← Quay lại trang sách

PHẦN 2 19.

19.

Ngày nào tôi cũng tới bệnh viện. Mẹ chỉ nằm một chỗ và thở. Mẹ nằm ở phòng điều trị đặc biệt chẳng được bao lâu đã bị chuyển sang phòng bệnh dành cho sáu người. Mỗi ngày tôi đều đến ngồi bên mẹ, sưởi nắng rồi về.

Bác sĩ lạnh lùng nói rằng mẹ không còn hy vọng tỉnh lại. Sau này họ cũng chẳng làm được gì hơn ngoài kéo dài sự sống của mẹ. Các y tá ngày ngày đến thay vệ sinh cho mẹ với biểu cảm thờ ơ. Thỉnh thoảng họ cùng tôi hợp sức lật người mẹ lại để cơ thể mẹ nằm lâu không bị lở loét. Tựa như vật lộn với một chiếc vali to đùng. Bác sĩ bảo tôi sau khi quyết định xong hãy báo lại với họ. Tôi chẳng hiểu câu đó nghĩa là gì nên hỏi lại. Bác sĩ giảng giải lại rằng không biết tôi định tiếp tục trả viện phí ở đây hay chuyển sang một viện điều dưỡng tiết kiệm hơn ở vùng ngoại ô.

Số tiền bảo hiểm tử vong của bà cũng đủ giúp tôi tạm thời sống yên ổn. Giờ tôi mới biết mẹ đã chuẩn bị sẵn những thứ đó đề phòng trường hợp tôi có thể bị bỏ lại một mình bất cứ lúc nào.

Tôi đi khai tử cho bà. Nhân viên ở ủy ban nhân dân tặc lưỡi, lẳng lặng quay mặt đi. Cách đây không lâu có một nhà phúc lợi xã hội từ ủy ban nhân dân đến tìm tôi. Người đó nói rằng vì tôi là trẻ vị thành niên nên có thể được bàn giao tới cơ sở của họ và hỏi ý kiến của tôi thế nào. Đó là nơi giống như trại trẻ hay trung tâm bảo trợ trẻ em. Tôi xin thêm thời gian suy nghĩ. Nhưng xin thời gian suy nghĩ cũng không có nghĩa là tôi sẽ suy nghĩ trong khoảng thời gian đó. Tôi chỉ đơn giản là xin thêm thời gian thôi.

20.

Nhà rất hiu quạnh. Cả ngày chỉ nghe thấy tiếng thở của tôi. Những dòng chữ của bà ngoại và mẹ vẫn dán trên tường nhưng giờ chẳng ai dạy tôi nữa nên chúng chỉ còn là vật trang trí, chẳng có chút ý nghĩa gì. Tôi biết thừa nếu tới trung tâm bảo trợ thì đời mình sẽ thành ra thế nào. Tôi thì không có vấn đề gì nhưng còn mẹ thì sao.

Tôi tò mò không biết mẹ sẽ khuyên mình thế nào. Nhưng mẹ lại chẳng thể cất lời. Tôi đành tìm kiếm manh mối trong những câu mẹ vẫn thường nói. Tôi nhớ ra câu mẹ nói nhiều nhất. Hãy sống thật “bình thường”.

Tôi đành tìm kiếm các ứng dụng trong điện thoại. Ứng dụng “trò chuyện với điện thoại” lọt vào mắt tôi. Tôi vừa mở ứng dụng thì một cửa sổ nhỏ nhảy ra và xuất hiện một biểu tượng.

Xin chào.

Tôi vừa nhấn vào nút gửi thì đáng sợ thay câu trả lời đến ngay tức khắc.

Xin chào.

Tôi viết.

Bạn khỏe chứ?

Tôi cũng vậy.

Tốt.

Bình thường tức là sao?

Là giống với người khác.

Lặng im một hồi. Lần này tôi quyết định viết dài hơn.

Giống với người khác là thế nào?

Mỗi người đều khác nhau vậy lấy ai làm tiêu chuẩn?

Nếu là mẹ thì mẹ sẽ nói gì với mình nhỉ?

Xong cơm rồi. Ra ăn đi.

Không biết có phải bên kia chạm nhầm nút gửi không mà một câu trả lời cụt lủn xuất hiện. Tôi thử thêm vài lần nữa nhưng chỉ toàn nhận lại những câu trả lời vô nghĩa. Tôi bỏ cuộc tìm kiếm manh mối, liền tắt ứng dụng không thèm gõ lại một lời tạm biệt.

Vẫn còn một thời gian nữa mới phải đi học. Từ giờ tới lúc đó tôi phải làm quen với cuộc sống một mình.

Sau nửa tháng tôi mở lại hiệu sách. Tôi đi giữa những kệ sách, phủi bụi trên giá. Thi thoảng lại có khách đến. Cũng có những người đặt hàng qua trang web trên mạng. Có một bộ truyện cổ tích mà mẹ đã định mua từ trước khi sự việc xảy ra, tôi mua lại nó với giá khá tốt rồi xếp ở nơi dễ nhìn thấy nhất.

Kể ra một ngày chỉ phải nói vài câu cũng khá thoải mái. Chẳng cần suy nghĩ, không cần đau đầu đối đáp cho hợp với hoàn cảnh. Chỉ cần nói với khách hàng những câu như “Vâng”, “Không ạ”, “Đợi một chút” là được. Ngoài ra thì tôi quẹt thẻ, đếm tiền, và nói vài ba câu “Mời vào, Tạm biệt” như một cái máy.

Một hôm, có bà cô quản lý phòng đọc sách thiếu nhi gần đó ghé qua. Ngày trước thi thoảng bà ngoại tôi vẫn thường chuyện trò với bà cô này.

“Nghỉ hè nên cháu làm thêm đấy à? Bà đâu rồi?”

“Chết rồi ạ.”

Bà cô há hốc miệng. Hai hàng lông mày nhíu lại.

“Cô biết trẻ con ở tuổi cháu vẫn hay đùa cợt như vậy, nhưng dù sao cũng không nên nói câu đó. Bà cháu sẽ nghĩ sao chứ?”

“Cháu nói thật mà.”

Bà cô khoanh tay lại, cao giọng nói.

“Vậy cháu nói xem. Bà đã mất khi nào, mất như thế nào?”

“Bà cháu bị đâm dao, vào đêm Giáng sinh ạ.”

“Ôi trời…”

Bà cô lấy hai tay che miệng.

“Thì ra là cái vụ đã lên thời sự. Ông trời sao thật nhẫn tâm…”

Sau khi đưa tay làm dấu thánh, bà cô vội vã chạy ra ngoài. Như thể phải chạy thật nhanh trước khi bị lây bệnh gì đó từ tôi. Tôi gọi với theo.

“Đợi một chút, cô chưa thanh toán ạ.”

Mặt bà ta đỏ lựng.

Một lúc sau khi bà cô rời khỏi, tôi thử nghĩ xem nếu là mẹ thì mẹ sẽ muốn tôi nói gì trong hoàn cảnh vừa rồi. Nhìn thái độ của bà cô thì chắc chắn tôi đã phạm sai lầm gì đó. Thế nhưng tôi không hề biết mình sai ở chỗ nào và phải sửa thế nào để không mắc lại sai lầm ấy. Lẽ nào tôi nên nói bà ngoại đã đi du lịch nước ngoài? Không được. Nếu tôi làm vậy thì bà cô thích tọc mạch đó nhất định sẽ liên tục dò hỏi. Hay đáng lẽ tôi không nên nhận tiền sách. Nhưng việc đó cũng chẳng bình thường tẹo nào. Im lặng là vàng. Tôi quyết định tiếp tục lấy câu thành ngữ đó làm kim chỉ nam. Tôi sẽ không trả lời những câu hỏi không đâu nữa. Thế nhưng tiêu chuẩn của sự “không đâu” đó cũng thật dễ nhầm lẫn.

Đột nhiên tôi nhớ đến một cuốn sách. Cuốn sách mà bà tôi, người thường chỉ đọc cùng lắm là biển hiệu các tòa nhà, đã đọc và tấm tắc khen hay. Tôi rất vất vả mới tìm ra cuốn sách nhỏ bằng lòng bàn tay được bán với giá 2500 won vào năm 1986. Tuyển tập truyện ngắn Hyun Jin Gun. Trong đó có truyện “Quản lý [5] B và bức thư tình”.

