không?

Không có tiếng đáp lại. Cái nhà như không người ở. Hạnh ngờ rằng tiếng mình nhỏ quá, liền cao giọng gọi một lần nữa. Vẫn im bặt. Luồng gió lạnh vẫn từng cơn thổi thốc vào phòng. Một cành cam với những quả rám đỏ lọt qua khung cửa rủ vào phía trong. Hạnh quên cả gió mưa, mắt đăm đăm nhìn. Chàng nghĩ thầm: “Giá được ăn một quả!” Và đã khát sẵn chàng lại càng thấy khát.

- Cô lên xem ông ấy đã tỉnh chưa?

Bất giác Hạnh mỉm cười. Chàng vừa nhận thấy tiếng một thiếu phụ mà chàng đoán chắc rằng xinh lắm. Tiếng trong trẻo của một thiếu nữ trẻ hơn đáp lại:

- Chị lên, em sợ lắm.

Người chị gắt:

- Sao mà nhát thế? Sợ cái gì kia chứ?

- Em sợ ông ấy chết rồi.

Hạnh không nhịn được bật cười. Chàng nói một mình: “Chết cái quái thế nào được!” Và nhìn cửa phòng, chờ đợi...

Lát sau, một người vén rèm bước vào kêu:

- Chết chưa?

Rồi vội vàng đóng cửa kính lại. Hạnh yên trí người ấy là một cô khán hộ, tuy cho rằng cô khán hộ trẻ quá, chỉ độ mười sáu, mười bảy tuổi.

- Thưa cô, cô làm ơn cho tôi xin một chén nước. Tôi khát lắm.

Thiếu nữ quay lại, vui mừng:

- Ồ! Ông đã tỉnh!

- Thưa cô, tôi ngất đi?

- Vâng ông ngất đi, mà tôi tưởng ông...

Thấy thiếu nữ ngập ngừng, Hạnh lo lắng nói tiếp:

- Cô tưởng tôi chết, phải không? Ông đốc bảo bệnh tôi nguy kịch, phải không?

- Không, anh tôi đi mời đốc tờ đã về đâu?

Hạnh ngơ ngác hỏi:

- Vậy đây không phải là nhà thương?

- Không ạ, đây là đồn điền của anh tôi, ông ngã xe đạp ở gần đây, anh tôi đi thăm ruộng bắt gặp, cho khiêng ông về, rồi ra tỉnh mời đốc tờ. Thưa ông; ông đã dễ chịu chưa?

- Cám ơn cô. Đầu tôi còn nhức lắm.

- Vâng, đầu ông vỡ, chảy nhiều máu lắm. Nhưng chân tay không gẫy, anh tôi bảo thế.

Không bao giờ Hạnh lại bạo dạn như thế, dám nói truyện rất lâu với một người con gái lạ. Có lẽ trường hợp đặc biệt này khiến chàng quên được cái tính thẹn thùng cố hữu của chàng. Nhưng một phần cũng nhờ ở cái dung nhan trung bình và hiền lành của thiếu nữ.

Sau mấy giây yên lặng khó chịu Hạnh ngập ngừng hỏi cho có truyện:

- Thưa cô, vậy cái băng ở đầu tôi không phải ông đốc tờ quấn?

- Thưa ông, chị tôi quấn đấy ạ. Chị tôi trước làm bà đỡ.

Rồi chừng cho đứng một mình nói truyện với khách lạ là một điều bất tiện, thiếu nữ cúi đầu chào, đi ra khỏi phòng. Hạnh nghe thấy tiếng guốc ở nhà dưới đi lên rồi tiếng thiếu nữ bảo chị ở phòng bên:

- Ông ta đã tỉnh đấy chị ạ.

Người chị vui mừng đáp lại:

- Thế à? Lan có nhớ dặn ông ấy nằm im đừng động đậy để chờ ông đốc đến tiêm không?

- Em quên... Mà ông ấy kêu khát em cũng quên rót nước cho ông ấy nữa.

Cả hai cùng vào phòng. Người đàn bà nhỏ nhắn, vào trạc ba mươi tuổi. Da trắng hồng. Dưới đôi mi bán nguyệt hai con mắt sáng ngời cười nhìn thẳng vào mặt Hạnh, khiến mắt chàng lim dim nhắm lại.

- Thưa ông, ông không hề gì hết, lát nữa ông đốc đến tiêm cho ông một phát antitétanique là không lo gì hết. Ông ngất đi chỉ vì mất nhiều máu... Nhưng không sao.

Thiếu phụ đặt ghế ngồi liền bên giường trong khi Lan rót một cốc nước chè nụ nóng đem lại. Hạnh toan ngồi dậy đỡ lấy. Nhưng thiếu phụ vội kêu:

- Ấy, không ngồi được dâu.

Rồi tay phải nàng từ từ nâng đầu Hạnh lên, tay trái cầm cốc nước ghé vào môi chàng.

- Ông nên uống thong thả.

Lần đầu trong đời, Hạnh được chăm nom dịu dàng, hơn thế, được tay một người đàn bà mơn trớn. Chàng sung sướng chảy nước mắt.

Thiếu phụ khẽ hỏi:

- Ông còn đau lắm?

Hạnh nghẹn ngào đáp:

- Không... Cảm ơn... bà.

Nửa giờ sau, chủ đồn điền và thầy thuốc tới nơi. Nghe tiếng còi điện ô-tô người em gái chạy vội ra cổng. Hạnh nghe có tiếng hỏi ngoài đường:

- Thế nào, em Lan, ông ta đã tỉnh chưa?

Và tiếng Lan vui mừng đáp lại:

- Thưa anh, đã. Em cứ lo ông ấy chết.

Giọng cười thản nhiên của hai người đàn ông làm Hạnh hơi khó chịu. Chàng chau mày lim dim nhắm mắt. Tiếng cười nói mỗi lúc một gần thêm. Hạnh nghe rõ họ bàn chuyện săn bắn rồi chuyện tổ tôm. Một mẫu thời xưa vụt hiện trong ký ức Hạnh:

Chàng thấy mình ốm li bì, nằm trong một gian buồng tối. Bên ngoài là phòng khách. Ở đó cha mẹ chàng đương đánh tổ tôm với bạn hữu. Ai nấy nói oang oang. Rồi đêm khuya người ta ăn cháo gà nóng. Tiếng thìa, đũa chạm bát lách cách. Người ta kể những chuyện khôi hài. Và người ta thét lên cười vui thú. Hạnh mệt hơn là đau, nhưng cũng rên mấy tiếng để bên ngoài người ta biết rằng mình đang ốm. Song chẳng ai lưu ý tới.

Tiếng giầy vào phòng kéo Hạnh về hiện tại. Hạnh tưởng là ông thầy thuốc, nhưng đó chỉ là bà chủ đồn điền.

- Ông đốc đã đến. Sắp thăm ông đấy.

Hạnh ấp úng:

- Cảm ơn bà.

Rồi thấy hai người đàn bà nhìn mình mỉm cười, chàng bẽn lẽn nhắm mắt nằm chờ.

- Ông vẫn còn mệt và đau lắm phải không?

Hạnh mở mắt ra, nhưng nhìn thẳng xuống chân:

- Thưa bà, cũng không đau lắm.

Gót giầy còm cộp nện. Hạnh nghĩ thầm:

- Chuyến này thì hẳn là ông đốc.

Quả thực đó là ông thầy thuốc, một người to lớn, khỏe mạnh, da ngăm ngăm đen. Hạnh lo lắng nhìn cái rọc thuốc lá bằng ngà rất dài mà ông ta ngậm lệch ở một bên miệng, tưởng chừng lửa ở đầu điếu thuốc sắp dí vào trán ông chủ đồn điền đứng đối diện; vì ông này người thấp bé chỉ cao đến mũi ông thầy thuốc.

- Ngã xe đạp?

Hạnh không đáp, tưởng ông thầy thuốc không hỏi mình, nhất lại thấy ông ta quay ra phía cửa sổ.

- Vâng, ông ấy ngã xe đạp.

