← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5 NGƯỜI NEFILIM: DÂN TỘC VỚI NHỮNG QUẢ TÊN LỬA

CHƯƠNG 5

người nefilim: dân tộc với những quả tên lửa

ua các ghi chép của người Sumer và Akkad, ta có thể khẳng định những dân tộc sinh sống ở vùng Cận Đông cổ đại đều chắc chắn rằng các vị thần của Thiên đường và Mặt đất có thể bay từ Mặt đất lên Thiên đường cũng như tùy ý dạo chơi trên Mặt đất.

Trong bản ghi chép mô tả việc Inanna/Ishtar bị một nhân vật không xác định cưỡng hiếp, hắn ta phân trần cho việc làm của mình như sau:

Một ngày nọ Nữ hoàng của ta,

Sau khi băng qua Thiên đường, băng qua Mặt đất

Inanna,

Sau khi băng qua Thiên đường, băng qua Mặt đất

Sau khi băng qua Elam và Shubur,

Sau khi băng qua…

Tên tá dịch mệt lử và thiếp đi.

Ta nhìn thấy nàng từ bờ vườn nhà ta;

Hôn nàng, hòa vào nàng.

Ở đây Inanna được mô tả đang lang thang trên bầu trời trên khắp các vùng đất xa xôi - việc chỉ có thể thực hiện được bằng hành động bay - và chính nàng cũng kể về một dịp “cưỡi mây về gió” khác. Trong một ghi chép mà S. Langdon (trong Revue d’Assyriologie et d’Archéologie Orientale – tạm dịch: Tạp chí Atxiri và Khảo cổ học phương Đông) đặt tựa đề là “Nghi thức tế lễ Innini cổ điển,” nữ thần này kêu than về việc bị trục xuất khỏi thành phố của mình. Theo chỉ đạo của Enlil, một thiên sứ “mang đến cho ta ý chỉ của Thiên đường” bước vào Cung điện của nàng, “bàn tay chưa tẩy rửa của người đó đặt lên người ta,” và sau nhiều hành vi sỉ nhục khác,

Từ đền thờ của ta,

Họ đưa ta bay lên;

Từ thành trì của mình, một Nữ hoàng như ta,

được họ đưa bay lên như một con chim.

Năng lực này của Inanna cũng như nhiều vị thần lớn khác thường được các họa sỹ thời cổ đại thể hiện bằng cách khắc họa hình ảnh các vị thần giống như con người theo mọi góc độ như ta đã thấy ngoại trừ việc họ có cánh. Những chiếc cánh xuất hiện trong nhiều bức họa này không phải là một bộ phận của cơ thể – chúng không phải là những chiếc cánh tự nhiên – mà là một vật trang trí gắn vào trang phục của vị thần. (Hình 58)

Inanna/Ishtar, nữ thần với những chuyến du ngoạn xa xôi được nhắc đến trong nhiều ghi chép cổ đại, thường xuyên ngược xuôi giữa lãnh địa xa xôi đầu tiên ở Aratta và cung điện mơ ước của mình ở Uruk. Nàng tới gặp Enki ở Eridu và Enlil ở Nippur và ghé thăm người anh trai Utu tại tổng hành dinh ở Sippar. Nhưng chuyến đi nổi tiếng nhất của nàng là xuống Âm Phủ, lãnh địa của người chị Ereshkigal. Chuyến đi này là chủ đề của những câu chuyện sử thi cùng các bức họa đầy nghệ thuật trên những con dấu lăn − hình con dấu sau thể hiện nữ thần này với những chiếc cánh nhằm nhấn mạnh thực tế rằng nàng đã bay từ Sumer tới Âm Phủ. (Hình 58)

Hình 58

Những ghi chép về chuyến hành trình đầy hiểm nguy này mô tả việc Inanna tự chuẩn bị kỹ lưỡng cho mình 7 đồ vật trước khi bắt đầu chuyến đi và việc nàng phải bỏ chúng lại khi qua 7 cánh cổng dẫn tới cung điện của chị mình. 7 đồ vật đó cũng được đề cập đến trong những ghi chép khác kể về các chuyến không trình của Inanna:

Tuy đến nay vẫn chưa ai có thể lý giải được bản chất và tầm quan trọng của 7 đồ vật đó nhưng chúng tôi cảm thấy câu trả lời đã có từ lâu. Từ năm 1903 đến 1914, khi tiến hành khai quật kinh đô Assur của Assyria, Walter Andrae và các cộng sự của mình đã tìm thấy trong Đền thờ Ishtar một bức tượng không còn nguyên vẹn thể hiện một vị nữ thần với nhiều “thiết bị kỳ lạ” gắn trên ngực và sau lưng. Năm 1934, các nhà khảo cổ tiến hành khai quật ở Mari cũng bắt gặp một bức tượng tương tự nhưng còn nguyên vẹn bị chôn vùi dưới mặt đất. Đó là một bức tượng nguyên mẫu một người phụ nữ đẹp có kích thước như người thật. Chiếc mũ kỳ lạ của nàng có gắn một cặp sừng, chứng tỏ nàng là một nữ thần. Đứng quanh bức tượng 4.000 năm tuổi này, các nhà khảo cổ rùng mình trước vẻ sống động như thật của nàng (nếu nhìn thoáng qua, ít ai có thể phân biệt được đâu là bức tượng đâu là người thật). Họ đặt tên cho nàng là Nữ thần trong chiếc bình, bởi nàng được đặt trong một vật hình trụ. (Hình 60)

Không giống như các bức họa chạm khắc hay hình đắp nổi, bức tượng 3 chiều theo kích thước thật này của vị nữ thần tiết lộ nhiều đặc điểm thú vị về trang phục của nàng. Thứ nàng đội trên đầu không phải là một chiếc mũ của phụ nữ mà là một chiếc mũ bảo hộ đặc biệt; thò ra từ 2 bên của chiếc mũ đó và trùm khít lên tai là 2 đồ vật trông giống như tai nghe của phi công. Quanh cổ và trên ngực nàng là một chiếc vòng cổ gồm nhiều viên đá nhỏ (chắc hẳn là đá quý); nàng nắm trong tay một vật hình trụ có vẻ quá dày và nặng để làm một chiếc bình đựng nước.

Trên chiếc áo choàng làm bằng chất liệu trong suốt, 2 đai dây song song bắt chéo qua ngực nàng, hướng về phía sau và cố định một chiếc hộp kỳ lạ có hình chữ nhật. Chiếc hộp này được cố định vào phía sau cổ của nữ thần và nó được gắn chặt với chiếc mũ bảo hộ bằng một đai ngang. Dù chiếc hộp đó có chứa gì bên trong thì chắc hẳn nó phải rất nặng, bởi nó được gia cố thêm bằng 2 miếng đệm vai lớn. Trọng lượng của chiếc hộp này được tăng thêm bởi một chiếc ống được gắn với đế bằng một cái móc hình tròn. Toàn bộ gói thiết bị hoàn chỉnh này − bởi chắc chắn chúng là như vậy − được cố định bằng 2 dải dây đai bắt chéo sau lưng và trước ngực của nữ thần.

Sự tương đương giữa 7 đồ vật mà Inanna chuẩn bị cho những chuyến không trình của mình với trang phục và đồ vật trên người bức tượng ở Mari (và cũng có thể giống với bức tượng không còn nguyên vẹn được tìm thấy trong đền thờ Ishtar ở Ashur) là điều rõ ràng. Chúng ta thấy “hoa tai đo đạc” − tai nghe − trên tai nàng; những hàng hay “chuỗi” hạt đá nhỏ quanh cổ; “cặp đá” − 2 miếng đệm vai − trên vai nàng; “ống hình trụ bằng vàng” trên tay nàng và những sợi đai móc bắt chéo trước ngực. Thực tế nàng đang mặc “trang phục PALA” (“trang phục của Đấng Trị vì”) và nàng đội trên đầu chiếc mũ bảo hộ SHU.GAR.RA - một thuật ngữ có nghĩa đen là “thứ giúp đi xa vào vũ trụ.”