Nửa đêm nửa hôm, quản lý B trộm thư tình của học sinh rồi tự giả giọng một nam một nữ độc diễn. Có ba nữ sinh lén xem được cảnh tượng đó và phản ứng theo những cách hoàn toàn khác nhau. Một nữ sinh cười nhạo và chế giễu quản lý B. Một nữ sinh lại rùng mình vì sợ quản lý B. Nữ sinh còn lại thì thấy quản lý B thật đáng thương và rơi nước mắt.

Tôi thấy kết thúc đó không tệ tuy nó đi ngược lại lời dạy của mẹ, rằng mọi thứ chỉ có một đáp án duy nhất. Có lẽ câu chuyện muốn truyền tải ý nghĩa cuộc đời này chẳng có đáp án nào được định sẵn. Vì thế ta không nhất thiết phải có một phản ứng nhất định với một lời nói hay hành động của người khác. Bởi mọi người đều khác nhau nên những “phản ứng khác thường” của tôi cũng có thể là đáp án đúng cho một ai đó.

Khi tôi nói vậy, mẹ hết sức bàng hoàng. Sau một hồi băn khoăn, mẹ cũng đưa ra câu trả lời. Vì câu chuyện kết thúc bằng cảnh nữ sinh thứ ba khóc nên phản ứng phù hợp với hành động của quản lý B là “rớt nước mắt” như nữ sinh thứ ba.

“Thế nhưng cũng có kiểu văn diễn dịch mà. Phản ứng của nữ sinh đầu tiên cũng có thể đúng chứ.”

Mẹ lắc đầu. Tôi không chịu thua, liền hỏi.

“Vậy mẹ cũng sẽ giống nữ sinh thứ ba, khóc nếu nhìn thấy quản lý B diễn kịch một mình sao?”

Bà ngoại bên cạnh chợt xen vào.

“Mẹ cháu một khi đã ngủ thì có ai bế đi giữa đêm cũng chẳng biết đâu. Thế nên mẹ cháu chắc chắn đóng vai phụ, là một trong số nữ sinh đang ngủ khò khò trong phòng rồi.”

Nói đoạn bà cười khà khà.

Đột nhiên một bóng đen phủ xuống cuốn sách. Một người đàn ông trung niên đang đứng trước mặt tôi. Sau đó bóng đen liền biến mất. Ông ta để lại một tờ giấy nhớ trên bàn thanh toán. Tờ giấy viết “Hãy đi lên tầng hai.”

21.

Hiệu sách nằm ở tầng một của tòa nhà hai tầng khá thấp. Tầng hai là tiệm bánh. Hiếm có tiệm bánh nào ở trên tầng hai như vậy. Không những thế trên tấm biển tồi tàn còn chẳng ghi nổi tên cửa tiệm cho đàng hoàng, chỉ viết mỗi hai chữ “Bánh mì”. Lần đầu nhìn thấy tấm biển, bà đã nói “trông chẳng ngon gì cả”. Tôi thực không hiểu bằng cách nào bà lại đoán được vị bánh khi chỉ nhìn tấm biển hiệu.

Tiệm bánh chỉ bán bánh mì bơ đậu phộng nhân kem, bánh sữa và bánh kem. Không hiểu sao tiệm bánh tự tin tới mức ngày nào cũng đóng cửa vào lúc bốn giờ chiều. Nhưng tiệm khá đông khách, mấy lần tôi đã thấy khách xếp hàng xuống tận tầng một. Cũng nhờ vậy mà thi thoảng những khách xếp cuối có chút thời gian ghé qua hiệu sách chúng tôi.

Đôi khi mẹ cũng mua bánh ở đó. Trên túi bánh có ghi “Tiệm bánh Shim Jae Young”. Shim Jae Young là tên chủ tiệm, mẹ luôn gọi ông ấy là tiến sĩ Shim. Sau khi được nếm thử, bà cũng không chê bánh ở đó thêm lần nào nữa. Tôi thì, ừ cũng được. Trước giờ với tôi đồ ăn món nào cũng như món nào. Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào bên trong tiệm bánh.

Tiến sĩ Shim cho tôi một cái bánh kem. Tôi vừa cắn một miếng, lớp kem đặc sệt vàng óng trào ra. Tiến sĩ Shim mới chỉ ngoài năm mươi nhưng tóc bạc trắng như tuyết nên trông như đã ngoại lục tuần.

“Có ngon không?”

“Cũng được ạ.”

“May quá, cháu không chê chán.”

Tiến sĩ Shim cười nhẹ.

“Bác làm một mình ở đây ạ?”

Tôi nhìn quanh rồi hỏi. Chẳng có ai trợ giúp cả. Trong gian tiệm trống hoác chỉ có một chiếc máy tính tiền, một giá bày bánh và một cái bàn. Có một vách ngăn ở giữa, có lẽ đằng sau là nơi nhào bột và nướng bánh.

“Ừ, ta vừa là chủ vừa là nhân viên duy nhất ở đây. Làm vậy tiện hơn. Cũng chẳng có vấn đề gì xảy ra cả.”

Một câu trả lời dài quá mức cần thiết.

“Thế bác gọi cháu đến có việc gì ạ?”

Tiến sĩ Shim rót sữa cho tôi.

“Ta rất tiếc khi biết chuyện xảy ra với cháu. Ta đã băn khoăn rất lâu, vì muốn giúp đỡ cháu chút gì đó nên mới gọi cháu lên đây.”

“Giúp thế nào ạ?”

“Xem nào. Lần đầu gặp mặt nên ta cũng không biết phải nói thế nào, cháu có cần thứ gì hay nhờ vả điều gì không?”

Từ nãy tiến sĩ Shim vẫn gõ ngón tay liên tục xuống bàn. Có vẻ đó là thói quen của ông nhưng tôi hơi khó chịu khi phải liên tục nghe âm thanh ấy.

“Cháu mong bác đừng phát ra tiếng đó nữa.”

Tiến sĩ nhìn tôi qua cặp mắt kính và nở nụ cười.

“Cháu đã nghe chuyện Đại đế Alexander và Diogenes bao giờ chưa? Tự nhiên bác nhớ tới câu chuyện đó. Khi Đại đế Alexander nói sẽ thực hiện mọi lời thỉnh cầu của Diogenes thì Diogenes đã yêu cầu Đại đế đứng tránh sang một bên vì ngài đang che mất ánh mặt trời của ông.”

“Nhưng nhìn bác cháu chẳng thấy có dáng dấp Alexander Đại đế gì cả.”

Lần này Tiến sĩ bật cười ha hả.

“Ta đã nghe mẹ cháu kể. Rằng cháu là đứa trẻ đặc biệt.”

Đặc biệt. Tôi đang đoán xem mẹ dùng từ đó với ý nghĩa gì. Tiến sĩ nắm tay lại.

“Bác có thể dừng việc gõ xuống bàn bây giờ nhưng nó đã thành thói quen rồi, thật chẳng dễ bỏ chút nào. Bác muốn giúp đỡ cháu về lâu về dài.”

“Về lâu về dài ấy ạ?”

“Sống một mình chắc gặp nhiều khó khăn, cháu có thể cần sự giúp đỡ về kinh tế.”

“Cháu vẫn còn tiền bảo hiểm, trước mắt thì không sao ạ.”

“Mẹ cháu vẫn thường nhờ bác giúp đỡ nếu có chuyện gì xảy ra với cháu. Bác với mẹ cháu từng khá thân thiết đó. Mẹ cháu là người luôn khiến người khác vui vẻ.”

Tôi để ý ông luôn dùng thời quá khứ.

“Bác tới bệnh viện thăm mẹ cháu rồi ạ?”

Tiến sĩ Shim gật đầu. Khóe miệng ông hơi trễ xuống. Thêm người cùng buồn chuyện của mẹ có lẽ sẽ khiến mẹ vui hơn một chút. Mẹ đã từng dạy tôi như vậy. Khi có người cùng san sẻ nỗi buồn thì đó chính là một chuyện vui. Âm với âm sẽ tạo thành dương mà.

“Thế nhưng sao mọi người lại gọi bác là tiến sĩ ạ?”

“Vì bác từng là bác sĩ. Tuy giờ không phải nữa.”

“Bác đã chuyển sang nghề thú vị hơn rồi.”

Tiến sĩ lại bật cười lần nữa. Dần dần tôi nhận ra, ông luôn cười bởi những câu nói mà tôi chẳng hề có ý định chọc cười.

“Cháu có thích sách không?”

“Có ạ. Trước đây cháu cũng từng giúp mẹ công việc ở hiệu sách.”