Hạnh ngước mắt nhìn bà chủ như để cám ơn bà đã trả lời giúp mình.

- Ông ngồi dậy.

Thấy Hạnh ngần ngừ, ông thầy thuốc hỏi luôn:

- Có ngồi được không?

- Được ạ.

Người thiếu phụ vội nói.

- Ông ấy đau lắm, vì vết thương khá nặng...

- Để tôi đỡ ông ấy dậy.

Hạnh kinh hoảng ngồi chồm lên. Ông thầy thuốc yên lặng tháo băng ra xem, lấy tay nắn chỗ đau:

- Không vỡ sọ... không hề gì... Ông đã rửa ether?

Bà chủ đáp:

- Vâng.

- Thế thì tốt lắm rồi. Bây giờ tôi tiêm cho ông một phát huile camphrée và một phát anti-tétanique là không lo ngại gì nữa... Đến mai sẽ lại lên xe đạp phóng nước đại như thường.

Hạnh mỉm cười vơ vẩn.

- Ông làm gì?

- Bẩm... tôi làm giáo học ở trường Huyện.

- Huyện đây?

- Vâng.

- Ông đi xe đạp về tỉnh. Được nghỉ lễ Noel?

- Vâng.

Vừa nói ông thầy thuốc vừa quấn băng lại như cũ. Đoạn mở cái va-li con lấy ra một cái ống tiêm và hai ống thuốc. Tức thì bà chủ nhà đã nhanh nhẹn đặt lên bàn cái bếp rượu mạnh rồi mở cửa sổ nói xuống nhà dưới:

- Lan ơi, lấy cho chị cái xoong đun sữa nhé.

Tiếng Lan đáp:

- Có lấy nước không, chị?

- Có chứ.

Câu hỏi của Lan làm hai người đàn ông bật cười. Hạnh cũng nhách miệng mỉm cười.

Trong khi bà chủ ngồi ở một cái ghế đặt bên giường người ốm để đợi xoong nước sôi - xoong nước luộc ống tiêm và kim tiêm - thì ông chủ và ông thầy thuốc uống rượu ở phòng khách liền bên. Hạnh nghe thấy tiếng cốc lách cách đặt lên dĩa. Và chàng đoán họ uống tới vài cốc rồi, vì đã hai lần có tiếng mời: “Một cốc nữa” và sau tiếng rượu rót ra cốc, câu trả lời: “Merci, Monsieur Lâm!” Hạnh nghĩ thầm: “À, ra đây là đồn điền ông Lâm mà mình đi xe đạp qua cổng mỗi khi ra tỉnh chơi!” Chàng nhớ lại cái cổng gạch rộng với hai cánh cửa sắt, xây hơi lùi vào phía trong lũy tre cao, kiên cố. Hạnh không hề nghe thấy người ta bàn tán nói truyện về ông Lâm bao giờ. Chàng biết cái tên Lâm là chỉ vì, cũng như mọi người ở vùng này, chàng thường chia con đường dài ra từng đoạn, và thường dừng xe nghỉ ở cái quán cuối dốc đồn điền ông Lâm: “Thì ra mình ngã xe ở ngay cái dốc ấy, cái dốc mà mình vẫn tưởng tên là ‘dốc đồn điền ông Lâm’.”

- Thưa ông, ông làm giáo học đã bao lâu?

- Thưa bà, đã hơn bốn năm... Năm nay là năm thứ năm.

- Ở luôn một trường Huyện?

- Vâng.

- Lạ nhỉ! Ít khi có ông giáo dạy luôn một trường Huyện trong năm năm như thế.

- Vâng, kể cũng... Nhưng, thưa bà, không bao giờ tôi nghĩ đến điều đó.

Bà mỉm cười:

- Dễ thường người ta quên ông đi đấy.

Câu khôi hài của người đàn bà, Hạnh chợt cảm thấy không ngoa ngoắt chút nào. Là vì ý nghĩ ấy có luôn luôn trong óc chàng: “Người ta quên mình”.

Mà sự thực, Hạnh quả là một người bị quên. Thời còn nhỏ, cha mẹ Hạnh như quên có Hạnh trong gia đình, các thầy giáo như quên có Hạnh trong lớp học, đến nay sở Học chính lại như quên có thầy giáo Hạnh ở một trường Huyện nhỏ. Và đời cũng như quên rằng có một người tên là Hạnh đương sống, sống trong bóng tối.

- Vâng, thưa bà, có lẽ người ta quên tôi.

- Ông làm giáo học thì sai, phải không?

Thản nhiên, Hạnh đáp:

- Không ạ. Tôi làm giáo học.

Người đàn bà tỏ vẻ kinh ngạc:

- Thế à? Tôi cứ tưởng ông làm trợ giáo.

Hạnh giọng tự phụ:

- Thưa bà, tôi đậu Diplôme và Brevet năm 1930.

Nước trong xoong sôi đã lâu, Hạnh vẫn không thấy bà chủ lưu ý tới. Chàng cũng không nhắc, vì muốn lui cái phút tiêm lại. Trong đời chàng, chàng mới trồng đậu hai lần, một lần thời còn nhỏ mà chàng không nhớ vào năm nào, và một lần học năm thứ hai trường Bảo hộ. Còn tiêm thì chàng chưa bao giờ tiêm. Trông thấy cái kim nhọn đâm vào da người khác, chàng đã rùng rợn như chực ngất đi. Vì thế, những năm có dịch tả, thầy thuốc về trường tiêm cho học trò, chàng vẫn tìm cách trốn tránh: đối với chàng, thà mắc bệnh tả chết còn hơn. Thế mà, lần này, ngay một lúc chàng tiêm liền hai phát.

Tim Hạnh đập mạnh như theo nhịp tiếng lách cách của cái ống tiêm trong nước sôi. Mặt Hạnh tái đi khi thấy bà chủ đồn điền thổi tắt lửa, nói:

- Tiêm thôi.

Bà đứng dậy sang phòng bên, rồi cùng hai người đàn ông đi vào.

- Thưa quan, tiêm huile camphrée trước?

- Vâng.

Vừa nói, ông thầy thuốc vừa cầm cái cưa nhỏ xíu cưa một đầu ống thuốc.

Công việc làm nhanh chóng và nhẹ nhàng một cách không ngờ. Bây giờ Hạnh chỉ còn nhôn nhốt đau ở hai bên đùi.

Nằm một mình trong gian phòng ấm áp, chàng mỉm cười tự nhủ thầm: “May mà ông đốc tưởng mình sốt rét. Chứ nếu ông ấy biết mình sợ đến lạnh toát người và run bật lên thì ông ấy cười chết!”

Có tiếng giày rón rén, Hạnh biết ngay là bà chủ.

- Ông ngủ đi một lát thì tốt.

- Thưa bà, tôi không buồn ngủ. Bây giờ độ mấy giờ ạ?

- Thưa ông, hơn tám giờ. Ông có thấy sốt không?

- Thưa không.

- Thế thì chỉ độ mai là ông đi lại được.

Hạnh bâng khuâng buồn. Và chàng cố giữ một tiếng thở dài. Chàng vẫn hay có tính thở dài, nhất những khi buồn. Cái đó đã đành. Nhưng nhiều khi không buồn, chàng cũng thở dài. Có lẽ cái nết xấu ấy đã thành một thói quen do tạng yếu đuối sinh ra. Chàng nhớ một lần vào hiệu Gô-Đa mua hàng, lúc đứng chờ trả tiền, chàng bỗng thốt ra một tiếng thở dài não nuột, khiến cô giữ quỹ ngửng lên nhìn chàng mỉm cười. Người bạn cùng đi với chàng chế nhạo chàng mãi, vì tưởng chàng mê cô đầm lai xinh đẹp.

- Thưa bà, bà chắc mai tôi đi được?

- Vâng, chắc lắm. Vết thương không nặng gì.

Hạnh nói dối một câu để người thiếu phụ khỏi ngờ vực lòng mình.

- Thưa bà, là vì tôi có việc cần ở tỉnh... Cần phải ra ngay.

- Sao ban nãy ông không nhờ nhà tôi giúp?