Tất cả những điều đó gợi ý cho ta rằng thứ trang phục mà Inanna mặc chính là trang phục của một phi hành gia hoặc nhà du hành vũ trụ.

Kinh Cựu ước gọi những “thiên thần” của Đức Chúa là malachim - theo nghĩa đen là “thiên sứ,” người truyền những thông điệp và thực hiện mệnh lệnh của các vị thần. Qua nhiều ví dụ, ta thấy rằng họ chính là những thiên binh: Jacob nhìn thấy họ đi lên một chiếc thang trời, Hagar (nữ tỳ của Abraham) được họ gọi từ trên trời cao và họ chính là những người gây ra sự hủy diệt từ trên không đối với Sodom và Gomorrah.

Những sự kiện trong Kinh thánh diễn ra trước khi 2 thành phố đầy tội lỗi đó bị phá hủy minh chứng cho thực tế rằng những thiên sứ này một mặt nhìn hoàn toàn giống như con người và mặt khác, họ có thể được xác định là “thiên thần” ngay khi người ta nhìn thấy. Chúng ta biết rằng họ xuất hiện rất đột ngột. Abraham “ngước mắt lên thì thấy 3 người đang đứng gần ông.” Sau khi cúi chào và gọi họ là “Ngài”, ông khẩn khoản “Xin đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ của Ngài” và mời họ rửa chân, nghỉ ngơi và ăn uống.

Làm theo những gì Abraham cầu xin, 2 vị thiên sứ (“người” thứ 3 hóa ra chính là Đức Chúa) hướng tới thành Sodom. Lot, cháu của Abraham “đang ngồi ở cửa thành Sodom; và khi thấy họ ông đứng lên và cúi sấp mặt xuống đất nói: Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại nhà tôi tớ các ngài đây để rửa chân và nghỉ đêm.” Sau đó “ông làm tiệc thết đãi và mời họ thưởng thức.” Khi tin tức về 2 người khách này loan truyền trong thành, “tất cả người dân trong thành, từ trẻ đến già, bao vây ngôi nhà và gọi Lot ra rồi hỏi: Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi?”.

Làm sao mà những người này − những người cũng ăn uống, ngủ nghỉ và rửa ráy đôi chân rã rời − lại có thể bị nhận ra ngay lập tức là thiên sứ của Đức Chúa như vậy? Lời giải thích hợp lý duy nhất chính là do những thứ họ đang mặc − mũ bảo hộ hay trang phục − hay thứ họ đang mang − vũ khí − khiến cho người khác nhận ra họ ngay lập tức. Việc họ mang những vũ khí đặc biệt chắc chắn là một khả năng: 2 “người” ở Sodom, sắp bị đám đông “hành hình” đã “khiến cho những người ngoài cửa ngôi nhà bị mù… khiến chúng không sao tìm thấy cửa ra vào.” Và một vị thiên sứ khác, lần này là xuất hiện trước mặt Gideon khi ông được chọn làm Quan tòa của Israel, trao cho ông một dấu hiệu thần linh bằng cách chạm chiếc gậy vào một hòn đá và từ hòn đá đó bùng lên một ngọn lửa.

Nhóm khai quật do Andrae dẫn đầu lại phát hiện ra một bức họa kỳ lại khác của Ishtar tại đền thờ nữ thần này ở Ashur. Bức họa này giống tượng điêu khắc trên tường hơn là hình đắp nổi, nó thể hiện vị nữ thần với một chiếc mũ bảo hộ trang trí hoa văn ôm sát đầu với những chiếc “tai nghe” thò ra như thể chúng có những chiếc ăng-ten phẳng riêng, cùng với một cặp kính đặc biệt cũng là một phần của chiếc mũ bảo hộ đó. (Hình 61)

Khỏi phải nói, bất cứ ai trông thấy một người dù là đàn ông hay đàn bà mặc loại trang phục đó sẽ nhận ra ngay lập tức rằng mình đang gặp một phi hành gia thần linh.

Những bức tượng đất sét được phát hiện trong các địa điểm khai quật ở Sumer với niên đại được cho vào khoảng 5.500 năm có thể là biểu tượng thô sơ của những malachim đó với vũ khí hình gậy trong tay. Ở một bức tượng, khuôn mặt lộ ra qua tấm che mặt của mũ giáp. Ở bức tượng khác, vị “thiên sứ” đội một chiếc mũ thần linh hình nón độc đáo và mặc một bộ trang phục đính những vật hình tròn không rõ chức năng. (Hình 62, 63)

Những đường viền xung quanh mắt hay những “mắt kính” của các bức tượng trên là đặc điểm thú vị nhất bởi vùng Cận Đông vào thiên niên kỷ 4 TCN tràn ngập những bức tượng hình đĩa khắc họa phần thân trên của các vị thần theo phương thức cách điệu hóa, nhấn mạnh đặc trưng nổi bật nhất của họ: một chiếc mũ hình chóp với tấm che mặt hay cặp mắt kính hình elip. (Hình 64) Một kho những bức tượng như vậy được tìm thấy ở Tell Brak, địa điểm thời tiền sử trên dòng sông Khabur, dòng sông mà nhiều thiên niên kỷ sau, Ezekiel đã trông thấy cỗ chiến xa thần thánh.

Chắc chắn không chỉ đơn thuần là sự trùng hợp khi người Hittite vốn giao lưu với người Sumer và Akkad qua ngả Khabur đã sử dụng ký hiệu làm biểu tượng chữ viết cho “các vị thần”, rõ ràng từ này đã được mượn từ “mắt” của các bức tượng đất sét đó. Cũng không có gì nghi ngờ khi biểu tượng hay ký hiệu tượng hình cho “thần linh” dưới dạng nghệ thuật hóa này đã thống trị nền nghệ thuật không chỉ ở vùng Tiểu Á mà còn của cả Hy Lạp sơ kỳ trong thời kỳ Minoa và Mycenaea. (Hình 65)

Hình 61

Hình 62

Hình 63

Hình 64

Hình 65

Các ghi chép cổ đại chỉ ra rằng các vị thần mang loại trang phục đặc biệt đó không chỉ trong các chuyến bay trên bầu trời Mặt đất mà còn cho các chuyến đi tới Thiên đường xa xôi. Khi kể về chuyến thăm thường lệ tới Thiên cung của Anu, chính Inanna giải thích rằng nàng có thể thực hiện được những chuyến hành trình như vậy bởi vì “chính Enlil đã tự tay khoác bộ trang phục ME thần thánh lên người ta.” Ghi chép đó trích dẫn lời Enlil nói với nàng:

Ngươi phải nhấc bộ ME lên,

Ngươi phải buộc chặt ME vào tay mình,

Ngươi phải thu nhặt ME,

Ngươi phải gắn ME lên ngực mình…

Hỡi Nữ hoàng của tất cả ME, hỡi tia sáng

Cùng với bàn tay của nàng nắm chặt 7 ME.

Một vị vua Sumer cổ đại được các vị thần mời lên Thiên đường tên là EN.ME.DUR.AN.KI, có nghĩa đen là “nhà vua có me kết nối Trời và Đất.” Một bản khắc của Nebuchadnezzar II mô tả quá trình xây dựng lại gian nhà đặc biệt để chứa “cỗ xe trời” của Marduk khẳng định rằng đây là một phần của “ngôi nhà được gia cố chứa 7 me của Thiên đường và Mặt đất.”