“Vậy thì thế này đi. Cháu cứ tiếp tục mở hiệu sách nhé. Bác là chủ tòa nhà này. Hãy coi đó như một công việc làm thêm, bác sẽ trả lương cho cháu. Tiền bảo hiểm sẽ dùng khi cháu học đại học hoặc khi có việc quan trọng, trước mắt hãy dùng tiền lương để chi trả sinh hoạt phí. Chỉ cần cháu đồng ý, bác sẽ xử lý trước những chuyện phức tạp.”

Cũng giống khi trả lời nhà phúc lợi xã hội, tôi lại bảo sẽ suy nghĩ. Bởi tôi được dạy phải xin thêm thời gian khi nhận được đề nghị bất thường từ ai đó.

“Bất cứ lúc nào gặp chuyện khó khăn cháu cứ nói với bác. Bác khá bất ngờ vì nói chuyện với cháu thú vị hơn bác nghĩ. Và một khi đã làm thì hãy cố gắng bán được nhiều sách nhất có thể nhé.”

Trước khi về tôi hỏi lại tiến sĩ Shim.

“Bác có từng hẹn hò với mẹ cháu không?”

Tiến sĩ Shim mở to mắt rồi lại nheo lại.

“Cháu nghĩ vậy sao? Chúng ta từng là bạn. Bạn khá thân.”

Nụ cười thường trực trên khuôn mặt ông dần biến mất.

22.

Tôi chấp nhận lời đề nghị của tiến sĩ Shim, một lời đề nghị có lẽ cũng chẳng nguy hiểm gì với tôi, về nhiều mặt. Cuộc sống của tôi cứ thế tiếp diễn, không còn biến cố nào xảy ra nữa. Để giữ lời hứa tăng doanh thu với tiến sĩ Shim, ngày nào tôi cũng dành thời gian tìm hiểu những đầu sách mới đang được yêu thích và cả những tài liệu ôn thi công chức, cố gắng tăng lượng sách. Cũng có những ngày mùa đông lạnh lẽo không một khách ghé hiệu sách, vào những hôm đó tôi chẳng mở miệng lấy một lần. Tới mức khi mở miệng uống nước, hơi nóng trong miệng xộc lên tận mũi.

Trong khung ảnh dựng ở góc bàn, ba người chúng tôi vẫn chẳng thay đổi tẹo nào. Bà ngoại và mẹ cười rạng rỡ, còn tôi không cảm xúc. Đôi khi tôi thường tưởng tượng rằng mẹ và bà chỉ đang đi du lịch thôi. Và đương nhiên tôi biết đó là chuyến du lịch không có ngày trở về. Bà và mẹ từng là cả thế giới đối với tôi. Thế nhưng sự vắng mặt của hai người cũng đã cho tôi biết, thế giới này vẫn còn tồn tại những người khác. Từng người, từng người dần dần xuất hiện trong cuộc đời tôi. Đầu tiên là tiến sĩ Shim. Thi thoảng tiến sĩ Shim có ghé qua hiệu sách cho tôi bánh mì hay nắm vai động viên tôi hãy mạnh mẽ lên. Mà tôi có khi nào yếu đuối đâu.

Tôi thường tới thăm mẹ lúc trời chạng vạng. Mẹ chỉ lặng yên nằm đó như công chúa ngủ trong rừng. Nếu nhận thức được tình cảnh của mình liệu mẹ sẽ trông đợi gì ở tôi nhỉ? Liệu mẹ có mong tôi ngồi túc trực bên giường, cứ vài tiếng lại lật người mẹ một lần? Không đâu. Mẹ sẽ muốn tôi đi học. Bởi lẽ, đó là việc “bình thường” mà ở tuổi tôi ai cũng làm. Vì thế tôi quyết tâm đi học.

Những đợt gió lạnh đã dịu dần. Tết đang đến gần, ngày Lễ Tình yêu cũng đã qua và mọi người đều mặc áo khoác mỏng hơn. Tôi cũng đã tốt nghiệp cấp hai. Trên đài phát thanh hay ti vi người ta thi nhau than vãn không hiểu sao tháng Một, tháng Hai lại trôi qua nhanh đến vậy.

Thế là tháng Ba đã tới. Học sinh mẫu giáo sẽ lên lớp Một, và học sinh tiểu học sẽ lên cấp hai. Tôi cũng vậy, tôi cũng tới một ngôi trường mới để trở thành học sinh cấp ba. Lại phải gặp giáo viên và bạn bè hằng ngày.

Thế nhưng mọi chuyện bắt đầu thay đổi.

23.

Ngôi trường tôi mới theo học được xây dựng cách đây hai mươi năm và là trường chung dành cho cả nam lẫn nữ. Tuy không thuộc top những trường có tỉ lệ đỗ Đại học cao nhưng cũng không phải trường nhiều tai tiếng hay có học sinh hư hỏng.

Tiến sĩ Shim nói sẽ cùng tôi tới dự lễ khai giảng nhưng tôi từ chối. Tôi đứng một mình từ xa, ngắm nhìn khung cảnh lễ khai giảng bình thường như bao lễ khai giảng khác. Ngôi trường vốn dĩ màu đỏ nhưng mới đây đã được sửa sang lại nên vẫn còn nồng mùi sơn và vật liệu xây dựng. Những bộ đồng phục cũng cứng đơ, chẳng vừa với người.

Ngày hôm sau, khi học kỳ mới chính thức bắt đầu, giáo viên chủ nhiệm đã gọi tôi ra. Cô là giáo viên dạy Hóa, đã công tác ở trường này được hai năm, trông cô chỉ hơn tôi chừng chục tuổi. Trong phòng tư vấn, cô chủ nhiệm ngồi phịch xuống chiếc xô pha màu tím cũ kỹ, khiến bụi tán loạn bay lên. Cô đưa nắm tay lên che miệng, húng hắng ho rồi e hèm khe khẽ. Ở trường tuy là giáo viên chủ nhiệm nhưng chắc ở nhà cô vẫn là con gái út được chiều chuộng. Khi tôi bắt đầu khó chịu với tiếng e hèm mãi không dứt ấy thì cô nhẹ nhàng gợi chuyện.

“Khó khăn lắm phải không? Cô giúp gì được em nhỉ?”

Cô chủ nhiệm đã biết trước chuyện của tôi. Có vẻ như các chuyên gia tâm lý và luật sư của gia đình những người thiệt mạng đã liên lạc với trường.

“Không sao đâu ạ.”

Tôi nhanh nhảu đáp hòng ngắt gọn cuộc đối thoại. Có vẻ câu trả lời không như mong đợi nên hai khóe môi cô chủ nhiệm nhệch sang hai bên, lông mày cô cũng hơi nhướn lên.

Mọi chuyện bắt đầu vào giờ tan học ngày hôm sau. Cô chủ nhiệm có vẻ đã rất khó khăn mới học thuộc hết tên học sinh trong lớp, nhưng chẳng một ai cảm động vì điều đó. Bởi lẽ cô chỉ dùng những cái tên mình đã vất vả học thuộc vào việc ra lệnh cho ai đó im lặng hoặc ngồi xuống. Rõ ràng cô chẳng có chút tố chất thu hút sự chú ý của học sinh. Không biết có phải do thói quen không mà hễ ba giây cô lại húng hắng ho, rồi chốc chốc lại e hèm.

“Nào, còn chuyện này nữa.”

Đột nhiên cô lên tông giọng.

“Trong lớp chúng ta có một bạn đã phải trải qua chuyện hết sức đau lòng. Giáng sinh vừa rồi bạn ấy đã mất cả gia đình. Cả lớp hãy dành cho bạn ấy một tràng vỗ tay khích lệ. Seon Yoon Jae, đứng dậy nào.”

Tôi làm theo lời cô.

“Yoon Jae à, mạnh mẽ lên.”

Cô chủ nhiệm làm mẫu trước, đưa hai tay lên cao vỗ mạnh vào nhau. Giống một đạo diễn sân khấu đang hướng dẫn các khán giả vỗ tay khi ghi hình một chương trình truyền hình.

Phản ứng của đám bạn cùng lớp rất thờ ơ. Loáng thoáng có một vài đứa giả bộ làm theo cô chủ nhiệm, vỗ tay cho có. May nhờ mấy đứa vỗ rất nhiệt tình nên đại khái cũng nghe ra tiếng vỗ tay. Tiếng vỗ dần lắng xuống. Sau đó là bầu không khí yên ắng tới tịch mịch, chỉ còn hàng chục con mắt đang chằm chằm chĩa vào tôi.

Tôi đã sai khi nói rằng mình không cần cô chủ nhiệm giúp gì cả.

“Cô đừng quan tâm đến em là giúp em lắm rồi.”