- Thưa bà tôi quên.

Kỳ thực chàng không có việc gì ở tỉnh. Chẳng qua được nghỉ mấy ngày thì ra chơi nhà một người bạn đồng nghiệp, trước đây học ở trường huyện, vừa đổi ra trường tỉnh mấy tháng trước.

Một thằng bé mặc chiếc áo len đan chạy vào phòng.

- Mẹ!

- Bản, chào ông đi!

Thằng bé trố mắt nhìn Hạnh. Người mẹ giục:

- Kìa Bản chào ông đi.

Thằng bé cười hóm hỉnh, nói:

- Lạy ông ạ.

- Không dám, chào cậu.

Hạnh hỏi bà chủ:

- Thưa bà, cậu này là thứ mấy?

- Thưa ông, tôi mới có một cháu này. Năm nay cháu lên sáu. Bản, lấy sách ông xem đi. Ông giáo đấy, con ạ. Rồi mẹ cho con đến trường học ông giáo nhé?

Bản giọng nũng nịu:

- Không con chả học ông giáo, ông giáo hay đánh lắm.

Hạnh cười:

- Không, tôi không đánh Bản đâu. Bản cứ đến trường học, tôi yêu Bản lắm cơ.

Bản kéo mẹ ngồi xuống ghế và ngồi vào lòng. Cái cảnh tượng âu yếm và cảm động ấy khiến Hạnh hồi tưởng lại tuổi thơ ấu lạnh lẽo của mình. Chẳng bao giờ Hạnh được ngồi trong lòng ấm áp một người đàn bà thơm tho. Vú em nuôi Hạnh chỉ là một người nhà quê to béo cục cằn và hôi hám.

- Nào, Bản đọc bài cho ông giáo nghe nào!

Bản nghiêng đầu lườm Hạnh và phụng phịu nói:

- Không đọc!

Điệu bộ ấy của đứa con nuông làm cho Hạnh càng tủi thản. Cái đời buồn tẻ, không tình cảm đã ảnh hưởng tới ngôn ngữ và cử chỉ trở nên cứng cỏi của chàng. Không bao giờ chàng được vỗ về, ôm ấp. Cũng không bao giờ chàng muốn ngắm sự âu yếm dịu dàng của những người khác đối với nhau. Chàng đã quen cho đó là toàn những sự lố lăng hay giả dối.

- Bản không ngoan nhé!

Người mẹ mắng yêu con rồi tươi cười bảo Hạnh:

- Thưa ông, cháu ngộ nghĩnh lắm cơ ạ. Nào, Bản nói tiếng tây như cậu cho ông giáo nghe nào. Nào, nói đi! À, đố Bản biết chữ gì là người ốm nào?

Bản hất cằm, đáp:

- Le malade!

Rồi chừng để khoe, nó đọc luôn:

- Le malade a bu du café là người ốm đã uống nước cà phê.

Bà chủ như chợt nhớ ra đứng phắt dậy.

- À! Để me xuống bảo nó bưng cà phê sữa lên ông giáo xơi.

Rồi nàng vội vã bước ra khỏi phòng. Bản nắm áo chạy theo sau.

Tiếng thở dài giữ mãi, bây giờ Hạnh mới buông ra được.

Chàng ngồi dậy. Đầu chàng lảo đảo quay thái dương dập bần bật vì bị bóp chặt trong những vòng vải thưa. Chàng toan cố gượng bước xuống đất, ra ngồi ở cái ghế cói đặt trước lò sưởi nhưng thấy chóng mặt quá chàng lại nằm xuống: “Cứ thế này thì khó lòng mai đi được”. Ý nghĩ ấy đem vao lòng Hạnh một cảm giác êm đềm, cái êm đềm lười biếng của kẻ nằm trong chăn những ngày mưa lạnh.

Bên ngoài, trời dần dần tối. Hạnh cảm thấy thế, trước khi nhìn khoảng trời xám qua cửa sổ. Như có cái màn vô hình dệt bằng sương mù màu u ám nhẹ nhàng chùm lên vai chàng.

Gió đưa cành cam đập vào cửa kính. Hạnh vơ vẩn mong hai cánh cửa lại tung ra một lần nữa để được ngắm mấy quả cam béo mọng, da rám hồng như đã hút lấy hết cả ánh nắng dịu mùa đông. Mắt Hạnh dán vào cái khung chữ nhật, cố nhận rõ hình những lá đen. Những chút ánh thừa buổi hoàng hôn đã thoáng qua. Chàng chỉ còn thấy một khoảng đen trên bức tường phớt màu vàng nhợt của than hồng...

Yên lặng làm Hạnh bức rứt khó chịu. Không còn cả tiếng lách tách trong lò sưởi, vì củi cháy đã tàn. “Họ quên mình chăng?” Câu chuyện của người đàn bà lúc ban chiều trở lại trong tâm trí Hạnh: “Hơn hết là mình cũng quên họ đi, và ngủ một giấc đến sáng mai dậy sớm”. Trong đời Hạnh, ít khi Hạnh khó ngủ. Nghe bạn nói trằn trọc suốt đêm, Hạnh không thể tin được, vì cứ đặt mình xuống giường độ dăm phút thì chàng đã “không biết trời đất gì nữa”. Người ta bảo chàng rằng đó là một quý tướng của một người vô tư lự. Tư lự thì quả Hạnh không tư lự bao giờ. Vả trong đời chàng, trong cái đời nhạt nhẽo, tẻ ngắt của chàng, cái gì cũng không đáng kể, cả những thống khổ về thể chất và tinh thần.

Những cái đau đớn khổ sở ấy không đủ lực lượng để khiến được Hạnh buồn phiền đến mất ngủ chăng?

Hồi tưởng lại thời thơ ấu, và cố tìm ra những nỗi thống cực, chàng chỉ nhớ một mớ cảm giác lờ mờ: Những sự hành hạ, ức hiếp đã biến trong lãnh đạm, trong quên lãng. “Lần này có lẽ là lần đầu tiên thân thể mình bị đau đớn ê chề?”

Hạnh mỉm cười nghĩ đến chữ ê chề: “Chỉ trong văn chương người ta mới dùng chữ ê chề. Chứ chưa bao giờ mình được đau đớn ê chề. Sáng nay mình ngất đi, lúc tỉnh dậy mình tưởng như vừa thức giấc... Giá mình gẫy một tay hay một chân... thì không biết mình ra sao?”

Đấy là về thể chất. Còn về tinh thần? Về linh hồn? Hạnh nhớ một lần đến thăm người vừa mồ côi cha. Chàng thấy bạn gào khóc thảm thiết, và lăn vào ôm lấy thây cha rồi ngất đi. Chàng cho có lẽ người ta chỉ đau đớn vì những sự đau đớn to tát về tinh thần mà thôi. Nhưng nghĩ đến cha, nghĩ đến hết mọi người sống quanh mình, Hạnh không thấy một ai yêu mến mình để lúc chết, mình có thể thương tiếc, khổ sở được. Chàng kết luận: “Mình là một người không vui, không buồn, hay có vui có buồn, thì cái vui cái buồn cũng vô vị!” Và chàng mỉm cười.

Phòng tối hẳn. Lửa trong lò sưởi đã tắt. Hạnh có cảm giác giá lạnh tuy chàng nằm trong chăn ấm. Lần này thì chàng chắc chắn, chàng yên trí rằng người ta quên mình. Nhớ tới cốc sữa cà phê mà bà chủ nhắc ban này, chàng chua chát nghĩ thầm: “Quên mình thì quên, nhưng quên cốc sữa cà phê đã hứa thì thật là một sự mỉa mai... và đau đớn”.

Một chút ánh vàng thấp thoáng rung rung trên màn ren. Hạnh đoán chừng người ta đã bắt đầu thắp đèn phòng khách. Quả thực, phòng Hạnh dần dần bớt tối, rồi Hạnh nghe rõ trong yên lặng hoàn toàn tiếng vo vo đều đều của cây đèn măng sông đương cháy: “Có lẽ trừ ông chủ ra, những người trong cái nhà này toàn là đàn bà với một thằng bé con!”