Các chuyên gia cho rằng me ở đây chính là “đồ vật chứa đựng năng lượng thần linh.” Theo nghĩa đen, thuật ngữ này bắt nguồn từ khái niệm “bơi trong dòng nước trên trời.” Inanna đã mô tả chúng là các phần của “bộ trang phục thần linh” mà nàng mặc mỗi khi du hành trong chiếc Tàu Thiên đường. Như vậy me chính là các bộ phận của thiết bị đặc biệt được mang trên người để bay lượn trên bầu trời Mặt đất cũng như vào vũ trụ.

Câu chuyện thần thoại Hy Lạp về Icarus kể rằng chàng đã tìm cách bay lên bằng cách dùng sáp gắn đôi cánh lông vũ lên người. Những bằng chứng từ vùng Cận Đông cổ đại chỉ ra rằng tuy các vị thần được khắc họa cùng với những đôi cánh để thể hiện khả năng bay lượn của họ − hay đôi khi mang trên mình bộ trang phục có cánh như một dấu hiệu chứng tỏ khả năng biết bay − nhưng họ không bao giờ cố gắng sử dụng những đôi cánh để bay. Thay vào đó, họ sử dụng phương tiện để thực hiện các chuyến không trình của mình.

Trong Kinh Cựu ước, ta biết rằng Jacob khi nghỉ đêm trên cánh đồng bên ngoài Haran đã nhìn thấy “một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời” trên đó “các sứ thần của Thiên Chúa” bận rộn lên xuống. Còn Thiên Chúa đứng trên đầu chiếc thang. Và Jacob vừa ngạc nhiên, vừa “sợ hãi nói”:

Quả thật, có Ðức Chúa ở nơi này

mà tôi không biết…

Nơi này đáng sợ thay!

Ðây là nhà của Thiên Chúa

và là Cửa Trời, chứ không phải là gì khác.

Câu chuyện này có 2 điểm thú vị. Điểm thứ nhất là những sứ thần lên xuống chiếc “Cổng Trời” này bằng cách sử dụng một công cụ cơ khí - một “chiếc thang.” Điểm thứ hai là cảnh tượng đó khiến cho Jacob hoàn toàn ngạc nhiên. “Ngôi nhà của Thiên Chúa,” “chiếc thang” và “các sứ thần của Thiên Chúa” không ở đó khi Jacob ngả lưng xuống để ngủ trên cánh đồng. “Bỗng nhiên cảnh tượng kỳ diệu đó xuất hiện. Và đến sáng thì ‘nhà của Thiên Chúa’, ‘chiếc thang’ và các sứ thần trên đó biến mất.”

Chúng ta có thể kết luận rằng thiết bị mà các sứ thần sử dụng là một loại tàu bay nào đó treo lơ lửng ở một vị trí nhất định và rồi lại biến mất khỏi tầm mắt sau đó một lúc.

Kinh Cựu ước cũng kể rằng nhà tiên tri Elijah không chết trên Mặt đất mà “bay lên Trời bằng một cơn Lốc Xoáy.” Đây không phải là sự kiện đột ngột ngoài dự kiến: việc Elijah thăng thiên đã được sắp đặt từ sẵn. Ông được yêu cầu tới Beth-El (Ngôi nhà của Thiên Chúa) vào một ngày nhất định. Các môn đệ của ông loan truyền tin đồn rằng ông chuẩn bị được đưa lên Trời. Khi họ chất vấn người phụ tá rằng tin đồn đó có phải là sự thực hay không, người phụ tá xác nhận rằng, quả thật “ngày hôm nay Thiên Chúa sẽ đưa Sư phụ đi xa.” Và sau đó:

Bỗng xuất hiện một cỗ xe lửa,

và những con ngựa lửa…

Rồi Elijah bay lên Trời

bằng một cơn Lốc Xoáy.

Nổi tiếng hơn và được mô tả kỹ càng hơn chính là cỗ xe trời xuất hiện trước mặt nhà tiên tri Ezekiel, người sống cùng những người bị lưu đày xứ Judaea bên bờ sông Khabur phía bắc Mesopotamia.

Thiên đường mở ra,

và ta nhìn thấy hình bóng của Thiên Chúa.

Những gì Ezekiel nhìn thấy là một sinh vật giống người tỏa ánh hào quang chói lọi đang ngồi trên một chiếc ngai ngự trên một “vòm trời” bằng kim loại bên trong cỗ xe. Cỗ xe có thể di chuyển theo mọi hướng trên những chiếc bánh lồng bánh và cất lên khỏi mặt đất theo phương thẳng đứng này được nhà tiên tri mô tả như một cơn lốc rực sáng.

Và ta thấy

một cơn Lốc Xoáy đến từ phía bắc,

như một đám mây lớn chớp lòe ánh lửa

và ánh sáng tỏa rạng xung quanh.

Và trong nó, bên trong ánh lửa,

ánh sáng rực rỡ như vầng hào quang.

Một số chuyên gia nghiên cứu về mô tả trong Kinh thánh hiện nay (như Josef F. Blumrich thuộc Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Hoa Kỳ) đã đưa ra kết luận rằng “cỗ xe” mà Ezekiel nhìn thấy chính là một chiếc trực thăng có khoang lái nằm trên 4 cột, mỗi cột có một cánh quạt – quả là một “cơn lốc xoáy” thực.

Khoảng hai thiên niên kỷ trước, khi vị vua người Sumer tên là Gudea cho xây ngôi đền thờ phụng thần Ninurta, ông viết rằng trước mặt ông xuất hiện “một người tỏa sáng như Người Trời… với chiếc mũ bảo hộ trên đầu, ngài là một vị thần.” Khi Ninurta và 2 vị thần đồng hành xuất hiện trước Gudea, họ đứng bên cạnh “con chim gió thần màu đen” của Ninurta. Hóa ra mục đích chính của việc xây dựng ngôi đền là để tạo ra một khu an toàn, một căn phòng kín đặc biệt bên trong khuôn viên đền thờ cho “con chim thần” này.

Gudea kể rằng việc xây dựng căn phòng này đòi hỏi phải có những chiếc rầm lớn và rất nhiều đá được đưa đến từ những nơi xa xôi. Chỉ khi “con chim thần” được đặt vào trong căn phòng đó thì việc xây dựng ngôi đền mới được coi là hoàn thành. Và khi được đặt vào vị trí thì “con chim thần” này “có thể tác động tới Trời” và có khả năng “đưa Trời và Đất sát lại gần nhau.” Vật thể đó quan trọng – “thiêng liêng” tới mức nó thường xuyên được canh giữ bởi 2 “thần khí” là “thợ săn siêu hạng” và “sát thủ siêu hạng”, những vũ khí phóng ra các chùm sáng và tia sáng chết người.

Chúng ta có thể thấy sự giống nhau rõ ràng trong Kinh thánh và các ghi chép của người Sumer về các phương tiện và những sinh vật trong đó. Qua việc họ mô tả rằng những phương tiện này là “chim”, “chim gió” hay “lốc xoáy” có thể vừa bay lên trời vừa tỏa sáng khiến chúng ta tin chắc rằng chúng là loại cỗ máy có khả năng bay nào đó.

Những bức tranh tường bí ẩn được tìm thấy ở Tell Ghassul, một khu vực nằm ở phía đông Biển Chết mà ta chưa rõ thời cổ đại có tên là gì, có thể soi sáng cho vấn đề này. Có niên đại vào khoảng năm 3500 TCN, những bức tranh tường này khắc họa một chiếc “la bàn” 8 cạnh, đầu của một người đội mũ bảo hộ trong một gian hình chuông và 2 bản vẽ tàu bay cơ khí rất có thể là những “cơn lốc xoáy” của thời cổ đại. (Hình 66)

Hình 66

Các ghi chép thời cổ đại cũng miêu tả loại phương tiện nào đó đưa các phi hành gia bay lên trời. Gudea kể rằng khi “con chim thần” bay vòng quanh vùng, nó “chớp chớp trên những tòa nhà cao.” Căn phòng được bảo vệ cẩn mật kia được gọi là MU.NA.DA.TUR.TUR (“nơi nghỉ ngơi bằng đá cứng của MU”). Urukagina, vua xứ Lagash đã nói về “con chim gió thần màu đen” như sau: “Chiếc MU sáng bừng lên như ngọn lửa ta đốt bay cao và mạnh hơn.” Tương tự, Lu-Utu, vua xứ Umma vào thiên niên kỷ 3 TCN đã cho xây dựng một nơi dành cho mu “xuất hiện từ ngọn lửa” của thần Utu “tại một địa điểm được định sẵn trong ngôi đền của thần.”