Đáng lẽ ra tôi nên nói vậy.

24.

Chẳng mấy chốc tin đồn về tôi đã được lan truyền. Chỉ cần gõ bốn chữ “vụ án Giáng sinh” là tự động một loạt các bài báo về đứa trẻ mười sáu tuổi mất cả bà ngoại lẫn mẹ ruột sẽ hiện ra. Những bức ảnh chụp trong lễ tang đều được bôi mờ mặt, bằng trình độ dở tệ tới mức bất kỳ ai quen biết đều có thể nhận ra ngay đó là tôi.

Phản ứng của đám bạn học cùng trường rất đa dạng. Có đứa chỉ đứng từ xa chỉ trỏ, nhưng cũng có đứa công khai bàn tán mỗi khi tôi đi ngang qua hành lang. Lại có những đứa đến ngồi cạnh và bắt chuyện với tôi trong giờ ăn trưa. Nếu tôi bất chợt quay đầu lại trong giờ học thì y như rằng sẽ bắt gặp ánh mắt một ai đó đang nhìn mình chằm chằm.

Một hôm, có một đứa đã nói ra miệng điều mà tất cả cùng thắc mắc. Đó là khi tôi đang quay trở về lớp sau giờ ăn trưa. Tôi nhìn thấy một cái bóng nhỏ lấp ló ngoài cửa sổ hành lang. Từ bên ngoài cửa sổ, một cành cây đang chấp chới vươn vào trong. Phía đầu cành cây nhú một nụ hoa liên kiều nhỏ xíu. Tôi mở cửa sổ và quay cành cây ấy về hướng ngược lại. Vì tôi cho rằng hoa phải đón ánh mặt trời mới tốt. Khi đó chợt có giọng nói lanh lảnh.

“Này, khi mẹ mày chết trước mặt mày, mày thấy sao?”

Tôi xoay người nhìn về phía phát ra tiếng nói. Đó là một thằng nhóc nhỏ con. Thằng nhóc vẫn thường nói leo trong giờ học và luôn muốn thu hút sự chú ý. Đi đâu cũng luôn có những thằng như vậy.

“Mẹ tao không chết. Người chết là bà tao.”

Tôi vừa trả lời thì thằng nhóc kinh ngạc “ồ” lên. Tôi nhìn lướt xung quanh, có mấy đứa đang cố nhịn cười.

“À vậy sao? Xin lỗi. Để tao hỏi lại. Cảm giác của mày khi thấy bà ngoại chết ngay trước mặt thế nào?”

Thằng nhóc liền hỏi lại. Mấy đứa con gái vây quanh lên tiếng “Ôi, sao lại hỏi thế?” bằng giọng đầy giễu cợt.

“Chúng mày sao vậy? Chúng mày cũng muốn biết còn gì.”

Thằng nhóc đưa hai tay lên, vừa vươn vai vừa nói. Giọng nó lớn hơn ban nãy một chút.

“Có muốn biết không?”

Không một ai trả lời. Bọn chúng chỉ đứng yên tại chỗ.

“Chẳng có cảm giác gì.”

Tôi đóng cửa sổ hành lang rồi đi vào lớp. Ngay lập tức xung quanh lại trở nên ồn ào, nhưng không còn là cái ồn ào của một phút trước.

25.

Sau ngày hôm đó, tôi càng nổi tiếng hơn nhưng không phải kiểu nổi tiếng thông thường mà mọi người ưa thích. Mỗi khi tôi đi qua hành lang, bọn học sinh lại rẽ sang hai bên như mặt biển rẽ làm đôi. Tôi cũng nghe thấy tiếng xì xào bàn tán ở khắp nơi. Nó đó, chính nó. Trông cũng bình thường đấy chứ. Những câu như vậy. Không ít học sinh lớp 11, 12 xuống tận hành lang của khối 10 để nhìn tôi. Cái thằng đã trực tiếp có mặt ở hiện trường vụ giết người. Cái thằng đã tận mắt chứng kiến người thân bị đâm chết. Cũng chính cái thằng ấy đã nói “chẳng có cảm giác gì” mà không hề chớp mắt.

Tin đồn ngày càng lan rộng. Liên tục xuất hiện những đứa tự nhận học cùng cấp một cấp hai với tôi và từng tận mắt chứng kiến rất nhiều hành động kỳ quái của tôi. Mọi tin đồn đều được phóng đại lên hết mức. Nào là tôi sở hữu IQ 200, nào là nếu lại gần tôi sẽ bị đâm chết lúc nào không biết. Thậm chí còn có cả tin đồn chính tôi đã giết chết mẹ và bà ngoại mình.

Mẹ thường nói trong một tập thể bao giờ cũng có người phải trở thành vật hiến tế. Trước kia mẹ dạy tôi những công thức ứng phó trong giao tiếp xã hội cũng bởi khả năng tôi trở thành vật hiến tế vô cùng cao. Giờ đây, khi bên tôi không còn bà và mẹ, thì sự tiên đoán ấy của mẹ đã thành hiện thực. Bọn trẻ sớm nhận ra việc tôi không hề có phản ứng gì trước mọi lời nói của chúng, vì thế bọn chúng thường bất chợt ném cho tôi một câu hỏi nào đó hoặc lôi tôi ra làm trò cười. Những tình huống như vậy ngày càng nhiều hơn trong khi mẹ, người giúp tôi luyện tập những tình huống giao tiếp giả tưởng, đã không còn nữa, tôi thực sự bị dồn tới đường cùng.

Chuyện về tôi xuất hiện trong cả cuộc họp của các thầy cô trong trường. Có vẻ phụ huynh bọn trẻ đã gọi điện tới phản ánh, dù tôi chẳng làm gì bất thường nhưng với họ, chỉ riêng sự tồn tại của tôi thôi đã khiến bầu không khí trong lớp trở nên kỳ quái rồi. Các giáo viên không biết rõ về tình trạng của tôi. Không lâu sau tiến sĩ Shim đến trường gặp cô chủ nhiệm và nói chuyện rất lâu. Tối hôm ấy tôi và tiến sĩ Shim ngồi đối diện nhau, cùng ăn mì tương đen ở một quán án Trung Quốc. Khi mì trong đĩa đã được vét sạch, tiến sĩ Shim mới đi vào câu chuyện. Ông nói lòng vòng một hồi nhưng tóm gọn lại ý ông là môi trường học đường có thể không phù hợp với tôi.

“Ý bác là cháu nên nghỉ học ạ?”

Tiến sĩ Shim lắc đầu.

“Không một ai có thể nói với cháu câu đó. Ý bác là liệu cháu có thể chịu đựng được sự đối đãi đó cho đến khi trưởng thành hay không.”

“Cháu không quan tâm lắm. Bác cũng biết tình trạng của cháu mà. Nếu như bác đã nghe mẹ cháu kể.”

“Mẹ cháu cũng không muốn cháu phải sống như vậy đâu.”

“Mẹ mong cháu sống thật bình thường. Dù đôi khi cháu cũng không hiểu bình thường là như thế nào.”

“Nói cách khác thì không phải mẹ muốn cháu có một cuộc sống yên bình sao?”

“Yên bình…”

Tôi lẩm nhẩm. Cũng không sai. Cuộc sống yên bình giống như bao người. Không có biến cố gì lớn. Đến trường một cách bình thường, tốt nghiệp một cách bình thường và nếu may mắn thì đỗ đại học, kiếm được một công việc ổn định, kết hôn với cô gái mình thích, lập gia đình và sinh con… Kiểu như vậy. Không khác gì câu “đừng gây chú ý” mẹ vẫn hay căn dặn tôi.

“Bố mẹ thường mong đợi rất nhiều điều từ con cái. Nhưng nếu con mình không đạt được những điều đó thì họ cũng chỉ mong chúng sống cuộc sống thật bình thường thôi. Vì họ cho rằng đó là điều cơ bản nhất. Thế nhưng chính cuộc sống được coi là bình thường đó, lại là thứ khó với nhất.”

Nghĩ lại thì có khi bà ngoại cũng chỉ mong mẹ tôi có một cuộc sống thật bình thường. Vì mẹ đã không thể có một cuộc sống như thế. Theo lời tiến sĩ Shim thì “bình thường” là một từ rất phức tạp. Mọi người đều coi thường nó và dễ dàng thốt nó ra miệng nhưng có mấy ai thực sự được sống trọn vẹn với ý nghĩa của từ đó đâu. Nhất là với tôi điều đó lại càng khó hơn nữa. Bởi lẽ tôi không được trời phú cho sự bình thường. Và cũng không hề có năng lực gì phi thường. Tôi chỉ là đứa trẻ kỳ lạ lạc lối ở giữa, không thuộc về bên nào. Vì thế tôi quyết định sẽ thử sức một lần. Thử trở nên bình thường hơn.