Nhưng để chứng thực ý nghĩ của Hạnh, một đứa thị tỳ cầm cây đèn dầu hỏa đi vào phòng. Ánh sáng nhuộm hồng, cái mặt bầu bĩnh trở nên xinh xinh. Hạnh đăm đăm nhìn, nói:

- Cám ơn... chị nhé.

Người ở gái để đèn lên mặt lò sưởi và quay lại:

- Thưa, ông thức? Bà con cử tưởng ông ngủ. Vậy để con bưng cà phê lên ông xơi.

- Thế bà đã xơi cơm chưa?

- Thưa ông, bà con còn đợi ông con về.

- Ông đi vắng chưa về?

- Vâng, ông con đánh xe tiễn quan đốc ra tỉnh.

Sau một giây yên lặng, Hạnh thở dài, lẩm bẩm:

- Tôi làm phiền ông bà quá, nhỉ?

Nhưng người đầy tớ gái không đáp, vội vã bước ra khỏi phòng. Hạnh nhìn theo, lòng mừng thầm: “Ừ có thế chứ! Chẳng lẽ lại quên được!”

Một lát sau, người ấy bưng vào một cái khay đựng cốc sữa và chiếc bánh mì, và đặt lên bàn ngủ:

- Ông có ngồi dậy được không?

Hạnh nhớ cái cảm giác êm ấm lúc được bà chủ nâng đầu cho uống nước. Và chàng toan đáp: “Không”. Nhưng chẳng hiểu sao, chàng chống tay ngồi dậy.

- Này chị Sen!

Người đầy tớ gái nghiễm nhiên trả lời:

- Thưa ông, tên con là Nhàn.

- Thế à?

Hạnh bẽn lẽn khó chịu:

- Bánh tây mua đâu đấy, chị Nhàn?

- Thưa ông, sáng nay ông con mua ở tỉnh về... Thưa ông xơi chẳng nguội.

Hạnh cầm thìa quấy sữa.

- Bà xơi cơm chưa?

Hình như Nhàn cũng không nhớ rằng ông giáo đã hỏi câu ấy rồi, nên đáp bằng một giọng rất tự nhiên:

- Thưa ông, bà con còn chớ ông con về mới ăn.

- Vậy ông chưa về?

- Chưa ạ.

Hơi cà phê sữa thơm tho bốc lên mũi càng làm tăng lòng đói của Hạnh. Nhưng chàng tưởng nên có cử chỉ thong thả, nhã nhặn trước mặt người thị tì. Vì thế chàng cầm thìa quấy hoài, chờ người con gái đi ra rồi mới dám bẻ bánh nhai ngốn ngấu.

Nửa đêm Hạnh thức giấc giữa những tiếng chó sủa và những tiếng giầy lộp cộp bên phòng khách. Rồi có tiếng dép trên cầu thang. Đêm khuya thanh vắng, người ta nghe rất rõ những tiếng động nhỏ. Hạnh nhận thấy cả tiếng mưa rỏ giọt trong lá.

Bỗng tiếng bà chủ kỳ kèo chồng, giọng gắt gỏng dữ dội chứ chẳng còn mềm mỏng hiền lành nữa.

- Sao mình về khuya thế? Có biết mấy giờ rồi không?

Người chồng giọng mệt nhọc, rồi sau một cái ngáp kêu.

- Cụ Tuần giữ đánh tổ tôm.

- Tổ tôm! Thế không biết từ chối à, không biết nói nhà có khách à?

Lâm cười vui vẻ:

- Chết chửa, tôi quên bẵng nhà có khách! Ông giáo ấy, phải không? Thế nào, ông ta khỏi hẳn chưa?... Vậy ông ta vẫn nằm ở phòng bên?

- Chứ còn nằm ở đâu?

- Thế ông ta có ăn cơm đấy chứ?

- Ăn sữa cà phê với bánh tây thôi.

Giọng người đàn bà đã dịu dàng hơn, bình tĩnh hơn. Hạnh nhận thấy điều đó với tất cả lòng cám ơn. Chàng cho rằng vì nhớ đến mình mà bà chủ đồn điền nguôi cơn giận.

Rồi hai vợ chồng lên gác. Rồi yên lặng lại chiếm lấy khu đồn điền.

Sáng hôm sau, Hạnh dậy sớm. Khoảng trời hồng lấp loáng qua những miếng kính cửa sổ báo trước một ngày tạnh ráo, tốt đẹp.

Hạnh quay đầu sang hai bên thấy bớt đau liền mừng rỡ bước xuống đất. Cái áo lót chàng mặc nát nhầu và dính đất vàng. Chàng vội đi tìm cái cặp da để lấy quần áo thay, và thấy nó ở dưới gầm cái bàn cói bày giữa hai cái ghế bành.

Đoạn Hạnh mở cửa sổ nhìn. Một cảnh rực rỡ: một vườn cam sành rộng bát ngát và vây lấy mấy nếp nhà gạch. Những quả bắt đầu rám đỏ, nặng trĩu rủ xuống gần sát đất. Một con chim khuyên tí tách nhảy chuyền những cành thưa lá, đậu vào cuống quả cam, ngoẹo đầu, nghiêng mắt nhìn, bắt sâu.

Trong lá bưởi, một con chim chích chòe hót từng hồi dài. Trên đầu Hạnh, dưới khe mái ngói, đàn sẻ kêu chiêm chiếp liên thanh.

Hạnh cho là chim muông chào mừng một ngày quang đãng. Và chàng nghĩ tới những câu văn sáo trong những bài luận của bọn học trò lớp nhất. Nhưng chàng cũng thấy lòng vui.

Chàng muốn ra vườn cam dạo một vòng. Chợt nhớ tới những tiếng chó sủa dữ tợn tối hôm trước, chàng lo lắng nhìn xuống bếp để tìm xem hình thù mấy con chó như thế nào. Bất giác chàng gọi:

- Chị Nhàn!

Người đầy tớ gái, mắt còn ngái ngủ, chạy lên:

- Thưa ông gọi con?

Hạnh định nhờ coi chó và đưa ra vườn nhưng chàng chỉ nhút nhát hỏi:

- Ông dậy chưa, chị?

- Thưa ông chưa. Chỉ mới có bà con dậy sớm...

- Bà dậy sớm nhỉ?

- Thưa ông, ông khỏi hẳn rồi?

- Phải, tôi khỏi hẳn rồi... Tôi định... chào ông bà để xin đi.

- Vậy ông để con mời bà con lên.

Dứt lời, Nhàn đi thẳng ra khu vườn phía trước. Một lát sau, bà chủ và Lan cùng vào phòng; Lan nói như reo mừng:

- Ông giáo đã dậy được!

Hạnh vội khoác cái áo da sù lên mình, rồi nghiêng đầu chào. Bà chủ hỏi:

- Ông còn đau không?

- Thưa bà, tôi khỏi hẳn rồi... Chỉ còn hơi... rức đầu thôi.

- Vậy ông cứ nằm nghỉ ở đây, bao giờ khỏi hẳn hãy đi... ông đừng ngại điều gì hết, cứ coi như ở nhà.

Hạnh ấp úng:

- Thưa bà, nếu không có ông bà cứu giúp thì... Thực ơn ông bà...

Bà chủ ngắt lời:

- Thưa ông nói ơn với huệ làm gì! Giúp đỡ nhau trong khi hoạn nạn đó là bổn phận của mọi người. À! Thưa ông hôm qua ông có ngủ được không?

- Cảm ơn bà, tôi ngủ nhiều lắm. Nửa đêm thức dậy chỉ độ mười phút rồi lại ngủ ngay.

Lan nhìn chị dâu:

- Chừng ông giáo thức dậy lúc anh về.

Bà chủ tiếp luôn:

- Vâng, chừng thế, phải không? Thưa ông, chúng tôi làm mất giấc ngủ của ông?

Hạnh vội nói:

- Thưa bà, không ạ.