Vua Nebuchadnezzar II của Babylon trong bản ghi chép về việc xây dựng lại ngôi đền thiêng thờ thần Marduk đã nói rằng phía trong những bức tường được gia cố bằng gạch nung và đá cẩm thạch mã não:

Ta dựng lên phần đầu của con tàu ID.GE.UL

Cỗ xe của hoàng tử Marduk;

Con tàu ZAG.MU.KU mà ta nhìn thấy lối vào của nó,

Phương tiện tối ưu nối liền Trời và Đất,

nằm chính giữa căn phòng ta cho xây kín,

hai bên thân được che chắn.

ID.GE.UL, tên gọi đầu tiên được sử dụng để chỉ loại “phương tiện tối ưu” hay “Cỗ xe của Marduk” này có nghĩa đen là “vươn cao lên trời, tỏa sáng trong đêm.” ZAG.MU.KU, tên gọi thứ 2 chỉ phương tiện – rõ ràng là một “con tàu” được giấu trong một căn phòng đặc biệt – có nghĩa là “MU sáng rực để đi xa.”

Thật may mắn, chúng ta có thể chứng minh được sự tồn tại thực sự của chiếc mu – vật thể hình nón có đầu hình bầu dục được cất giấu trong căn phòng thiêng bên trong những ngôi đền của các vị Thần Vĩ đại trên Thiên đường và Mặt đất. Tại vùng Byblos (trong Kinh thánh là Gebal) bên bờ biển Địa Trung Hải thuộc Lebanon ngày nay người ta đã tìm thấy một đồng tiền cổ có hình Ngôi đền Vĩ đại của Ishtar. Tuy người ta cho rằng ngôi đền này được xây dựng vào thiên niên kỷ thứ nhất TCN nhưng thực tế các ngôi đền được xây đi xây lại trên cùng một địa điểm và tương ứng với thiết kế ban đầu chắc chắn đồng nghĩa với việc chúng ta đang được chứng kiến những thành tố cơ bản của ngôi đền Byblos nguyên thủy có niên đại nhiều thiên niên kỷ trước.

Đồng tiền này thể hiện hình ảnh một ngôi đền có 2 phần. Phần phía trước là cấu trúc đền chính đầy ấn tượng với cổng vào dạng cột. Phía sau nó là một khu đất kín, hay “khu vực thiêng” được che chắn và bảo vệ bởi những bức tường cao và dày. Rõ ràng đây là một khu đất cao, bởi người ta chỉ có thể lên đó bằng cách bước trên nhiều bậc thang. (Hình 67)

Chễm chệ chính giữa khu đất thiêng này là một chiếc bệ đặc biệt, cấu trúc dầm ngang của nó giống như của tháp Eiffel, như thể nó được dựng lên để chịu một trọng lượng lớn. Và trên bệ đó chính là vật thể được che chắn và bảo vệ: vật thể này chỉ có thể là một chiếc mu.

Hình 67

Giống như đa số các từ âm tiết của tiếng Sumer khác, mu có một nghĩa chính, đó là “thứ vươn lên thẳng đứng.” Trong số hơn 30 nghĩa khác nhau của nó có những nghĩa như “độ cao”, “lửa”, “mệnh lệnh”, “một thời kỳ được tính” cũng như sau này là “thứ mà một người được nhớ đến.” Nếu lần theo ký hiệu chữ viết của mu từ chữ cách điệu hóa hình nêm trong tiếng Assyria và Babylon tới chữ tượng hình Sumer nguyên thủy thì chúng ta sẽ có được những bằng chứng hình tượng sau:

Từ những hình ảnh này chúng ta thấy rõ một khoang hình nón hoặc có gắn thêm hình mũi tên. “Từ Khoang Vàng trên trời cao ta sẽ dõi theo các ngươi” là lời hứa của Inanna với vị vua người Assyria. Có phải chiếc mu này chính là “Khoang Vàng” đó?

Một bài hát ngợi ca Inanna/Ishtar và những chuyến hành trình của nàng trên chiếc Tàu Thiên đường chỉ rõ rằng mu là phương tiện mà các vị thần dùng để du hành trên bầu trời cao:

Nữ thần của Thiên đường:

Nàng khoác lên mình trang phục của Thiên đường.

Nàng can đảm hướng tới Thiên đường.

Trên mọi xứ sở của con người

nàng bay qua trong chiếc MU của mình.

Nữ thần trong chiếc MU

tới những tầng cao Thiên đường bằng những đôi cánh hạnh phúc

Qua những chốn nghỉ ngơi

nàng bay trong chiếc MU của mình.

Đây là bằng chứng chỉ ra rằng người dân phía đông Địa Trung Hải đã từng nhìn thấy một vật thể có hình dạng tên lửa như vậy không phải trong một gian phòng kín phía trong đền thờ mà đang thực sự bay trên bầu trời. Chẳng hạn như những hình chạm khắc của người Hittite thể hiện những tên lửa hành trình, tên lửa gắn trên bệ phóng và một vị thần phía trong một chiếc khoang rực sáng trên nền trời đầy sao. (Hình 68)

Hình 68

Giáo sư H. Frankfort với cuốn Cylinder Seals (tạm dịch: Những con dấu lăn) nghiên cứu nghệ thuật chế tạo những con dấu lăn của người Mesopotamia cùng các đối tượng được khắc họa trên những con dấu đó ở thế giới cổ đại đã tiến hành tái tạo hình ảnh trên một con dấu được tìm thấy ở đảo Crete có niên đại vào thế kỷ XIII TCN. Hình ảnh trên con dấu đó khắc họa rõ ràng một tàu tên lửa đang di chuyển trên bầu trời và được đẩy lên bằng những ngọn lửa phụt ra từ sau đuôi. (Hình 69)

Những con ngựa có cánh, những con vật quyện lấy nhau, những quả cầu có cánh và vị thần với những chiếc sừng nhô ra từ trên mũ là tất cả những chủ đề của người Mesopotamia mà ta biết. Ta có thể khẳng định chắc chắn rằng quả tên lửa trên con dấu tìm thấy tại đảo Crete cũng là một vật thể quen thuộc khắp vùng Cận Đông cổ đại.

Quả thật, ta có thể thấy hình quả tên lửa có “cánh” hay vây và có “thang” leo trên một tấm đất sét được tìm thấy tại Gezer, một thị trấn thuộc Canaan cổ đại nằm ở phía tây Jerusalem. Hình khắc kép trên một con dấu tương tự cũng thể hiện một quả tên lửa trên mặt đất cạnh một cây cọ. Thuộc tính bay hoặc đích đến của các vật thể đó được thể hiện bằng các biểu tượng Mặt trời, Mặt trăng và các chòm sao hoàng đạo trang trí cho con dấu. (Hình 70)

***

Các ghi chép của người Mesopotamia đề cập đến các gian phòng kín trong đền thờ, hay những chuyến hành trình lên Thiên đường của các vị thần, hay thậm chí những trường hợp người phàm lên Thiên đường đều sử dụng thuật ngữ mu của người Sumer hoặc từ phái sinh của nó trong tiếng Semite là shu-mu (“thứ là một mu”), sham, hay shem. Bởi thuật ngữ này cũng có nghĩa là “thứ mà nhờ nó một người được nhớ đến” nên nó cũng mang nghĩa là “tên gọi”. Nhưng khi áp dụng rộng rãi từ “tên gọi” này cho các ghi chép cổ đề cập đến vật thể dùng để bay thì nó lại khiến cho ý nghĩa thực sự của các ghi chép này trở nên khó hiểu.

