- 2 -
Lộc Uyển - Sarnath đã trở thành một thánh địa nổi tiếng và được tôn kính vì đấy là nơi Đức Phật và năm vị đệ tử đầu tiên thảo luận về Bốn Chân Lý Cao Quý. Giáo huấn này từ đấy đã được giảng dạy khắp Á châu, và ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến những vị vua, chính trị gia, và học giả trong những vùng đất tận Trung Hoa, Nhật Bản và Miến Điện. Bốn Chân Lý Cao Quý xác đáng một cách quá huyền ảo và phổ quát nên bây giờ đang bắt đầu đi vào tâm thức và con tim của những người tầm cầu tâm linh và học giả phương Tây. Như một kết quả, đôi mắt của hàng triệu người đã được mở ra với sự thật của những ngôn từ của Đức Phật, tâm tư họ đã thay đổi và cuộc sống của họ đã hoàn toàn chuyển hóa.
Trong khi 'thánh địa' là một khái niệm tương đối, Đức Phật đã nói, trong một tuyên bố về sự thật tuyệt đối có thể thấy trong: Vua của Những Lời Cầu Nguyện Ngưỡng Mộ (Nguyện Vương): 'Nguyện Vọng Đến Những Hành Vi Thánh Thiện' của Phổ Hiền (Phổ Hiền Hạnh Nguyện)
Qua năng lực của lời cầu nguyện này, ngưỡng vọng đến Hành vi Thánh thiện, Tất cả những Đấng Chiến Thắng xuất hiện sinh động nơi đây trước tâm tôi Và tôi phân thân nhiều như những nguyên tử trong vũ trụ Mỗi thân lễ lạy phủ phục trước tất cả chư Phật, Trong mỗi nguyên tử hiện đủ tất cả chư Phật có trong tất cả nguyên tử, Và chung quanh các Ngài, tất cả những bồ tát kế thừa Và tôi cũng quán tưởng các Ngài tràn đầy khắp Một cách hoàn toàn trong không gian của thực tại. (Phổ Hiền hạnh nguyện oai thần lực Phổ hiện nhất thiết Như Lai tiền Nhất thân phục hiện sát trần thân Nhất nhất biến lễ sát trần Phật. Ư nhất trần trung trần số Phật Các xử bồ tát chúng hội trung Vô tận pháp giới trần diệc nhiên Thâm tín nhất thiết giai sung mãn)Theo lời cầu nguyện này, có rất nhiều vị Phật trong mỗi nguyên tử của hiện tượng tồn tại như số những nguyên tử trong vũ trụ, điều này có nghĩa là chúng ta không thể loại bỏ khả năng có một vị Phật hiện đang ở trong trung tâm Sanlitun ở Bắc Kinh hay Bois ở Paris. Một cách thật sự, không chỉ là một khả năng, mà đấy là một trăm phần trăm. Tuy thế, tâm thức của đại đa số con người là quá cứng nhắc, thì tuyệt đối không thể bất cứ người nào đến viếng thăm một nơi như vậy mà có thể nhận thức những vị Phật trong số họ.
Một cách tổng quát, nhận thức thông thường về một nơi 'thiêng liêng' hay thánh địa có khuynh hướng phong nhiêu và hoàn toàn tĩnh. Chúng ta không dùng sự uyển chuyển và vô tư của tâm thức đi với một Quan Điểm chân thật bao la, thay vì thế chúng ta bị kẹt với tất cả những tiêu chuẩn và mong đợi của xã hội mà chúng ta trưởng thành với chúng. Đối với hầu hết chúng ta, một nơi thiêng liêng phải là yên tĩnh và sạch sẽ và trật tự, không nóng bức, bụi bậm, ồn ào, bị quấy rầy bởi những con ruồi, hôi thối và phiền toái đến thiên đàng. Tuy nhiên, những địa điểm như Đạo Tràng Giác Ngộ và Lộc Uyển,Varanasi, là những nơi hoàn toàn hổn độn, tiếp tục được tôn kính như là thiêng liêng một cách xác thật. Chúng ta không nên bao giờ quên rằng hai nghìn năm trăm năm trước đây (khi biên giới giữa Nepal và Ấn Độ ít nhiều không chính xác như bây giờ), Đức Phật Thích Ca đã chọn sinh ra trong một Ấn Độ cổ xưa và rằng chín trăm chín mươi chín Đức Phật của 'Hiện Tại Hiền Kiếp' sẽ giáng sinh ở đấy trong tương lai, đấy là lý do chính mà hầu hết mọi người xem như khu vực ấy là vô cùng thiêng liêng hơn một vùng sạch sẽ ở Thụy Sĩ, thí dụ thế.
Thánh địa Phật Giáo không chỉ là những nơi liên hệ đến cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, thí dụ, nơi Ngài sinh, giác ngộ, giảng dạy, và thể nhập niết bàn. Có nhiều nơi khác liên hệ đến những Đức Phật khác, các đệ tử, a la hán, và bồ tát trong thời kỳ của chúng ta. Trong thời đại vàng son của Đạo Phật, những đại đạo sư đã giảng dạy khắp Á châu, Tân Cương, A Phú Hản, Pakistan, Indonesia, Trung Hoa, Tây Tạng, và Nepal không đề cập đến Ấn Độ. Qua nhiều thế kỷ, mặc dù một số quốc gia này đã mất sự liên hệ với Phật Pháp, và mặc dù vẫn có thể thăm viếng những thánh tích ở đấy, chúng có thể được nhận ra một cách sơ sài và thường không ổn định và nguy hiểm vì chính trị.