Chàng chẳng tìm được ý gì để tỏ với người đàn bà rằng mình không nghe thấy những lời kỳ kèo chồng của người ấy tối hôm trước. Chàng cũng chẳng biết đánh trống lảng nữa. May có Lan giúp chàng khỏi chỗ khó khăn:

- Thưa ông xe đạp của ông quằn bánh, anh Tài đã chữa xong rồi.

Câu nói đột nhiên. Nhưng Hạnh cho là hữu ý. Chàng nghĩ thầm: “Cô ta muốn đuổi mình đi. Phải, mình ở đây làm phiền bao nhiêu người, đi là phải”. Chàng nhìn Lan như để cảm ơn đã có nhã ý bảo ngầm cho mình biết và chàng nói với bà chủ.

- Thưa bà, tôi xin thành thực cảm ơn ông bà và cô đã có lòng tốt đối với tôi. Bây giờ thì xin... kính chào ông bà và cô... tôi đi.

Câu nói dài quá làm cho Hạnh thở hổn hển vì cảm động.

- Nhưng ông còn mệt lắm.

- Tôi đi được ạ.

- Vậy ông nhất định đi.

Không chờ câu trả lòi, bà chủ ra khỏi phòng gọi người nhà sắp ăn sáng. Hạnh lại nghĩ thầm:

“Cả bà chủ cũng khó chịu vì mình. Bà ta muốn tống cổ mình đi ngay cho rảnh mắt! Thì mình đi chứ sao!”

Và chàng thở dài, vơ vẩn nhìn ra vườn.

Những quả cam lóng lánh trong ánh nắng buổi sớm. Hạt mua còn đọng lại trên lá. Hạnh ví với hạt minh châu, tuy chàng không biết hạt minh châu là hạt gì.

Ở chân lũy tre xa, hơi sương bốc lên một màu lam đục, Hạnh thốt ra một câu khen:

- Đẹp!

Hạnh thấy bóng người ở gái phản chiếu trong kính cửa sổ, nhưng chàng không quay đầu lại, làm như mê mải ngắm vườn cam. Sự thực, chàng đương mong người ta bưng bữa ăn sáng vào, vì sau một ngày nhịn cơm chàng đói ngấu: Cốc sữa với chiếc bánh mì tối hôm trước chỉ như món khai vị làm cho dạ dầy chàng nôn nao thêm.

- Thưa ông, có nước nóng rồi đấy ạ.

- Nước sôi à? Đâu, chị?

- Thưa ông ở bên buồng “toa lét”.

Hạnh kinh hoảng nghĩ thầm:

“Thì ra nước rửa mặt, mình lại cứ tưởng nước sôi pha sữa. May mà câu hỏi của mình mập mờ, chứ nếu mình nói rõ ra là nước sôi pha sữa thì còn gì là thể diện”.

Như phần nhiều người nhút nhát, Hạnh rất hay lo mất thể diện, nhất khi đứng trước đàn bà.

- Mời ông sang rửa mặt rồi xơi sáng ạ.

Hạnh đáp lại một tiếng “À!” thì thào như hơi gió trong cổ họng. Rồi hấp tấp ra phòng khách.

- Thưa ông buồng “toa lét” ở đây cơ ạ.

Nhàn trỏ phía trước. Đó là một mẩu hiên ngăn ra bằng một bức bàn sơn màu xanh nhạt.

Hạnh mở cửa thò đầu nhìn vào trong. Thấy cái thùng kẽm gần chiếm kín bề ngang hiên, chàng đột ngột kêu:

- À! Buồng tắm!

- Vâng, phòng “toa lét”.

Câu trả lời đi liền với một cái mỉm cười rất tự nhiên và thẳng thắn mà Hạnh tưởng có ngụ một ý nghĩa mỉa mai. “Dễ nó ngờ mình không hiểu nghĩa chữ toilette của nó chăng?” Chàng cáu kỉnh hỏi:

- Chị cũng biết chữ tây chữ tiếc cơ đấy?

Người đầy tớ gái ngơ ngác nhìn Hạnh. Vì tiếng “phòng toa lét” nàng chỉ nói theo chủ mà chẳng hiểu đó là tiếng tây.

- Được, cảm ơn chị.

Hạnh đứng vào trước bàn rửa mặt, một cái bàn sơn trắng đã cũ, ở giữa đục thủng một lỗ tròn để lọt trên cái chậu sứ giang tây men màu sặc sỡ. Cái gương chữ nhật, khung gỗ treo thấp khiến Hạnh phải khuỵu gối mới nhìn thấy bóng mặt mình, cái bóng lờ mờ như hiện ra trong sương mù buổi sớm: hơi nước nóng bốc lên đã phủ đây một lớp bụi nhỏ. Chàng kêu thầm: “Flou arlislique!” [1]

Thực vậy, hình chàng hiện ra như một bức ảnh mỹ thuật trong một tạp chí chiếu bóng bên Pháp. Chàng ngắm nghía với một ý nghĩ tự ái. Cái vải băng trắng quấn vòng đầu kẻ một chữ nhân trên trán. Chàng thấy mình như vụt biến thành một ông hoàng Ả Rập trong những truyện “Sách Hồng” đọc ngày xưa. Và chàng mơ màng như lạc tới một cảnh mộng, một cảnh êm đềm, một thế giới lạ lùng mà chàng tưởng tượng có đoàn phụ nữ.

- Mời ông rửa mặt rồi sang phòng ăn xơi sáng.

Hạnh giật mình vội đáp:

- Được.

Rồi dúng khăn bông vào chậu nước, nói tiếp:

- Cái gương này treo khá thấp thành thử cứ phải cúi xuống mới soi được.

- Bẩm có nhẽ ông cao quá.

- Ừ có nhẽ.

Hạnh mỉm cười, nhớ tới tấm thân béo lùn của ông chủ và tầm vóc nhỏ nhắn của bà chủ.

- Chị có cái... khăn lau, lau qua cái gương hộ tôi.

Không nghe thấy tiếng trả lời, Hạnh quay lại người đầy tớ gái đã đi rồi.

Rửa mặt xong, Hạnh nhìn thấy lọ nước hoa pha loãng màu trắng hồng, cái ốc ở đầu nút đã vặn ra. Chàng cầm lấy gội lên tóc và cái băng quấn đầu. Thoang thoảng một mùi thơm. Đó chỉ là một thứ nước xức tóc xoàng của đàn ông, nhưng Hạnh cho hương thơm của nó hoàn toàn có tính cách phụ nữ, hầu như mùi da thịt đàn bà mà chưa bao giờ chàng đã được gần gụi thân mật.

Hạnh nhớ một lần cách đây hai năm, anh em đồng nghiệp rủ đi hát ả đào ở tỉnh. Một đào nương mũm mĩm, cô Lan, lấm lét nhìn chàng, khiến chàng cảm thấy rạo rực tình yêu. Người ta ẩy chàng vào lòng Lan, chàng vùng vẫy ngồi nhích ra, nhưng lặng thinh để mặc Lan nghếch đùi lên đùi mình. Đêm hôm ấy về trường, Hạnh bâng khuâng nhớ người ả đào, và trong luôn mấy tuần lễ mùi nước hoa nhài hăng sè của người ấy phảng phất trong tâm hồn chàng. Từ đấy hễ thoáng ngửi thấy mùi nước hoa là chàng lại chợt nghĩ đến đàn bà, nghĩ đến một cách thản nhiên, không ham muốn.

Lần này mùi nước xức tóc đưa trí nhớ Hạnh tới một kỷ niệm gần hơn, âu yếm hơn: cái nàng đầu nhẹ nhàng trưa hôm trước của bàn tay mát trong làn không khí thơm tho.

- Mời ông xơi sáng.

Hạnh lặng lẽ quay ra, đi theo người đầy tớ gái.

- Ở đâu, chị?

- Thưa ông ở phòng ăn.