Bởi vậy mà G. A. Barton (The Royal Inscriptions of Sumer and Akkad – tạm dịch: Những ghi chép của Hoàng gia Sumer và Akkad) đã đề ra cách diễn dịch được chấp nhận rộng rãi cho bản ghi chép về đền thờ của Gudea – rằng “MU của nó sẽ ôm trọn các xứ từ chân trời tới chân trời” được dịch thành “Tên của nó sẽ tràn ngập các xứ.” Một bài hát ca ngợi Ishkur tán dương chiếc “MU phát ra tia sáng” của chàng có thể vươn lên các tầng cao của Thiên đường có thể được diễn tả như sau: “Tên của ngươi tỏa sáng, nó vươn tới thiên đỉnh.” Tuy nhiên, với cảm nhận rằng từ mu hay shem này có thể là chỉ một vật thể chứ không phải là “tên gọi” nên một số chuyên gia đã coi thuật ngữ này như một hậu tố hay một hiện tượng ngữ pháp không cần phải dịch nghĩa và nhờ đó hoàn toàn tránh được tranh cãi.

Việc lần theo từ nguyên của thuật ngữ này và nguồn gốc để cụm từ “khoang trên trời” mang nghĩa “tên gọi” không phải là quá khó. Người ta đã tìm thấy nhiều bức tượng điêu khắc thể hiện một vị thần bên trong một khoang hình tên lửa như trong vật thể có niên đại cực kỳ cổ xưa này (hiện nay đang thuộc quyền sở hữu của Bảo tàng Đại học Philadelphia), trong đó tính chất bay được của khoang được thể hiện bằng hình 12 quả cầu trang trí xung quanh. (Hình 71)

Hình 69

Hình 70

Tương tự nhiều con dấu cũng khắc họa một (có khi là hai) vị thần bên trong “khoang thần” hình bầu dục như vậy; đa phần các vị thần bên trong những hình bầu dục thiêng liêng được khắc họa này là các đối tượng được tôn thờ.

Với nguyện ước thờ phụng các vị thần trên khắp xứ sở chứ không chỉ trong “ngôi nhà” chính thức của từng vị thần, con người cổ đại đã hình thành phong tục mô phỏng vị thần đó trong chiếc “khoang trên trời” thần thánh. Những cột đá mô phỏng phương tiện hình bầu dục được dựng lên ở các địa điểm được chọn và hình ảnh của vị thần được khắc vào cột đá đó để thể hiện rằng ngài đang ở trong vật thể này.

Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi các vị vua và Đấng Cai trị – những người coi những cột đá đó (được gọi là bia đá) gắn liền với khả năng bay tới Thiên cung – bắt đầu khắc họa hình ảnh của chính mình lên tấm bia này như một cách tự kết nối với Cung Vĩnh hằng. Nếu thân xác họ không thể thoát khỏi quy luật của sự quên lãng thì điều quan trọng là ít nhất “tên tuổi” của họ cũng được nhớ đến muôn đời. (Hình 72)

Hình 71

Hình 72

Hình 73

Ta có thể biết thêm về mục đích mô phỏng một chiếc phi cơ phản lực của những cột đá tưởng niệm này qua thuật ngữ mà người cổ đại sử dụng để chỉ những tấm bia đá đó. Người Sumer gọi chúng là NA.RU (“cột đá bay lên”). Người Akkad, Babylon và Assyria gọi chúng là naru (“vật thể phát ra ánh sáng”). Người Amurru gọi chúng là nuras (“vật thể phụt lửa” – trong tiếng Hebrew, ner vẫn còn có nghĩa là một chiếc cột phát ra ánh sáng, nên hiện nay có nghĩa là “nến”). Trong hệ ngôn ngữ Ấn-Âu của người Hurrian và Hittite, bia đá này được gọi là hu-u-ashi (“con chim lửa bằng đá”).

Các cứ liệu trong Kinh thánh cũng đề cập đến hai loại bia tưởng niệm tương tự là yad và shem. Nhà tiên tri Isaiah đưa những người dân đau khổ xứ Judaea tới tương lai an toàn và tươi sáng hơn mà Thiên Chúa hứa hẹn:

Và ta sẽ cho họ,

Trong Ngôi nhà và bên trong những bức tường của ta,

Một yad và một shem.

Dịch theo nghĩa đen thì đây là những thứ làm nên lời hứa đưa đến cho dân chúng “bàn tay” và “tên gọi” của Thiên Chúa. May mắn thay, từ những bia tưởng niệm được gọi là yad vẫn còn tồn tại đến ngày nay ở Vùng đất Thánh, chúng ta biết rằng chúng được nhận biết bằng phần đầu có hình chóp tháp. Trong khi đó, shem lại là bia tưởng niệm có chóp hình bầu dục. Có vẻ như cả 2 loại bia này là sự mô phỏng của “Khoang Trời”, loại phương tiện mà các vị thần sử dụng để bay tới Cung Vĩnh hằng. Thực tế, ở Ai Cập cổ đại, những tín đồ sùng đạo thực hiện các chuyến hành hương tới một ngôi đền đặc biệt ở Heliopolis để chiêm ngưỡng và cúng bái ben-ben – một vật thể hình chóp tháp mà các vị thần sử dụng để xuống Mặt đất từ thời thượng cổ. Các vị pharaoh Ai Cập khi băng hà đều được tổ chức lễ “mở miệng”, qua đó người ta cho rằng họ sẽ được đưa lên Cung điện của Sự sống Vĩnh hằng bằng một chiếc yad hay shem tương tự. (Hình 73)

Những người giải thích Kinh thánh khăng khăng diễn giải tất cả những từ shem mà họ gặp bằng ý nghĩa “tên gọi” đã phớt lờ nghiên cứu nhìn xa trông rộng của G. M. Redslob (trong cuốn Zeitschrift der Deutschen Morgenlandischen Gesellschaft – tạm dịch: Tạp chí xã hội phương Đông Đức) được xuất bản hơn một thế kỷ trước, trong đó ông chỉ ra rằng thuật ngữ shem và shamaim (“thiên đường”) bắt nguồn từ từ gốc shamah, có nghĩa là “thứ ở trên cao”. Redslob cho rằng khi Kinh Cựu ước kể về việc Vua David “chế tạo một shem” để đánh dấu chiến thắng trước người Aramaic thì chắc chắn không phải vị vua này “tạo một tên gọi” mà là dựng một bia tưởng niệm hướng lên trời.

Việc nhận thức rằng từ mu hay shem trong các ghi chép của người Mesopotamia không phải có nghĩa là “tên gọi” mà phải đọc là “phương tiện bay” đã mở ra một hướng tiếp cận cho việc hiểu thấu ý nghĩa thực sự của nhiều câu chuyện cổ, trong đó có cả câu chuyện về Tháp Babel trong Kinh thánh.

Chương 11 trong cuốn Sáng Thế Ký kể về nỗ lực của con người nhằm dựng lên một shem. Sự kiện trong Kinh thánh này được kể bằng ngôn ngữ súc tích (và chính xác) đề cập đến thực tế lịch sử. Thế nhưng nhiều thế hệ các chuyên gia và các dịch giả đã tìm cách diễn giải câu chuyện này chỉ theo nghĩa bóng bởi theo những gì họ biết thì đó là một câu chuyện đề cập đến khát khao tự mình “tạo dựng một tên gọi” của Nhân loại. Hướng tiếp cận đó đã bỏ khuyết ý nghĩa thực tế của câu chuyện; trong khi kết luận của chúng ta về ý nghĩa thực sự của từ shem khiến cho câu chuyện lấy lại được ý nghĩa như nó phải có đối với chính những con người cổ đại.