“Cháu sẽ đi học tiếp.”

Đó là kết luận của tôi ngày hôm đó. Tiến sĩ Shim gật đầu.

“Vấn đề là ‘như thế nào’. Bác chỉ có thể khuyên cháu thế này. Đầu óc là thứ càng dùng sẽ càng phát triển. Nếu cháu dùng theo hướng xấu thì nó sẽ ngày càng xấu đi nhưng nếu dùng theo hướng tốt thì nó sẽ ngày càng tốt lên. Bác biết cháu có một phần không phát triển bằng mọi người. Tuy nhiên nếu cháu luyện tập thì sẽ thay đổi được ít nhiều.”

“Cháu đã luyện tập nhiều rồi. Ví dụ như thế này.”

Tôi nhếch khóe môi lên hai bên. Thế nhưng tôi biết nụ cười của tôi vẫn khác với nụ cười của mọi người.

“Cháu hãy thử nói chuyện với mẹ xem.”

“Gì cơ ạ?”

“Nói rằng cháu đã trở thành học sinh cấp ba và đang đi học bình thường. Mẹ cháu hẳn sẽ rất vui.”

“Không cần đâu ạ. Mẹ cháu chẳng nghe thấy gì đâu.”

Tiến sĩ Shim không nói thêm câu nào nữa. Theo tôi thì ông không thể phản bác lại câu tôi vừa nói.

26.

Mưa rơi tí tách bên cửa sổ. Là mưa xuân. Mẹ rất thích mưa. Mẹ nói rằng mẹ thích mùi mưa. Nhưng giờ đây mẹ chẳng thể nghe thấy tiếng mưa, cũng chẳng thể ngửi được mùi mưa nữa. Mùi mưa ư? Thực ra chỉ là thứ mùi ngai ngái bốc lên từ mặt đường nhựa khô roong. Tôi lặng lẽ ngồi cạnh nắm tay mẹ. Da mẹ ngày càng thô ráp. Tôi bôi sữa dưỡng hương hoa hồng lên má và mu bàn tay cho mẹ. Tôi ra khỏi phòng bệnh, bắt thang máy đi xuống nhà ăn. Đúng khoảnh khắc cửa thang máy mở, tôi chạm phải ánh mắt một người đàn ông. Người đã khiến tôi gặp con quái vật đó. Người đã đưa con quái vật đó vào cuộc đời tôi.

Đó là một người đàn ông trung niên với mái đầu xám bạc. Ông ta ăn mặc rất gọn gàng nhưng hai vai lại chùng xuống, đôi mắt còn ngân ngấn nước. Nếu biểu cảm tươi sáng hơn một chút thì khuôn mặt đó cũng được coi là đẹp trai. Thế nhưng trông ông ta phờ phạc và u ám.

Khoảnh khắc nhìn thấy tôi, hai con ngươi của ông ta liên tục đảo sang hai bên. Không hiểu sao tôi có dự cảm sẽ gặp lại ông ta lần nữa. Tôi biết từ “dự cảm” không hợp với tôi cho lắm. Vì nói cho đúng thì tôi đâu có thể “cảm nhận” được dự cảm.

Nhưng phân tích kỹ hơn thì dự cảm không phải là thứ “tự nhiên cảm nhận được”. Những việc bản thân trải nghiệm hằng ngày thường sẽ được lưu lại, đúc rút thành các yếu tố điều kiện và kết quả. Đến khi nào gặp phải tình huống tương tự, ta sẽ vô thức dự đoán được kết quả. Vì thế dự cảm thực chất rất có tính nhân quả. Giống như khi ta bỏ hoa quả vào máy xay sẽ cho ra sinh tố hỗn hợp. Ánh mắt người đàn ông đó nhìn tôi khiến tôi có “dự cảm” như vậy.

Về sau, mỗi khi đến bệnh viện tôi lại gặp người đàn ông đó. Dù ở nhà ăn hay ở hành lang, hễ khi nào tôi quay ra vì cảm thấy có ánh mắt đang nhìn mình thì đều là người đàn ông đó. Dường như ông ta có điều gì muốn nói nhưng cũng có vẻ như chỉ đang quan sát tôi. Vậy nên ngay cả khi ông ta tìm đến hiệu sách, tôi vẫn chỉ chào như không có chuyện gì.

“Xin mời vào.”

Người đàn ông gật nhẹ đầu rồi bắt đầu đi vòng quanh dãy giá sách. Bước chân ông ta nặng trĩu. Sau khi bước qua gian sách Triết học, ông ta dừng chân tại gian Văn học một hồi lâu rồi nhặt một cuốn mang ra bàn thanh toán.

Tuy đang cười rạng rỡ nhưng không hiểu sao ông ta không dám nhìn thẳng vào tôi. Điều đó, như mẹ nói, có nghĩa là ông ta đang cảm thấy “bất an”. Ông ta chìa quyển sách ra và hỏi giá.

“Một triệu won ạ.”

“Đắt hơn bác nghĩ nhiều thật.”

Người đàn ông lật xem hai mặt bìa cuốn sách.

“Cuốn sách này có giá trị tới vậy sao? Cũng không phải bản in đầu tiên. Mà nó còn là sách dịch nên dù là bản in lần đầu thì cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.”

Tựa đề cuốn sách là Demian.

“Dù thế nào thì nó cũng có giá một triệu won ạ.”

Đó là cuốn sách của mẹ. Cuốn sách mẹ vẫn giữ trên giá sách từ thời trung học. Cuốn sách khiến mẹ ấp ủ ước mơ viết lách. Đó là cuốn sách tôi không định bán. Ông ta cũng thật có mắt nhìn khi chọn đúng cuốn sách này. Người đàn ông hít sâu. Chắc mấy ngày chưa được cạo nên cằm ông ta lún phún râu.

“Trước tiên chú phải giới thiệu về mình đã. Chú là Yoon Kwon Ho. Chú đang dạy môn Kinh doanh ở trường đại học. Cháu tìm kiếm trên mạng sẽ thấy. Không phải chú đang khoe khoang đâu, chú chỉ muốn nói chú là người có thân phận rõ ràng thôi.”

“Cháu biết mặt chú. Cháu gặp chú mấy lần ở bệnh viện rồi.”

Mặt người đàn ông giãn ra.

“Cảm ơn cháu đã nhớ chú. Chú cũng từng gặp tiến sĩ Shim, người bảo hộ của cháu. Chú đã nghe qua chuyện đáng tiếc xảy đến với cháu. Cả chuyện cháu là một đứa trẻ đặc biệt. Tiến sĩ Shim bảo chú nên đến nói chuyện trực tiếp với cháu. Chú đến đây vì có chuyện muốn nhờ cháu.”

“Chuyện gì ạ?”

Người đàn ông im lặng một lúc lâu.

“Chú không biết phải nói từ đâu nữa…”

“Chú nói có chuyện muốn nhờ còn gì ạ. Vậy chú cứ nói chuyện đó ra là được.”

“Cháu thẳng thắn thật, đúng như những gì chú nghe được.”

Người đàn ông bật cười.

“Mẹ cháu vẫn ổn chứ? Vợ chú đang ốm nằm một chỗ. Chắc cô ấy sắp đi rồi. Có khi chỉ trong vài ngày tới thôi…”

Người đàn ông cúi người về phía trước, lưng còng xuống như lưng tôm. Ông ta hắng giọng rồi mở miệng.

“Chú có hai việc muốn nhờ cháu. Một là cháu cùng chú đến gặp vợ chú. Hai là…”

Ông ta tiếp tục lấy hơi và nói tiếp.

“Cháu có thể hành động giống như con trai chú trước mặt vợ chú không. Không có gì khó cả. Cháu chỉ cần nói theo những lời chú bảo thôi.”

Không phải một lời nhờ vả thông thường. Đó là lời nhờ vả tôi chưa từng nghe thấy, nói đúng hơn là kỳ lạ. Tôi hỏi lý do. Người đàn ông đứng dậy rồi đi một vòng quanh hiệu sách. Có vẻ ông ta là người luôn cần thời gian trước khi nói ra bất cứ điều gì.

“Mười ba năm về trước, nhà chú đã mất con trai.”

Người đàn ông tiếp tục nói.