Nguời kia đưa Hạnh qua phòng khách. Hạnh ngước nhìn hai bức ảnh phóng đại treo trên lò sưởi và nghĩ thầm: “Chắc song thân ông chủ”. Một ý nghĩ khác theo liền ngay: “Chừng ông ta hồi còn nhỏ được cha mẹ quý mến lắm”. Và chàng thoáng tưởng tới cha mẹ già đã về hưu hiện ở nhà quê, một làng tầm thường miền trung châu với những nếp nhà lợp rạ san sát nhau như bát úp, và những ruộng lúa sàn sàn, bằng phẳng chạy thẳng tấp đến những lũy tre xa. Trước kia, mỗi năm Hạnh về làng thăm cha mẹ bốn lần vào các dịp nghỉ hè, tết nguyên đán và hai ngày giỗ chính: chàng về thăm lấy lệ để khỏi mang tiếng là đứa con bất hiếu. Nhưng hai năm nay Hạnh chỉ ở nhà vừa đúng ba ngày tết. Chàng nói với cha mẹ rằng nghỉ hè chàng bận dạy tư, không về được. Cha mẹ chàng cũng không bắt bẻ, hơn thế, chẳng thèm lưu ý đến sự có mặt của chàng ở nhà. Hạnh không lấy thế làm tủi nhục, và làm cho cha mẹ anh em đã trót lãnh đạm với mình ngay từ thời mình còn nhỏ thì nay cũng khó lòng mà ân cần, tử tế với mình được. Ở đời mọi việc, mọi sự đều do thói quen cả...

- Mời ông xơi sáng.

Hạnh luống cuống:

- Vâng ạ. Cảm ơn bà.

Bà chủ niềm nở kéo ghế nói:

- Ông ngồi đây.

Hạnh yên lặng ngồi xuống, hai cánh tay tì lên khăn bàn trắng, hai bàn tay chắp lại, rít chặt. Những lúc ngượng ngập, Hạnh khổ sở nhất vì hai bàn tay, chẳng biết để vào đâu, và dùng làm việc gì.

Bốn chiếc bánh mì đặt trong bốn cái dĩa. Hạnh lo lắng tự nhủ: “Ăn cơm tây à?”

Bà chủ rót nước chè ra ba chén và nói:

- Ông tha lỗi cho nhà tôi. Nhà tôi chưa dậy vì hôm qua thức quá khuya.

Hạnh hấp tấp toan đáp: “Thưa bà tôi biết thế”. Nhưng chàng giữ ngay lại được, và mừng thầm rằng đã may mắn tránh khỏi được điều lầm lỡ.

- Mời ông nếm thử chè nhà.

Tiếng “nhà” Hạnh nghe thân mật quá. Và tự nhiên chàng sung sướng.

- Thưa ông năm nay tôi bắt đầu làm “thé noir”, chắc chưa được khéo... chắc còn vụng.

Hạnh vội đáp:

- Thưa bà khéo đấy chứ...

Bà chủ mỉm cười, cái mỉm cười tiếp khách, nhưng Hạnh cho là một cái mỉm cười chế nhạo. Vì chàng nhận thấy rằng câu khen của mình hớ quá, vô lý quá: đã uống đâu mà biết khéo hay vụng. Chàng liền nói chữa:

- Thưa bà hương chè bốc lên thơm ngát.

- Vâng, thưa ông hương “thé noir” tôi vẫn yêu thương “thé vert”.

Hạnh lặng lẽ nâng chén nước, để khỏi phải trả lời, vì chàng chẳng biết “thé noir” là chè gì.

- Ấy, thưa ông chưa có đường.

Lan vừa nói vừa đứng dậy cầm thìa xúc miếng đường bỏ vào chén nước mà Hạnh giơ ra.

- Thưa ông phải dùng hai miếng mới đủ ngọt.

- Thưa cô... cảm ơn cô.

Hạnh định nói: “Tôi quen uống không đường”. Nhưng chợt nhớ đến thứ “chè đen” lạ lùng mà mình chưa dùng qua, chàng lại ngồi im. “Chừng chè ô long... Thì sao không gọi là chè ô long lại gọi kiểu cách là thé noir!”

Ngẫu nhiên, Lan như giảng nghĩa cho Hạnh hiểu. Nàng nhắp môi và bảo chị dâu:

- Chè của chị chẳng kém gì chè Ceylan.

Bà chủ cười:

- Hơn ấy chứ chị! Có phải không ông giáo?

Hạnh uống một hớp, rồi làm bộ thành thạo ngẫm nghĩ.

- Vàng, hơn nhiều!

- Hơn một tí thôi. Nhưng mời ông xơi chẳng nguội... Bánh tây hôm qua nướng lại, ông xơi tạm. Hôm nay xe hàng họ chưa đưa bánh đến. Phải chờ chín giờ mới có chuyến xe Tuyên qua đây.

Lan đáp:

- Thưa chị pain noir [2] ăn càng lành.

Hạnh vừa bẻ bánh vừa nghĩ thầm: “Hết thé noir đến pain noir! Còn gì noir [3] nữa?”

- Mời ông xơi jambon [4]. Jambon nhà làm đấy ạ, ông thử dùng xem có khác lợn thường không?

- Vậy, thưa bà, đây là lợn tây?

- Lợn rừng ạ.

Mặt Hạnh nóng ran. Chàng lấm lét nhìn Lan, xem nàng có mỉm cười không. Không thấy nét mặt thiếu nữ đổi khác, chàng tự an ủi: “Người ta cũng có thể làm jambon bằng đùi lợn tây được lắm chứ”.

- Sao chị không lấy ruốc ra ăn?

Câu hỏi của Lan, Hạnh cho nó ẩn nghĩa chê mình quê mùa.

- Cô thích ăn ruốc!

- Thưa chị em thích lắm. Lọ ruốc chị gửi vào trường cho em, em phải giấu kỹ để ăn dè, nếu không lũ quỷ nó cướp hết.

Bà chủ quay sang nói với ông khách:

- Thưa ông, cô Lan em nhà tôi hiện học năm thứ tư trường Đồng Khánh.

Hạnh ngả đầu chào. Lan cũng nghiêng đầu chào lại. Hạnh nghĩ thầm: “Thảo nào mà họ thành thạo. Một người làm cô đỡ, một người học năm thứ tư”.

- Thưa cô, nghỉ lễ Noel, cô về thăm ông chủ, bà chủ?

- Vâng.

Những kỷ niệm thời còn theo học trường Bảo hộ chỉ lờ mờ hiện ra trong trí nhớ Hạnh. Vào dịp Noel, không lần nào Hạnh về thăm nhà hay đi chơi đâu xa, nên lễ ấy cũng không để một vết sâu trong ký ức chàng như đối với học trò khác.

- Thưa ông, ông có thích đi bắn không?

Hạnh lạnh lùng đáp:

- Thưa bà không ạ.

- Nhà tôi thì mê săn bắn lắm. Mọi lễ Noel anh em lên chơi đi bắn rất đông. Năm nay chẳng thấy một mống nào. Tưởng ông thích thì mời ông ở lai đi bắn với nhà tôi. Nhà tôi có hai cây súng, một cây calibrc [5] 12, một cây calibre 16.

Lan nhìn đầu Hạnh đáp:

- Nhưng ông giáo còn đau, đi bắn đâu được!

- Ờ! Tôi quên nhỉ! Ông còn đau không ạ?

Hạnh vui vẻ trả lời:

- Thưa bà, tôi khỏi hẳn rồi a.

Và chàng tiếp luôn một câu đẹp đẽ mà chàng nghĩ ra từ nãy:

- Thưa bà, nếu bà không nhắc thì có lẽ tôi quên rằng tôi bị thương.

- Thế à? Nhưng mời ông xơi đi chứ.

Bà chủ rót thêm nước chè vào chén ông khách:

- Thưa ông, nhà hết bơ tươi, ông dùng tạm bơ mặn.

- Thưa bà được ạ, tôi ăn quen bơ mặn.

Sự thực Hạnh chẳng dùng bơ bao giờ.

- Nhưng ruốc chị vẫn chưa lấy cho em.

- Ồ! Xin lỗi cô, chị quên.

Bà chủ đứng dậy mở tủ lấy một cái phẫu thủy tinh đặt vào giữa bàn:

- Đây, ruốc của cô. Thưa ông, ông có xơi được ruốc không ạ?