Câu chuyện về Tháp Babel trong Kinh thánh kể về những sự kiện diễn ra sau quá trình phục hồi dân số Mặt đất sau trận Đại Hồng thủy, khi một số người “đến từ phía đông và tìm thấy một đồng bằng trên vùng đất Shin’ar thì đã định cư ở đó.”

Vùng đất Shin’ar tất nhiên là Xứ Sumer, thuộc vùng đồng bằng nằm giữa 2 con sông phía nam Mesopotamia. Và những con người đó, với kiến thức đã biết về cách làm gạch và xây dựng công trình cao tầng của nền văn minh đô thị, đã nói:

Ta hãy xây cho mình một thành phố,

và một tháp có đỉnh cao chọc trời;

và ta hãy làm cho mình một shem,

để khỏi bị phân tán trên khắp Mặt đất.

Nhưng Đức Chúa không tán thành kế hoạch này của con người.

Ðức Chúa xuống trần,

xem thành và tháp con cái loài người đang xây.

Ðức Chúa phán: “Ðây,

tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng,

chúng mới khởi công mà đã như thế;

Thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm

mà không làm được.

Và Đức Chúa nói với một số người đồng hành mà Kinh Cựu ước không nêu tên:

Nào, ta cùng xuống,

và làm xáo trộn tiếng nói của chúng,

Khiến chúng không thể hiểu nhau được nữa.”

Thế là Ðức Chúa phân tán họ từ chỗ đó

ra khắp nơi trên Mặt đất,

và họ phải ngừng xây thành phố.

Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Babel,

vì ở đó, Ðức Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên Mặt đất,

Cách giải thích nghĩa truyền thống của từ shem là “tên gọi” đã khiến cho câu chuyện trở nên tối nghĩa với nhiều thế hệ. Tại sao những cư dân cổ đại của thành Babel – người Babylon – phải tự “tạo một tên gọi”, tại sao “tên gọi” này lại được đặt trên ngọn “tháp có đỉnh cao chọc trời” và tại sao việc “tạo một tên gọi” có thể chống lại việc Con người bị phân tán khắp Mặt đất?

Nếu tất cả những gì mà những người này muốn làm nên (theo cách giải thích của các chuyên gia) là “danh tiếng” cho chính mình thì tại sao nỗ lực này lại làm phiền lòng Đức Chúa? Tại sao việc tạo dựng một “tên gọi” lại được Đức Chúa coi là kỳ công sau khi “chẳng có gì chúng định làm mà không làm được”? Cách giải thích truyền thống chắc chắn là không phù hợp trong việc giải thích tại sao Đức Chúa thấy cần thiết phải triệu tập những vị thần không được nêu tên khác xuống trần và chấm dứt nỗ lực này của Con người.

Chúng tôi tin rằng câu trả lời cho những vấn đề trên trở nên hợp lý, hay thậm chí là rõ ràng hơn, khi chúng ta hiểu nó với nghĩa “phương tiện bay” thay vì “tên gọi” cho từ shem, thuật ngữ được dùng trong bản gốc tiếng Hebrew của Kinh thánh. Như vậy câu chuyện này đề cập đến nỗi lo ngại của Nhân loại rằng khi họ bị phân tán trên Mặt đất, họ sẽ mất liên lạc với nhau. Thế nên họ quyết định chế tạo một “phương tiện bay” và xây một tháp phóng cho phương tiện đó để họ cũng có thể bay trong một chiếc mu “trên khắp xứ sở của Con người” như nữ thần Ishtar chẳng hạn.

Một phần bản ghi chép của người Babylon có tên là “Sử thi Sáng tạo thế giới” kể rằng “Cánh cổng của các Vị thần” đầu tiên được chính các vị thần xây dựng ở Babylon. Những vị thần bình thường, Anunnaki được lệnh:

Xây dựng Cánh cổng của Các Vị thần…

Hãy đúc gạch cho công trình đó.

Shem của nó phải được đặt vào nơi đã định.

Trong 2 năm, các Anunnaki làm việc cật lực – “áp dụng cách xây… bằng gạch đúc” – cho đến khi “chúng vươn tới đỉnh Eshagila” (“Ngôi nhà của các vị Thần Vĩ đại”) và “xây tháp bậc thang vươn đến tận Trời cao.”

Như vậy Nhân loại quả là táo tợn khi tự xây tháp phóng cho mình trên địa điểm vốn từng phục vụ cho mục đích của các vị thần, bởi địa danh Babili của nó có nghĩa đen là “Cánh cổng của các Vị thần”.

Còn dẫn chứng nào khác khớp nối câu chuyện trong Kinh thánh với cách diễn giải của chúng ta về nó nữa không?

Nhà thơ, nhà sử học người Babylon, Berossus, người biên soạn lịch sử Nhân loại vào thế kỷ thứ III TCN, đã kể rằng: “những cư dân đầu tiên của xứ sở nổi tiếng vì sức mạnh của mình… đã tiến hành dựng một tòa tháp có ‘đỉnh’ vươn tới tận trời.” Nhưng ngọn tháp đó đã bị các vị thần và những cơn gió mạnh làm đổ, “và các vị thần làm xáo trộn ngôn ngữ của họ, những người trước đó vẫn cùng nói chung một thứ tiếng”.

George Smith (The Chaldean Account of Genesis – tạm dịch: Sáng Thế Ký dưới cái nhìn của người Chaldea) phát hiện trong các ghi chép của nhà sử học Hy Lạp Hestaeus có một báo cáo rằng những người sống sót sau trận Đại Hồng thủy đã tới vùng Senaar ở Babylon theo đúng “các truyền thống xưa” nhưng ở đó họ bị phân rẽ khắp nơi vì sự xáo trộn của ngôn ngữ. Nhà sử học Alexander Polyhistor (thế kỷ thứ I TCN) viết rằng tất cả những người đó vốn cùng nói một loại ngôn ngữ. Sau đó họ tiến hành xây dựng một tòa tháp cao lớn để “trèo lên trời”. Nhưng các vị Chủ thần đã làm tiêu tan công trình của họ bằng cách tạo ra một cơn lốc xoáy; mỗi bộ tộc được trao một loại ngôn ngữ khác nhau. “Thành trì diễn ra sự kiện này là Babylon.”

Đến nay ít ai có thể nghi ngờ rằng những câu chuyện trong Kinh thánh cũng như những báo cáo của các sử gia Hy Lạp 2.000 năm trước và bậc tiền bối Berossus của họ đều có nguồn gốc ở Sumer. A. H. Sayce (The Religion of the Babylonians – Tôn giáo của người Babylon) kể về việc đọc được trên một tấm đất sét bị vỡ trong Bảo tàng Anh “dị bản câu chuyện xây Tháp Babel của người Babylon”. Trong tất cả các trường hợp, nỗ lực vươn tới trời xanh dẫn đến hậu quả sự bất đồng ngôn ngữ là những yếu tố cơ bản của dị bản này. Người Sumer cũng có những ghi chép khác về việc một vị thần nổi giận đã cố ý tạo ra hiện tượng bất đồng ngôn ngữ của Con người.