“Nhà chú đã làm đủ mọi cách để tìm đứa bé nhưng không có tác dụng. Gia đình chú thuộc loại khá giả, chú đi du học về và trở thành giảng viên đại học khi còn khá trẻ. Sự nghiệp của vợ chú cũng rất xán lạn. Cả chú và vợ chú đều nghĩ cuộc đời mình thế là thành công. Thế nhưng sau khi mất con, mọi thứ đều thay đổi. Mối quan hệ giữa hai vợ chồng trở nên gượng gạo, vợ chú sau đó đã mắc bệnh. Đó cũng là những tháng ngày khó khăn đối với chú. Chú cũng không hiểu sao mình lại nói ra những điều này nữa…”

“Rồi sao ạ?”

Tôi hỏi với mong muốn người đàn ông đừng quá dài dòng.

“Thế nhưng cách đây không lâu, chú đã nhận được một cuộc gọi. Rằng có một đứa trẻ có vẻ là con trai chú. Và chú đã đi gặp thằng bé đó…”

Người đàn ông ngừng lời rồi im lặng một hồi lâu.

“Chú muốn trước khi mất, vợ chú được gặp lại con trai. Đó là đứa con vợ chú vẫn luôn mơ ước được gặp lại…”

Ông ấy nhấn mạnh vào từ “mơ ước”.

“Đứa bé tìm thấy không giống với mơ ước của vợ chú sao?”

“Cũng không đến mức vậy. À không, việc này rất khó giải thích.”

Người đàn ông cúi đầu.

“Vậy sao lại là cháu?”

“Cháu nhìn tấm ảnh này xem.”

Ông ta lấy ra một tấm ảnh. Đó là tờ rơi tìm trẻ lạc. Trong ảnh là khuôn mặt một đứa bé tầm ba, bốn tuổi và bên cạnh là ảnh phác họa khuôn mặt hiện tại. Dường như có nét gì đó giống tôi thật. Không phải đường nét chi tiết trên khuôn mặt mà là thần thái.

“Đứa trẻ tìm thấy không giống thế này ạ?”

Tôi không hiểu nên hỏi lại.

“Không, thằng bé khá giống với bức ảnh. Nên cũng có thể nói trông nó cũng giống cháu nữa. Thế nhưng hiện tại thằng bé không thể gặp mẹ nó được. Chú xin cháu đấy. Hãy giúp chú một lần thôi. Chú sẽ giúp chuyển mẹ cháu tới một phòng bệnh tốt hơn. Chú cũng sẽ thuê y tá riêng cho mẹ cháu, ngoài ra cháu muốn gì, chỉ cần làm được chú sẽ làm hết.”

Người đàn ông chực trào nước mắt. Như thường lệ, tôi lại nói sẽ thử suy nghĩ.

* * *

Người đàn ông không hề nói dối. Tôi dễ dàng tìm thấy thông tin về công việc, quan hệ gia đình cũng như câu chuyện về đứa con mất tích của ông ta trên mạng. “Nếu không có gì hại tới cháu thì vẫn nên giúp người khác.” Tôi nhớ đến lời khuyên của bà ngoại. Ngày hôm sau người đàn ông đó lại tìm đến, tôi gật đầu nhận lời.

Thế nhưng nếu biết trước đó là Gon thì tôi sẽ không chọn làm vậy. Bởi lẽ vì lựa chọn đó, tôi đã mãi mãi cướp đi thứ gì đó từ Gon, một cách vô thức.

27.

Phòng bệnh được trang trí bởi nhiều loại hoa. Đèn được bật khắp nơi, ấm áp chiếu sáng khắp căn phòng. Mọi thứ đều khác hẳn với phòng bệnh sáu người mẹ tôi nằm. Đây không giống phòng bệnh mà giống phòng khách sạn hay xuất hiện trên phim hơn. Có vẻ như vợ người đàn ông rất thích hoa. Tôi thấy hơi váng đầu vì hương hoa. Ngay cả giấy dán tường cũng in họa tiết hoa làm tôi hoa cả mắt. Tôi nghe nói theo nguyên tắc các bệnh viện thường cấm hoa, nhưng dường như vẫn có những trường hợp đặc biệt.

Ông chú nắm lấy cánh tay tôi, từ từ kéo lại phía giường. Người phụ nữ đó nằm giữa một rừng hoa, trông như đang nằm trong quan tài vậy. Nhìn gần hơn thì khuôn mặt cô ấy giống của bệnh nhân mắc bệnh nan y trong phim. Ngay cả ánh nắng rực rỡ bên ngoài cửa sổ cũng không xóa hết được màu xám tro u ám trên khuôn mặt ấy. Người phụ nữ giơ cánh tay khẳng khiu như cành cây về phía tôi. Bàn tay chạm vào má tôi. Bàn tay không còn chút sự sống nào.

“Con đây rồi. Đúng con rồi. Yi Su à. Con trai mẹ. Con trai đáng yêu của mẹ. Sao bây giờ con mới về…”

Người phụ nữ khóc sướt mướt. Thật thần kỳ khi cơ thể đó vẫn còn đủ sức để khóc như vậy. Mỗi khi người phụ nữ nấc lên, tưởng chừng cơ thể đó sắp vỡ vụn thành bột rồi tan biến.

“Mẹ xin lỗi. Mẹ, mẹ thực sự muốn cùng con làm rất nhiều điều. Thực sự đó. Cùng con ăn cơm, cùng con đi du lịch, ở bên con cả quãng thời gian con lớn lên… Thế nhưng cuộc sống không dễ dàng như mẹ nghĩ. Vậy mà con mẹ vẫn lớn lên thế này, cảm ơn con.”

Người phụ nữ nói câu cảm ơn và xin lỗi thêm khoảng mười lần nữa rồi tiếp tục khóc. Thế nhưng cô ấy vẫn cố gắng cười. Trong suốt ba mươi phút, cô chỉ cầm tay rồi lại vuốt má tôi. Dường như cô ấy đang dốc toàn bộ chút sức lực hiếm hoi còn sót lại cho tôi vậy.

Tôi chẳng nói gì mấy. Chỉ khi người phụ nữ ngưng lời trong giây lát và ông chú ra hiệu thì tôi mới nói vài câu đã được dạy trước. Rằng tôi đã lớn lên khỏe mạnh trong một gia đình có điều kiện tốt, từ giờ tôi sẽ học hành chăm chỉ bên cạnh bố, vì thế mong mẹ đừng lo lắng. Và tôi nhẹ nhàng nở nụ cười. Sau khi đã dùng hết chút sinh lực cuối cùng, người phụ nữ chuẩn bị nhắm mắt lại.

“Mẹ ôm con được không?”

Đó là câu cuối cùng người phụ nữ nói với tôi. Hai cánh tay khẳng khiu như cành cây khô ôm chặt lấy lưng tôi. Như bị rơi vào một cái bẫy vững chãi, tôi không thể nào thoát ra được. Nhịp tim của người phụ nữ truyền đến tôi. Nóng hổi. Cánh tay dần nới lỏng rồi buông xuống. Y tá bên cạnh nói rằng cô ấy đã ngủ.

28.

Người phụ nữ đó từng là một phóng viên rất giỏi. Với ngòi bút tràn đầy sinh lực, cô đã viết nên những bài báo rắn rỏi mạnh mẽ, khiến đối phương phải bối rối bởi những câu hỏi đanh thép chưa ai dám đưa ra. Chỉ có điều do công việc quá bận rộn, cô luôn áy náy vì phải giao con mình cho người khác trông nom.

Ngày hôm đó, cô đã dành một ngày nghỉ hiếm hoi để cùng con trai đến công viên giải trí. Cô bế con cùng chơi trò ngựa gỗ quay. Đó là một ngày nắng ấm và hạnh phúc. Chợt điện thoại rung lên. Đứa trẻ đòi chơi tiếp nhưng người phụ nữ nắm tay con bước xuống rồi nghe điện thoại. Chỉ là một cuộc điện thoại rất ngắn. Thế nhưng khi ngắt máy, cô không thấy đứa bé đâu nữa. Người phụ nữ cũng không nhớ mình đã buông tay con lúc nào.

Thời đó camera không được lắp ở khắp mọi nơi như bây giờ, hơn nữa lại có rất nhiều góc chết. Sau nhiều ngày điều tra, cảnh sát vẫn không tìm ra tung tích đứa trẻ. Hai vợ chồng dồn tâm sức tìm con nhưng hy vọng ngày càng mong manh. Họ chỉ còn biết cầu nguyện đứa trẻ còn sống và được một gia đình tử tế nhận nuôi. Thế nhưng ngày cũng như đêm, những ý nghĩ đáng sợ luôn hành hạ họ. Người phụ nữ không ngừng trách cứ bản thân, cô nhận ra thành công mà mình hằng theo đuổi cũng chỉ là những ảo ảnh bóng bẩy bề ngoài.