Hạnh cúi nhìn mẩu bánh mi nhỏ xíu còn lại:

- Xin thôi ạ.

Nhưng bà chủ đã nhìn theo và nhận thấy ông khách hết bánh. Bà liền nhắc chiếc bánh phần chồng đặt vào đĩa của Hạnh. Hạnh lặng thinh, quay ra phía cửa sổ, vì chàng còn đói lắm không muốn từ chối chiếc bánh thứ hai.

Bà chủ trở lại câu chuyện săn bắn:

- Giờ này mà đi bắn thì tuyệt!

- Thưa bà, bà cũng thích đi bắn?

- Vâng, bắn những chim gáy, chim dẽ xì xằng thôi.

Bất giác, Hạnh ngắm nghía cái thân hình nhỏ nhắn của người đàn bà xinh đẹp: “Phải thú nhận rằng làm thằng đàn ông như mình mà chưa được bắn một phát nào, điều đó thực là một điều nhục nhã!” Một lần Hạnh đi dạo chơi với một người bạn ở vùng quê. Bạn không hẳn đi bắn, nhưng cũng đeo súng đạn để nếu ngẫu nhiên gặp chim thì bắn chơi, tiêu khiển. Bỗng thấy một con gáy đậu trên cành xoan thưa lá, người bạn lắp đạn rồi đưa súng mời Hạnh bắn một phát. Hạnh thấy lạnh cả người, nói thoái thác rằng đau tim, thầy thuốc cấm, không được bắn. Cái lý đau tim, kiêng bắn, Hạnh không nhớ đã nghe ai nói hay đã đọc được ở sách nào hay là đã bịa đặt ra. Hôm nay chợt nghĩ tới, chàng lại đem ra nói với bà chủ:

- Thưa bà, tôi không dám bắn... nữa, vì tôi đau tim.

Bà chủ kêu:

- Tội nghiệp! Ông đau tim?

- Vâng... đau nhẹ thôi. Khi nổ cò súng, tim hồi hộp khó chịu lắm.

- Vâng, có thế.

Cái bánh thứ hai đã hết. Hạnh đứng dậy:

- Xin cảm ơn bà... Bây giờ thì xin phép bà tôi đi.

- Giá ông ở lại chơi đến chiều... Còn nghỉ lễ Noel thì tưởng ông cùng chả vội gì.

Hạnh ngần ngừ toan nhận lời ở lại. Nhưng chợt nhớ hôm trước đã trót nói có việc cần ở tỉnh, chàng liền đáp:

- Xin bà cho khi khác.

- Vậy xin ông hãy ngồi chơi bên phòng khách để tôi làm pansement lại cho được cẩn thận.

- Thưa bà, phải làm lại?

- Vâng như thế thì chắc chắn hơn.

Bà chủ lên gác, chừng để lấy vải băng và các thức cần dùng, Hạnh thong thả sang phòng khách.

Sau khi băng bó lại, Hạnh thấy không thể còn nấn ná được nữa, đứng dậy xin đi. Bà chủ và Lan đưa chàng qua vườn cam để ra cổng, Hạnh đứng lại khen:

- Ông bà có vườn cam đẹp quá.

Rồi nói xin vài quả. Nhưng bà chủ đáp cam còn xanh chưa ăn được. Bà mỉm cười tiếp luôn:

- Tôi cũng muốn biếu ông mươi quả về làm kỷ niệm... chuyến ngã xe, nhưng sợ ông nếm thấy chua lại tưởng cam đồn điền tôi không ra gì.

Hạnh cho chữ “kỷ niệm” âu yếm quá. Nhưng ý nghĩ ấy vụt làm cho chàng bẽn lẽn. Chàng yên lặng nhìn theo những luống cam trong thẳng hàng quanh vườn đồi thoai thoải gốc phủ rạ gọn gàng, cành nặng trĩu những quả tròn và béo, da xù xì màu vàng rám, Hạnh muốn lại xem nhưng không dám ngỏ lời. Hình như ra ngoài trời nắng, sự thẹn thùng của Hạnh càng tăng, và sức thôi miên của hai cặp mắt sáng, và hai cái mỉm cười yên lặng càng mạnh hơn khi ở trong ánh sáng dịu nơi phòng ăn.

Hạnh đương lúng túng cuống quýt thì Bản vừa thức dậy chạy đến ôm chầm lấy mẹ và nũng nịu kêu:

- Mẹ đi đâu đấy?

Người đàn bà cúi xuống bế con lên hôn:

- Không, mẹ có đi đâu, mẹ vẫn ở nhà với con đấy chứ.

- Thế sao me lại đánh phấn, me lại mặc áo đẹp? Cả cô nữa?

Bất giác Hạnh liếc nhìn bà chủ đồn điền và Lan. Hai người cùng trang điểm khác hôm trước: dung nhan không để mộc mạc, y phục không để xuềnh xoàng. Cái ao dạ màu nâu hồng của bà chủ đồn điền, Hạnh cho rất nhã nhặn. Đứng cạnh bà, Lan mặc chiếc áo kiểu mới màu đỏ thắm. Mà lạ thực, Hạnh không thấy nhan sắc Lan tầm thường như hôm qua nữa. Nàng đã trở nên một thiếu nữ xinh đẹp, một thứ xinh đẹp khỏe khoắn, tươi tốt như những quả cam đầy nước ngọt rung rinh đầu cành mềm, trong nắng buổi sớm mai. Và Hạnh ví ngay nàng với một cô dâu mới.

Câu hỏi của Bản làm mẹ và cô gượng gùng.

Thấy sự yên lặng kéo dài và khó chịu, Hạnh hỏi lảng:

- Thưa bà, cậu em bao giờ bà cho ra tỉnh học?

- Ấy, chúng tôi cũng định gửi cháu đằng ông đốc, nhưng còn nấn ná chưa muốn để cháu đi xa, sợ nhớ.

Hạnh giọng mô phạm:

- Thưa bà, cho con ở xa cha mẹ là phải. Cha mẹ không bao giờ dạy được con, vì một là nuông con, hai là nghiêm khắc với con quá. Chứ không như một thầy giáo, đã thạo pédagogie [6].

Bản ngước mắc nhìn miệng ông khách và hiểu lờ mờ rằng ông ta khuyên mẹ đưa mình ra tỉnh học. Trong lòng căm tức, nó ẩy Hạnh và nói:

- Cái ông này không đi đi, cứ ở mãi nhà người ta.

Bà chủ vội mắng con:

- Thằng Bản hỗn nhé. Chốc thầy dậy me mách cho đấy.

Lan phàn nàn:

- Chị cứ nuông nó nên nó hỗn: phải đánh mới được.

Hai câu nói khéo không đủ làm cho má Hạnh bớt đỏ. Chàng lẳng lặng tiến về phía cổng. Bỗng, có lẽ vì quá ngượng, chàng dừng lại trên lối đi lát gạch:

- Thưa bà, tôi nộp bà tiền thuốc.

Bà chủ ngơ ngác:

- Thưa ông có tiền thuốc nào đâu!

Nghe giọng trả lời mát mẻ. Hạnh biết mình hớ, liền nói chữa:

- Thưa bà, thế này thì khi không phải, xin bà làm ơn nộp ông đốc giúp món tiền thuốc.

Buông miệng, Hạnh nhận thấy câu nói chữa càng hớ hơn, vì chàng vụt nghĩ: “Tiền thuốc thì sao mình không đem lên tỉnh mà trả?” Nhưng bà chủ đồn điền niềm nở đáp.

- Ông không phải trả gì hết. Ông đốc với nhà tôi là chỗ bạn thân. Vả có mấy tí.

Hạnh thong thả tiến ra cổng.

- Thưa ông, xin ông tha lỗi cho nhà tôi. Nhà tôi hôm qua thức khuya quá, nên ngủ mệt chưa dậy được để tiễn ông.

- Thưa bà, bà cứ để ông nghỉ ạ.

Hạnh nghĩ thầm: “Càng hay!”