Có vẻ như Con người thời đó không sở hữu công nghệ cần thiết cho một dự án hàng không như vậy; vì thế họ cần sự hướng dẫn và hợp tác của một vị thần hiểu biết. Liệu có vị thần nào đã bất chấp các vị thần khác để giúp đỡ Con người không? Một con dấu của người Sumer khắc họa cuộc đối đầu giữa những vị thần có vũ khí dường như là vì tranh cãi xoay quanh việc xây dựng một tòa tháp bậc thang của Con người. (Hình 74)

Một chiếc cột đá của người Sumer hiện được trưng bày ở bảo tàng Louvre, Paris có thể là minh chứng cho sự việc xảy ra trong cuốn Sáng Thế Ký. Chiếc cột này được Naram-Sin, vua xứ Akkad làm ra vào khoảng năm 2300 TCN và các chuyên gia cho rằng nó thể hiện những chiến thắng của nhà vua trước kẻ thù. Nhưng nhân vật trung tâm trên con dấu này là một vị thần chứ không phải là một vị vua của người trần, bởi nhân vật này đội một chiếc mũ có sừng – dấu hiệu độc quyền của các vị thần. Hơn nữa, nhân vật trung tâm này dường như không phải đang lãnh đạo nhóm người nhỏ hơn mà là đang chà đạp họ. Còn nhóm người này dường như không phải đang tham gia vào cuộc chiến tranh mà đang tiến lên phía trước và thể hiện lòng ngưỡng mộ vật thể hình nón có kích thước tương đương vốn cũng đang thu hút sự chú ý của vị thần. Với vũ khí là một cây cung và một cây thương trong tay, có vẻ như vị thần này nhìn vật thể đó với ánh mắt đe dọa hơn là ngưỡng mộ. (Hình 75)

Vật thể hình nón này được thể hiện vươn tới 3 thiên thể. Nếu như kích thước, hình dạng và mục đích thể hiện rằng nó là một chiếc shem, thì con dấu này khắc họa hình ảnh một vị thần giận dữ được trang bị vũ khí đầy đủ đang giày xéo lên những con người ca ngợi việc dựng lên một shem.

Các ghi chép của người Mesopotamia lẫn các câu chuyện trong Kinh thánh đều truyền đạt một bài học như nhau: Những cỗ máy bay được là dành riêng cho các vị thần, không phải cho Con người.

Cả các ghi chép của người Mesopotamia và Kinh thánh đều khẳng định rằng con người chỉ có thể lên tới được Thiên Cung theo ý muốn của các vị thần. Và trong trường hợp đó, chúng ta lại có thêm nhiều những câu chuyện về các chuyến đi tới Thiên đường và thậm chí là những chuyến bay vào vũ trụ.

***

Hình 74

Hình 75

Kinh Cựu ước ghi nhận một vài trường hợp người trần lên tới Thiên đường.

Người đầu tiên là Enoch, vị tổ phụ trước thời kỳ Đại Hồng thủy, là bạn và là người “sánh bước cùng Thiên Chúa”. Ông là vị tổ phụ thứ 7 trong dòng dõi của Adam và là cụ của Noah, người anh hùng trong trận Đại Hồng thủy. Chương thứ 5 của cuốn Sáng Thế Ký liệt kê phả hệ của tất cả các vị tổ phụ và tuổi thọ của họ - ngoại trừ Enoch, “người đã được Đức Chúa đưa đi xa”. Theo truyền thuyết và ám chỉ thì Đức Chúa đã đưa Enoch lên trời để thoát khỏi trần tục trên mặt đất. Người trần thứ hai là nhà tiên tri Elijah, người đã được nhấc lên khỏi mặt đất và bay về trời trong một “cơn lốc xoáy”.

Trường hợp thứ ba ít người biết đến là câu chuyện trong Kinh Cựu ước về một người trần đã đến Thiên Cung và được trao cho trí tuệ lớn, đó là câu chuyện về Đấng Trị vì xứ Tyre (kinh đô của người Phoenicia ở bờ biển phía đông Địa Trung Hải). Trong Chương 28 của Sách Tiên tri Ezekiel có viết rằng Đức Chúa lệnh cho nhà tiên tri nhắc nhở nhà vua hoàn hảo và thông thái về việc Đức Chúa cho phép ông ta tới gặp các vị thần:

Ngươi là mẫu người tuyệt hảo

đầy khôn ngoan và đẹp tuyệt vời.

Ngươi cư ngụ tại Eden, thửa vườn của Thiên Chúa;

áo của ngươi đính toàn đá quý…

Ta đặt ngươi làm Cherub chở che;

ngươi ở trên núi thánh của Thiên Chúa,

ngươi như một vị thần,

di chuyển bên trong Đá hồng Phụt lửa.

Đoán trước rằng vua Tyre sẽ chết trong tay của những kẻ ngoại bang ngay cả khi Vua xưng với chúng rằng: “Ta là một vị thần”, sau đó Đức Chúa bảo với Ezekiel nguyên do: Sau khi nhà vua được đưa tới Thiên Cung và được tiếp cận với sự khôn ngoan và giàu có, trái tim ông ta “trở nên ngạo mạn”, ông ta sử dụng trí khôn ngoan của mình một cách lầm lạc và làm ô uế các đền thờ.

Vì ngươi đem lòng tự cao tự đại nên ngươi đã nói:

“Ta là thần;

ta ngự trên ngai các thần, giữa trùng dương.”

Ngươi chỉ là người, chứ không phải là thần

mà lại dám cho mình ngang hàng với thần thánh.

Các ghi chép của người Sumer cũng kể về một số người có đặc ân được lên Thiên đường. Một trong số đó là Adapa, “hình mẫu Con người” do Ea tạo ra. Ea đã “trao cho chàng sự thông thái nhưng không trao cho sự bất tử.” Sau nhiều năm trôi qua, Ea quyết định cứu vớt Adapa khỏi quy luật sinh lão bệnh tử của trần thế bằng cách trao cho ông một chiếc shem giúp ông có thể lên tới Thiên Cung của Anu để được hưởng chút Bánh Trường sinh và Nước Trường sinh. Khi Adapa đến Thiên Cung của Anu, Anu muốn biết ai đã cho Adapa chiếc shem đưa ông tới Thiên đường.

Có nhiều dẫn chứng quan trọng được tìm thấy trong cả Kinh thánh và các câu chuyện của người Mesopotami về những chuyến đi hiếm hoi lên Thiên Cung của Con người. Giống như vua xứ Tyre, Adapa cũng là “mẫu người” tuyệt hảo. Tất cả họ đều phải sử dụng shem – “đá phụt lửa” – để lên tới “Vườn Eden” trên trời. Một số người bay lên rồi sau đó trở về Mặt đất; những người khác, giống như người anh hùng của Mesopotamia trong trận Đại Hồng thủy, đã ở lại bầu bạn cùng các vị thần. Vị Vua Sumer, Gilgamesh đã theo đuổi hành trình tìm kiếm vị “Noah” của Mesopotamia này và biết được từ ông bí mật của Cây Trường sinh.

Cuộc tìm kiếm Cây Trường sinh trong vô vọng của Con người là chủ đề của một trong những bản sử thi dài nhất, hào hùng nhất mà nền văn minh Sumer để lại cho kho tàng văn hóa của nhân loại. Được các chuyên gia đương đại đặt tên là “Sử thi Gilgamesh”, câu chuyện cảm động kể về vị vua xứ Uruk vốn là con của người cha trần tục và người mẹ thần thánh. Kết quả Gilgamesh được coi là “2/3 là thần, 1/3 là người”, trạng thái thúc giục ông tìm cách thoát khỏi quy luật sinh lão bệnh tử của người trần.

Qua truyền thuyết ông biết được rằng một trong những ông tổ của mình, Utnapishtim – người anh hùng trong trận Đại Hồng thủy – đã được bất tử và được đưa lên Thiên Cung cùng với vợ mình. Vì vậy Gilgamesh quyết định tới đó và xin ông tổ của mình ban cho bí quyết để có cuộc sống bất tử.

Vị vua này cho rằng động lực thúc đẩy ông theo đuổi mục đích của bản thân là lời mời của Anu. Đoạn sử thi nghe giống như đoạn mô tả về cảnh tượng một quả tên lửa hết nhiên liệu rơi xuống Mặt đất. Sau đó Gilgamesh thuật lại với mẹ mình là nữ thần NIN.SUN như sau:

Mẹ của con,

Suốt đêm qua con cảm thấy rất hân hoan

và con bước đi giữa những nhà quý tộc.