Suy nghĩ đó dần khiến người phụ nữ sinh bệnh. Người đàn ông cũng phần nào trách vợ vì để lạc mất con, nhưng giờ ông ta không muốn mất thêm vợ nữa vì bản thân ông đã đủ cô đơn lắm rồi. Thế nhưng cũng từ rất lâu rồi, người đàn ông không còn nói với người vợ bệnh tật rằng con trai họ sẽ quay trở về nữa.

Trước khi gặp tôi không lâu, người đàn ông, tức giáo sư Yoon đã nhận được liên lạc từ một trung tâm bảo trợ. Nghe tin có một đứa bé có thể là con mình, ông ta đã tìm đến trung tâm và gặp lại con trai mình sau mười ba năm. Tuy nhiên thằng bé hiện đang ở trong tình cảnh không thể gặp mẹ ngay được. Bởi lẽ thằng bé đó, không phải ai khác mà chính là Gon.

29.

Lẽ nào người phụ nữ đó thực sự đã dồn toàn bộ hơi sức cuối cùng cho tôi? Ngay sau hôm gặp tôi, cô ấy rơi vào trạng thái hôn mê sâu và trút hơi thở cuối cùng vài ngày sau đó. Giáo sư Yoon thông báo về cái chết của vợ bằng giọng trầm và nhẹ bẫng. Chỉ những người bị khiếm khuyết thứ gì đó giống tôi hay những người đã sớm từ biệt người thân của mình từ trước cả khi họ chết mới có thể làm vậy. Giáo sư Yoon là kiểu thứ hai.

Tôi cũng không hiểu vì lý do gì mình lại đến đám tang. Thực tế tôi không cần làm vậy. Thế nhưng tôi lại đến. Có lẽ bởi người phụ nữ đó đã ôm tôi quá chặt.

Đám tang của cô ấy rất khác với cảnh tượng tôi thấy trong đám tang của bà ngoại. Hồi đó do tổ chức đám tang chung nên mọi thứ rất lộn xộn, bên cạnh linh cữu của bà cũng chỉ có mình tôi. Thế nhưng đám tang của người phụ nữ làm tôi liên tưởng tới cuộc gặp mặt lâu ngày giữa những người thân. Mọi người đều ăn mặc gọn gàng và tươm tất. Từ giọng nói đến nghề nghiệp của tất cả bọn họ đều toát ra vẻ “có văn hóa”. Tôi thường nghe thấy bọn họ gọi nhau bằng những danh xưng như giáo sư, bác sĩ, chủ tịch, giám đốc.

Trong ảnh thờ người phụ nữ nhìn như một người khác. Đôi môi đỏ mọng, mái tóc dày, hai má phính và đôi mắt sáng bừng tựa nắng mặt trời. Khuôn mặt cô ấy trông rất trẻ. Vì sao lại phải dùng ảnh hồi chớm ba mươi của cô ấy để làm ảnh thờ nhỉ? Có vẻ giáo sư Yoon đã đọc được thắc mắc đó của tôi.

“Đó là ảnh trước khi cô ấy lạc mất con. Kể từ đó, chú không tìm được bức hình nào cô ấy có biểu cảm như vậy nữa. Vợ chú cũng muốn lấy tấm ảnh đó làm ảnh thờ.”

Tôi thắp hương rồi quỳ lễ. Vậy là mong muốn thiết tha của cô ấy trước khi chết đã được thực hiện. Mong muốn gặp lại con trai. Ít nhất cô ấy cũng nghĩ mình đã gặp được con trai trước khi ra đi. Nếu như biết được sự thật, liệu cô ấy có bất hạnh hơn chút nào không?

Tôi nghĩ đến đây là mình đã hết trách nhiệm. Khoảnh khắc tôi quay bước định rời đi thì đột nhiên một luồng khí lạnh ở đâu thổi tới. Luồng khí đó nhanh chóng lan tỏa khắp căn phòng. Tất thảy mọi người đều đồng loạt ngậm miệng, hoặc há hốc miệng, như thể bị tấn công bởi sự im lặng có sức mạnh khủng khiếp ngang một con quái vật. Ánh mắt của bọn họ không hẹn mà gặp ở cùng một điểm. Là thằng nhóc ấy.

30.

Thằng nhóc gầy nhẳng đứng im một chỗ, hai tay nắm chặt. Chân và tay nó quá dài so với thân người ngắn tủn. Người nó khá săn chắc. Trông nó từa tựa nhân vật Joe trong phim hoạt hình Ngày mai của Joe [6] . Thế nhưng thân hình đó khác với thân hình của một người chăm chỉ luyện tập thể dục. Nó giống với thân hình lũ trẻ ở thế giới thứ ba mà tôi từng thấy trong các bộ phim tài liệu. Một thân hình được rèn luyện trong quá trình đấu tranh sinh tồn, giống như những đứa trẻ vẫn ngày ngày đi bới móc bãi rác hay lẽo đẽo theo chân du khách xin từng đồng đô la lẻ. Khuôn mặt nó đen sạm, khô sắt. Dưới hàng lông mày rậm như sâu róm là đôi mắt đen láy như quân cờ vây, ánh mắt ranh mãnh đang quét khắp tứ phía. Ánh mắt đó đã khiến tất thảy đều im bặt. Nó hệt như ánh mắt một loài mãnh thú nhe nanh giơ vuốt giết chết chính đứa con của mình trước những người không hề có ý định làm hại nó.

Thằng bé nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn. Dường như nhổ nước bọt là cách chào hỏi của riêng nó. Cách đây không lâu, trong lần đầu tiên tôi gặp Gon, nó cũng hành động y chang như vậy. Nói chính xác hơn thì lần gặp nhau ở lễ tang là lần thứ hai tôi gặp Gon.

Vài ngày trước lớp tôi có học sinh chuyển đến. Cửa lớp vừa mở, cô chủ nhiệm bước vào, theo sau là một thằng nhóc nhỏ thó. Đó chính là Gon. Hai tay nó khoanh trước ngực, một chân chùng xuống, điệu bộ chẳng hề sợ sệt khi đứng trước những đứa trẻ lạ mặt. Cô chủ nhiệm ngập ngừng giới thiệu Gon là học sinh mới rồi giục nó tự giới thiệu bản thân. Thằng bé đổi chân nghỉ rồi nói.

“Cô nói hộ luôn đi.”

Đâu đó vang lên tiếng cười. Loáng thoáng cả tiếng vỗ tay.

Cô chủ nhiệm lấy tay quạt quạt gương mặt đỏ bừng.

“Đây là Yoon Yi Su. Giờ thì em hãy chào các bạn trong lớp đi.”

Nghe xong câu đó, Gon cứng nhắc nghiêng đầu ra chiều phiền toái lắm, nó đảo lưỡi qua lại khiến hai bên má phồng lên. Rồi nó bật cười, đầu nghiêng sang một phía, nhổ toẹt một bãi nước bọt.

“Được chưa ạ?”

Lác đác có tiếng ré lên. Khác với ban nãy, trong tiếng xì xào lần này lẫn thêm nhiều câu khó nghe hơn. Trong trường hợp như vậy, đáng lẽ giáo viên chủ nhiệm phải nhắc nhở hoặc đưa học sinh lên phòng giáo vụ. Vậy mà không hiểu sao cô chủ nhiệm lại quay đầu đi không nói câu nào. Chỉ có khuôn mặt cô đang dần đỏ ửng do phải kìm nén những lời chực trào ra miệng. Một giờ sau khi kết thúc màn giới thiệu, Gon đã trốn về.

Ngay lập tức công cuộc điều tra tiểu sử bắt đầu. Chỉ chưa đầy ba mươi phút, cả lớp đã biết Gon là ai, từ đâu đến. Vài thông tin hay ho đến từ anh họ của một thằng trong lớp.

Thằng nhóc đó đã gọi điện cho anh họ nó, hiện đang học tại trường cũ nơi Gon từng theo học sau khi rời trung tâm bảo trợ trẻ em. Cuộc gọi được mở loa ngoài nhằm tường thuật trực tiếp theo yêu cầu của những đứa khác. Cả lớp lâu lắm mới quây quần ngồi lại với nhau. Có những đứa ngồi hẳn lên bàn để nghe cho rõ. Tôi ngồi phía xa nhưng vẫn đủ nghe thấy.