Phật Giáo Mật Tông cống hiến cho chúng ta những sự diễn tả đáng kinh ngạc về những thánh địa và đến tháp thiêng liêng trong khoảng 'năm mươi sáu' nơi khắp thế giới, cũng như những thánh tích ẩn tàng phong phú, như Vương Quốc Shambhala, mà nó không bị giới hạn đến một vị trí địa lý đơn độc nào cả. Những vùng đất bí ẩn này được khám phá bởi những đại sư mật tông trong quá khứ và chúng sau đó đã trở thành những nơi chốn mà con người đã dâng hiến trọn cuộc đời của họ để thực tập. Về mặt lịch sử mà nói, không phải bất thường cho những học nhân Phật tử nhiệt tâm hy sinh nhà cửa, gia đình, nghề nghiệp và tất cả những sở hữu thế gian để họ có thể đi đến an trụ trong một vùng đất huyền bí ẩn mật. Một số đã trở nên rất nổi tiếng, như Tashi Ding ở Sikkim và Pemakö nằm ở vùng Tây Nam Tây Tạng, chỗ con sông Brahmaputra đổ vào Ấn Độ.
Những thánh địa cổ xưa ở Ấn Độ và khắp vùng Hy mã lạp sơn đã được gia hộ hết lần này đến lần khác bởi chư Phật và Bồ tát khắp các thời đại, và đã được hàng triệu người hành hương viếng thăm; đây là những gì làm cho chúng trở nên sống động mạnh mẽ và ảnh hưởng một cách sâu đậm. Những thánh địa này chưa từng được tổ chức hay bị kiểm soát bởi bất cứ người nào. Không ai đang dàn dựng, một thể nghiệm thánh địa' và không có sự khai thác nghiêm trọng, điều ấy có nghĩa là cho đến bây giờ chúng thoát khỏi bất cứ dấu vết nào của một đầu óc 'Disneyland'. Vẫn có thể ngồi bên bờ sông Hằng vào buổi chiều để nhìn những lễ hỏa táng, nghe mùi xương thịt con người bị thiêu đốt, và mê hồn bởi sự tán tụng kinh Vệ Đà liên tục, giống như không có gì thay đổi trong 3,000 năm qua.
Nói một cách tổng quát, môi trường mà chúng ta sinh sống ảnh hưởng cung cách chúng ta suy tư và cung cách chúng ta nhìn vào những thứ chung quanh chúng ta. Thật đáng giá để nhớ rằng, trong hàng tỉ hành tinh mà Đức Phật Thích Ca có thể đã giáng sinh, Ngài đã chọn trái đất của chúng ta; và trong hàng trăm xứ sở đã làm nên thế giới chúng ta, Ngài đã chọn Ấn Độ cổ xưa; và trong tất cả mọi nơi, Ngài có thể đạt đến giác ngộ, ngài đã chọn tiểu bang Bihar của Ấn Độ. Thoáng nhìn qua, Bihar không hiện ra như tĩnh lặng hay thiêng liêng - trong thực tế hoàn toàn ngược lại. Nhưng một khi chúng ta đến Đạo Tràng Giác Ngộ, thí dụ thế, và đặc biệt khi chúng ta đi vào vòng bên trong, chúng ta có thể lập tức cảm thấy nơi ấy thật sự rất đặc biệt. Hay Đỉnh Linh Thứu, là một nơi rất bé nhỏ mà chúng ta có thể cất bước quanh nó trong vòng mười phút và khi nhìn qua con mắt của một nhà phát triển đất đai nó là một xã hội sa mạc, tuy thế đây là nơi mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng một số kinh điển quan trọng cho hàng trăm tu sĩ, a la hán, và bồ tát.
Chỉ trước khi nhập niết bàn, những đệ tử thân cận đã hỏi Ngài, "Như những Phật tử, chúng con nên nói gì với thế gian về Đức Thế Tôn?" Đức Phật sau đó đã giảng dạy cho họ những lời hướng dẫn vô cùng hữu ích, kể cả bốn phần thông tín đặc biệt vì lợi ích của những đệ tử của Ngài cũng như toàn thể chúng sinh.
"Các con nên nói với thế giới rằng một con người bình thường, Sĩ Đạt Ta, đã đến trái đất này, đạt đến giác ngộ, giảng dạy con đường để giác ngộ, và đã không trở thành bất diệt mà đã đi vào niết bàn."
Đặt nó vào trong một cung cách khác, Ngài đã dạy rằng:
* Mặc dù chúng sinh bị nhiễm ô và do thế một cách bình thường, tất cả chúng ta có Phật tính.
*Những nhiễm ô của chúng ta là tạm thời, không phải bản chất tự nhiên của chúng ta, và do thế có thể tiêu trừ - như một kết quả chúng ta có thể trở thành những vị Phật.
* Có một con đường chỉ cho chúng ta tiêu trừ ô nhiễm của chúng ta và đạt đến giác ngộ như thế nào; và
* Bằng việc đi theo con đường này, chúng ta sẽ đạt đến giải thoát khỏi mọi cực đoan.
Giáo huấn của Đức Phật đưa ra những phương pháp phong phú để giúp chúng ta nhớ bốn lời tuyên bố này, từ đơn giản như niệm Phật, trì chú cho đến những sự thực tập thiền quán khó khăn cực độ. Trong thực tế, nhớ đến những giáo huấn này và đưa chúng vào trong sự thực tập là cốt lõi của lộ trình Phật Giáo, và một trong nhiều phương pháp truyền thống đã giúp chúng ta làm điều này là việc thực tập hành hương.
Trích từ quyển What to Do at Buddhist Holy Sites
Ẩn Tâm Lộ ngày 14/12/2011