Những ngôi sao tụ tập trên bầu trời.

Đồ vật của Anu rơi về phía con.

Con tìm cách nhấc nó lên; nó quá nặng.

Con tìm cách di chuyển nó nhưng bất lực!

Người dân thành Uruk tụ tập xung quanh nó,

Trong khi các quý tộc hôn chân nó.

Khi con quyết tâm, họ cùng trợ giúp con.

Con nhấc nó lên. Con mang nó tới đây cho mẹ.

Phần giải thích của mẹ Gilgamesh cho sự việc đó trong bản ghi chép đã bị mất nên chúng ta không biết rõ. Nhưng rõ ràng, Gilgamesh đã được tiếp thêm động lực bởi cảnh tượng vật thể rơi đó – “đồ vật của Anu” – để khởi hành chuyến phiêu lưu của mình. Trong phần mở đầu của thiên sử thi, người kể chuyện gọi Gilgamesh là “Đấng Thông thái, người có khả năng chiêm nghiệm được mọi thứ”:

Ngài nhìn thấy những điều bí mật

Ngài biết những gì mà con người còn chưa tỏ tường;

Ngài còn mang đến những cơn thủy triều

vào thời kỳ trước trận Đại Hồng thủy.

Ngài cũng thực hiện chuyến hành trình xa xôi,

đầy nhọc nhằn và nhiều hiểm nguy;

Ngài trở về và cho khắc những việc làm của mình

lên một cột đá.

“Cuộc hành trình xa xôi” mà Gilgamesh thực hiện tất nhiên là chuyến đi tới Cung điện của các vị Thần cùng với người đồng hành Enkidu. Đích đến của họ là Xứ Tilmun, nơi Gilgamesh có thể phóng chiếc shem của mình. Các bản dịch ngày nay dịch nghĩa từ mu tiếng Sumer hay shumu tiếng Akkad trong các ghi chép cổ là “tên gọi”; tuy nhiên, chúng tôi sử dụng từ shem thay thế trong các bản dịch nghĩa để làm nổi nghĩa thực của thuật ngữ này là “phương tiện bay”:

Vua Gilgamesh

quyết định hướng về Xứ Tilmun.

Ngài nói với người đồng hành Enkidu:

“Hỡi Enkidu…

Ta sẽ vào xứ đó, dựng lên shem của ta.

Ở nơi những chiếc shem được phóng lên

Ta sẽ phóng lên chiếc shem của mình.”

Không thể làm lung lay ý chí của vị vua này, cả các vị bô lão thành Uruk lẫn các vị thần được Gilgamesh hỏi ý kiến đều khuyên ông xin sự chấp thuận và hỗ trợ của Utu/Shamash trước. “Nếu ngài vào xứ đó, hãy báo cho thần Utu,” họ cảnh báo nhà vua. Họ nhắc đi nhắc lại rằng “Xứ đó là địa hạt của thần Utu.” Được báo trước và khuyên răn như vậy, Gilgamesh đã cầu xin sự cho phép của thần Utu:

Xin hãy cho ta vào xứ này,

Xin hãy cho ta dựng lên chiếc shem của mình.

Ở nơi những chiếc shem được phóng lên,

Xin hãy để ta phóng lên chiếc shem của mình…

Xin hãy đưa ta tới bãi đáp…

Xin ngài hãy che chở cho ta!

Thật không may đến đoạn này thì tấm đất sét bị vỡ nên chúng ta không biết được địa điểm “bãi đáp”. Nhưng dù nó có nằm ở đâu chăng nữa thì rốt cuộc Gilgamesh và người bạn đồng hành cũng đã tới được vùng ngoại vi của nó. Đó là một “khu vực cấm” được những người lính canh dữ dằn bảo vệ. Mệt mỏi và buồn ngủ, cả hai quyết định nghỉ ngơi qua đêm trước khi tiếp tục.

Ngay khi họ rơi vào giấc ngủ thì có thứ gì đó đã đánh thức họ. Gilgamesh hỏi người bạn đường: “Ngươi đánh thức ta phải không?” “Ta đang thức sao?”, ông tự hỏi, vì ông đang nhìn thấy những cảnh tượng lạ đầy ấn tượng đến mức ông phải tự hỏi mình đang tỉnh hay mơ. Ông nói với Enkidu:

Bạn của ta, trong giấc mơ, ta thấy núi cao sụt xuống.

Nó kéo ta xuống, giữ chặt chân ta…

Ánh sáng chói lòa!

Một người xuất hiện;

con người đẹp đẽ nhất trên xứ sở.

Vẻ đẹp của người đó…

Người ấy kéo ta lên từ dưới đống đất sụt.

Đưa nước cho ta uống; trái tim ta mới yên bình.

Người đó là ai, “người đẹp đẽ nhất xứ sở”, người đã kéo Gilgamesh ra khỏi trận lở đất, đưa nước cho ông uống, “làm yên bình trái tim ông”? Và “ánh sáng chói lòa” đi kèm với trận lở đất bí ẩn đó là gì?

Gilgamesh lại thiếp đi trong băn khoăn, lo lắng – nhưng không được lâu:

Đến nửa đêm ngài thức giấc.

Ngài nhỏm dậy, nói với bạn mình:

“Bạn của ta, ngươi vừa gọi ta phải không?

Cớ sao ta lại thức giấc?

Ngươi có chạm vào ta không?

Cớ sao ta giật mình?

Có phải có vị thần nào đó đi qua không?

Cớ sao da thịt ta tê cóng?”

Lại bị đánh thức một cách bí ẩn, Gilgamesh tự hỏi không biết ai đã chạm vào người mình. Nếu đó không phải là người bạn đường thì liệu có phải là “vị thần nào đó” đi ngang qua hay không? Một lần nữa Gilgamesh lại thiếp đi, rồi lại tỉnh giấc lần thứ ba. Ông kể lại sự việc xảy ra với bạn mình.

Cảnh tượng ta thấy thật kinh khủng!

Bầu trời rung chuyển, mặt đất gầm lên;

Ánh mặt trời tắt lịm, bóng đêm kéo đến.

Ánh chớp sáng lòe, một ngọn lửa phụt ra.

Những đám mây tràn ra, rơi xuống sự chết chóc!

Rồi ánh sáng rực rỡ biến mất; ngọn lửa tắt theo.

Và những thứ rơi xuống biến thành tro bụi.

Không cần phải quá giàu trí tưởng tượng, chúng ta cũng có thể nhận ra những câu thơ này đang kể về việc chứng kiến một vụ phóng tàu tên lửa. Đầu tiên là âm thanh trầm dữ dội khi động cơ tên lửa khởi động (“bầu trời rung chuyển”), kèm theo đó là chấn động của mặt đất (“mặt đất gầm lên”). Những đám mây khói và bụi bao trùm khu vực phóng (“ánh mặt trời tắt lịm, bóng đêm kéo đến”). Sau đó là ánh sáng phát ra của động cơ đã được khởi động (“ánh chớp sáng lòe”); khi tàu tên lửa bắt đầu phóng lên trời, “một ngọn lửa phụt ra”. Đám mây bụi và mảnh vụn “tràn” ra tứ phía; sau đó nó bắt đầu rơi xuống, “rơi xuống sự chết chóc!” Rồi tàu tên lửa đã bay cao lên trên bầu trời (“ánh sáng rực rỡ biến mất; ngọn lửa tắt theo”). Chiếc tàu tên lửa đã bay khỏi tầm mắt; và những mảnh vụn “rơi xuống biến thành tro bụi”.

Tuy cảm thấy sợ hãi trước những gì được chứng kiến nhưng nhà vua lại càng quyết tâm đạt được mục đích của mình hơn bao giờ hết. Một lần nữa Gilgamesh cầu xin thần Shamash che chở và ủng hộ mình. Vượt qua nh