“Thằng đó cực kỳ lưu manh luôn. Ngoài giết người ra thì gì nó cũng dám làm.”

Đứa nào đó nhìn tôi cười chế nhạo.

“Này, thằng bệnh. Làm sao giờ? Mày hết thời rồi.”

Ngày hôm sau khi Gon mở cửa bước vào, cả lớp nhất loạt lặng thinh. Gon không nói không rằng đi về chỗ. Bọn trẻ giả vờ ngó nghiêng chỗ khác hoặc cắm đầu vào sách. Những tưởng Gon sẽ ngoan ngoãn ngồi yên, ngờ đâu nó thình lình ném bụp cặp sách về phía trước.

“Đứa nào?”

Dường như nó đã để ý thấy bầu không khí nhộn nhạo ngày hôm qua.

“Thằng nào đã điều tra về tao? Biết điều thì mau đứng dậy.”

Căn phòng bỗng im phăng phắc. Thằng nhóc đưa tin run rẩy đứng dậy.

“À, chả là… anh họ tao bảo biết mày nên…”

Giọng thằng nhóc ngày càng nhỏ dần. Gon đảo lưỡi phồng má một lúc rồi mới mở miệng nói.

“Cảm ơn. Nhờ mày mà tao khỏi cần giới thiệu nữa. Tao đúng là thằng như thế đấy.”

Gon ngồi phịch xuống ghế.

* * *

Ngày tôi nhận được cáo phó của người phụ nữ đó, Gon đã không đến trường. Nó nói rằng nhà có người chết. Thế nhưng tôi không thể ngờ được. Gon lại chính là thằng bé đó. Con trai thật sự của người phụ nữ đã chết sau khi tưởng rằng tôi là con trai mình.

31.

Gon bước vào giữa dòng người, đứng làm lễ trước linh cữu mẹ. Không có chuyện gì đặc biệt xảy ra. Nó làm theo chỉ đạo của giáo sư Yoon, tất cả mọi việc như thắp hương, dâng rượu và cả quỳ lạy cũng diễn ra chóng vánh. Mọi động tác của nó đều rất nhanh, nó chỉ lạy đúng một lần rồi đứng phắt dậy, hờ hững cúi đầu xuống. Giáo sư Yoon đẩy lưng nó ý bảo làm thêm lần nữa. Nhưng thằng bé giãy người khỏi tay bố rồi cứ thế lủi mất.

Theo lời mời của giáo sư Yoon, tôi ở lại ăn cơm rồi mới đi. Bữa cơm có nhiều món giống với những món mẹ hay làm vào các dịp lễ tết. Canh nóng và bánh bột mì chiên, bánh gạo tẩm mật ong cùng nhiều loại hoa quả. Không biết có phải do đói bụng hay không mà tôi ăn rất ngon miệng.

Mọi người thường quên mất mình đang nói to cỡ nào khi bàn tán chuyện của người khác. Cả khi người nói nghĩ rằng mình đang nói rất nhỏ thì những lời đó vẫn dễ dàng lọt vào tai người khác. Trong suốt bữa cơm, chuyện về Gon được mọi người lôi ra bàn luận sôi nổi. Nào là ngày để tang thứ hai Gon mới xuất hiện là vì nó đã từ chối đến, rồi thì vừa ra khỏi trung tâm bảo trợ nó đã gây rắc rối, tốn bao nhiêu tiền cho nó chuyển trường, rồi còn có một thằng bé đóng giả Gon, những câu chuyện gây nhức đầu đó cứ lởn vởn quanh tai tôi. Tôi ngồi trong một góc quay lưng lại với mọi người, im lặng. Tôi không biết mình có đang làm đúng không nhưng tôi nghĩ mình nên làm vậy.

Vào lúc trời sẩm tối, khách viếng đã về bớt thì Gon đột nhiên xuất hiện. Ánh mắt nó nhìn như muốn chọc thủng người tôi, rồi nó tiến về ngồi ngay đối diện tôi. Chẳng nói chẳng rằng, nó chén sạch hai bát canh thịt bò hầm cay rồi đưa tay lau mồ hôi trên mặt, hỏi tôi.

“Là mày hả? Thằng đóng vai con trai thay tao.” Tôi không trả lời. Vì Gon đã ngay lập tức tiếp lời.

“Từ giờ mày xác định chịu đau nhé. À mà, cũng sẽ thú vị đấy.”

Gon cười khẩy rồi đứng dậy. Ngày hôm sau, mọi chuyện chính thức bắt đầu.

32.

Có hai thằng nhóc luôn bám theo Gon. Một thằng gầy nhẳng như xác ve, làm nhiệm vụ thư ký chuyển lời của Gon đến những đứa khác, thằng còn lại vai u thịt bắp, nhìn qua là biết đảm nhiệm vai trò phô trương sức mạnh. Trông ba thằng chẳng có vẻ gì là thân thiết. Như thể chúng nó chỉ tụ tập lại vì một mục đích hay hợp đồng nào đó hơn là thực sự kết bạn với nhau.

Dù sao thì Gon cũng bắt đầu coi việc bắt nạt tôi là sở thích mới. Thi thoảng nó lại xồ ra trước mặt tôi, hệt như con búp bê bật lên mỗi khi mở nắp hộp. Nó thường mai phục ở đâu đó trước căng tin rồi đột ngột đánh tôi một cái hay đứng phía cuối hành lang để chờ ngáng chân tôi. Mỗi khi thực hiện thành công một kế hoạch vặt vãnh nào đó Gon lại cười sung sướng như thể nhận được một món quà bự, hai đứa bên cạnh cũng bấm nhau cười phụ họa.

Tôi chẳng bao giờ có phản ứng gì. Nhiều đứa bắt đầu sợ Gon và thương hại tôi. Thế nhưng chẳng ai mách với giáo viên nửa lời. Chắc hẳn chúng nó ước chừng được bản thân sẽ gặp rắc rối thế nào nếu mở miệng, hơn nữa tôi cũng không hề tỏ ý muốn cầu cứu chúng nó. Tất cả đều thống nhất với nhau rằng chỉ nên yên lặng quan sát hai thằng kỳ quái chúng tôi.

Tôi biết thừa Gon mong đợi phản ứng gì từ tôi. Hồi tôi học cấp một hay cấp hai luôn có những thằng như vậy. Những thằng chỉ mong nhìn thấy khuôn mặt khổ sở của đứa bị bắt nạt. Chúng chỉ ước đối phương vừa khóc lóc vừa van xin chúng dừng lại. Những đứa như vậy đều luôn dùng sức mạnh để đạt được điều chúng muốn. Thế nhưng tôi biết. Nếu như điều Gon muốn là trông thấy một chút thay đổi biểu cảm trên gương mặt tôi thì nó mãi mãi chẳng bao giờ thắng được tôi. Và cuối cùng người hao công tổn sức cũng chỉ có mình Gon thôi.

Không lâu sau, Gon có vẻ đã nhận ra mục đích của nó không dễ gì đạt được. Tuy nó vẫn liên tục gây sự với tôi nhưng không còn thái độ ngông nghênh như trước nữa. “Không lẽ chịu thua rồi sao? Chắc nó cũng mất kiên nhẫn rồi.” Bọn trẻ thì thầm sau lưng Gon. Tôi càng không có phản ứng, càng không cầu cứu ai thì bầu không khí trong lớp càng trở nên căng thẳng.

Được một thời gian dường như đã thấm mệt, thay vì ngáng chân cho tôi ngã hay đánh vào gáy tôi, Gon quyết định “tuyên chiến” một trận cuối cùng. Sau khi cô chủ nhiệm kết thúc buổi học„ thằng xác ve chạy phăm phăm lên trước bảng và bắt đầu viết gì đó. Những dòng chữ nguệch ngoạc hiện lên.

“Ngày mai sau giờ ăn trưa. Trước sân đốt rác.”

Giọng nói ngạo mạn của Gon vang lên.

“Tao đã cảnh cáo rồi nhé. Vì thế tùy mày lựa chọn. Nếu không muốn ăn đòn thì tránh đi. Nếu mày không xuất hiện, tao sẽ coi như mày chạy trốn vì sợ, từ giờ sẽ không làm phiền mày nữa. Còn nếu mày xuất hiện thì hãy chuẩn bị sẵn tinh thần đi.”

Tôi không trả lời, chỉ đeo cặp rồi đứng dậy. Gon ném sách vào lưng tôi.

“Có nghe thấy không, thằng bệnh? Tao bảo m?