Vì sự thực Hạnh không ưa gì cái ông chủ ít điều ấy, cũng như chàng không ưa ông thầy thuốc ngạo nghễ với với cái rọc thuốc lá dài lêu nghêu của ông ta.

Tới cổng, Hạnh yên lặng nhìn hai người đàn bà, chẳng biết nói gì. May có Bản gợi chuyện, hỏi mẹ:

- Ông ấy đi đâu đấy, mẹ?

- Ông giáo ra tỉnh. Con chắp tay chào ông giáo đi.

Cái ý đuổi khách lại lởn vởn trong trí óc Hạnh. Chàng cầm lấy xe đạp mà người ta đã đem ra để dựa ở cạnh cổng, rồi dắt xe ra đường đứng quay lại cất mũ chào. Hai người đàn bà chắp tay vào ngực nghiêng đầu đáp lễ. Cử chỉ ấy đủ làm cho Hạnh luống cuống, ngượng nghịu. Chàng cũng vội hai tay ôm mũ ép vào ngực, ngả đầu chào lại, để cái xe đạp đổ xuống đường.

Đầu nóng bừng, tay run lẩy bẩy, chàng lóp ngóp cúi xuống nhấc xe, rồi vừa đặt chân lên bàn đạp vừa chào vội vàng:

- Lạy bà ạ, lạy cô ạ.

Hạnh đạp mạnh. Sau lưng, tiếng bà chủ đồn điền:

- Khi nào thong thả mời ông đến chơi.

Hạnh quay đầu lại đáp:

- Xin vâng... Xin cảm ơn bà...

Đến cái quán cuối dốc đồn điền. Hạnh xuống xe. Người đàn bà bán hàng mời:

- Rước thầy vào nghỉ chân xơi nước.

Hạnh dựng xe đạp vào phên liếp rồi ngồi xuống ghế dài, hỏi:

- Hàng bà hôm nay vắng nhỉ?

Bà hàng niềm nở đáp:

- Thưa thầy vâng, vắng lắm. Về trưa, về chiều còn khá đông khách, chứ buổi sáng thì vắng quá.

- Vậy sao bà không để đến trưa hãy dọn hàng?

Bà hàng mỉm cười nhìn khách:

- Thưa thầy ở nhà cũng chả có việc gì. Ra dọn hàng kiếm được xu nào hay xu ấy.

Chợt nhận thấy cái đầu băng bó của Hạnh, bà ta hỏi tiếp:

- À! Thầy ngã xe đạp sáng hôm qua ở đây, phải không?

- Phải.

- Thưa thầy có việc gì không?

- Chả việc gì. Chỉ vỡ đầu thôi.

Bà hàng nhớn nhác, mắt tròn xoe nhìn Hạnh:

- Vỡ đầu lại còn chả việc gì!

- Nhưng lành rồi bà ạ.

- Phúc đức quá!

Hạnh quay nhìn về phía lũy tre đồn điền:

- May nhờ có ông Lâm bà Làm mời đốc tờ chữa giúp nên khỏi ngay.

Bà hàng vẻ mặt cảm động:

- Quý hóa quá! Ông chủ, bà chủ đồn điền tốt lắm. Hay làm phúc đức lắm.

Hạnh hơi khó chịu, nghĩ thầm: “Làm phúc! Họ làm phúc? Mình là kẻ nghèo khó được người ta làm phúc!”

Và chàng tự trách, tự ghét mình ban nãy đã nhu nhược, không cố ép bà Làm nhận tiền trả thầy thuốc hộ. Một lần nữa chàng nhận thấy rằng mình vô lý, như chàng đã nhận thấy thế ngay lúc xin đưa tiền cho bà Lâm: “Ừ, sao mình không thân mang số tiền thuốc lên tỉnh nộp ông đốc?”

- Thưa thầy, thầy xơi nước?

- Phải, bà bán cho tôi một bát nước vối.

Hạnh uống vội vàng vài hớp nước nóng, rồi ném trả một xu lên cái mâm bồng gỗ mộc.

- Thưa thầy không dùng gì nữa?

- Không.

Hạnh lặng lẽ đứng dậy ra đường. Bà hàng gọi với:

- Còn thừa của thầy một trinh.

- Thôi, đãi bà.

- Cám ơn thầy.

Hạnh dắt xe đạp lên dốc, lòng buồn rời rợi. Cái cảnh từ biệt bà chủ đồn điền và Lan còn như vẽ ra trước mắt chàng.

Hạnh buồn không phải vì có tình quyến luyến nhưng vì nhận thấy sự vụng về, ngớ ngẩn của minh trước sự ngạc nhiên dễ dàng của hai người đàn bà. Chàng lấy làm lạ rằng sao đàn bà mà lại bạo dạn được đến thế.

Có tiếng chào:

- Lạy thầy ạ.

Hạnh quay nhìn: đó là một người học trò lớn tuổi theo lớp nhất, lớp Hạnh dạy:

- À anh Đăng. Anh biết tin tôi ngã?

Người học trò ngơ ngác không hiểu:

- Thưa thầy con ra tỉnh chơi với người anh em bạn.

- Thế à? Vậy anh đi nhé!

- Lạy thầy ạ.

Trí Hạnh trở lại với cái đời buồn tẻ cái đời ông thầy giữa một bọn học trò không thân, không yêu. Vài hôm nữa, lại đến trường, lại dạy học, lại chấm bài, lại quát mắng, lại nói, nói trong hàng giờ.

Tự nhiên sau những ý nghĩ chán nản ấy, cái phòng ấm cúng, thơm tho, yên lặng hiện ra trong ký ức Hạnh. Hiện ra cùng với hai người đàn bà dịu dàng, âu yếm như người mẹ, thân mật như người chị, ngoan ngoãn như người em, nhất là đẹp mơ màng như người tình trong mộng. Nhưng đó chỉ là những hình dung từ trong tiểu thuyết. Hạnh nhận thấy thế, và càng ngầm nghĩ, Hạnh càng tủi thân. Không bao giờ mẹ chàng đã âu yếm với chàng, chị chàng đã thân mật với chàng, em chàng đã ngoan ngoãn với chàng chưa có, và ngờ rằng có lẽ không bao giờ sẽ có.

Ý nghĩ chàng lại xoắn lấy hai người đàn bà. Và chàng cố nhớ xem những cử chỉ và ngôn ngữ của hai người ấy có giấu chút cảm tình gì đối với mình không.

Hạnh nhận thấy có nhiều cảm tình. Và chàng sung sướng tự yêu mình: không bao giờ chàng đã yêu chàng như thế.

Hôm Hạnh đến trường dạy học thì cái vải băng quấn trên đầu đã tháo ra rồi.

Hạnh không thấy đau, ngay từ buổi trở về huyện. Nhưng chàng có ý muốn ngấm ngầm giữ mãi cái vải băng dấu hiệu của bệnh chàng, của tai nạn vừa xảy ra và đưa chàng đến cách cái chết không bao xa. Bỏ nó ra là hết. Là sự lành mạnh là cái đời thường đã sống. Một cớ nữa mà có lẽ đó là cớ chính: Hạnh có chiều lưu luyến với kỷ niệm của đồn điền “Kỷ niệm êm đềm, ấm áp”. Hạnh không khỏi có tư tưởng âu yếm ấy mỗi khi rờ tay lên đầu.

Nhưng hôm trước Hạnh đến nơi cho thuốc để người khán hộ quấn lại băng, theo như lời dặn của ông thầy thuốc. Người ấy bảo chàng sau khi ngắm nghía vết thương:

- Còn quấn làm gì nữa cho nặng đầu. Khỏi rồi!

Bất giác Hạnh nhắc lại hỏi:

- Khỏi rồi?

Người khán hộ cho đó là một câu reo mừng. Sự thực, đó chỉ là một lời kinh ngạc nhiễm vẻ thất vọng. “Khỏi rồi! Chóng thế ư! Một cái tai nạn, một sự nguy hiểm, trong có vài ba hôm đã mất hết dấu vết?” Hạnh mỉm cười nghĩ tiếp: “Th?