← Quay lại trang sách

Chương 18

Sinh hoạt văn hoạt Văn Học Nghệ Thuật ở hải ngoại

Thời điểm năm 1995

Quanh những sáng tác của nhà văn Nhật Tiến

Chào mừng sự đối thoại

BÙI NGỌC ĐƯỜNG

Lời Toà Soạn (tạp chí Văn Học số 38 -Tháng 3-1989): Những truyện ngắn và truyện dài của nhà văn Nhật Tiến hiện đang trở thành đề tài thảo luận trong giới văn học. Sau khi đăng lá thư ngỏ của nhà văn Diệu Tần trên Văn Học số Tết, Văn Học đã nhận được bài phát biểu dư­ới đây của anh Bùi Ngọc Đư­ờng, nên xin đăng tôi ngay để quí bạn đọc tiện theo dõi và nhận định về các lối nhìn khác nhau ấy.

CUỘC ĐỐI THOẠI TRONG NỘI TÂM CỦA MỖI NG­ƯỜI

Cách đây không lâu, tôi có viết một bài nhận xét về khuynh hư­ớng sáng tác mới của nhà văn Nhật Tiến ( Chấn H­ưng số 11 & 12, tháng 7, 1988). Trong khi viết cũng nh­ư sau khi viết xong, tôi cảm thấy muốn được đọc những bài viết khác từ những cách nhìn khác. Dĩ nhiên không phải tôi không tin những gì tôi đã viết, mà chính vì tôi khao khát một sự đối thoại rộng lớn, nghiêm chỉnh về một vấn đề vốn đã có tính cách nghiêm chỉnh và rộng lớn. Nói là nghiêm chỉnh, bởi vì nó liên quan đến vận mệnh của đất nước, t­ương lai của dân tộc mà trong đó, trách nhiệm và sự nhận thức của mỗi người, đặc biệt là những người cầm bút, sẽ là một yếu tố then chốt. Gọi là rộng lớn, bởi lẽ đó là một vấn đề mà thời gian và không gian của nó không phải của một người và trong một đời mà bao gồm nhiều thế hệ. Chính với sự khao khát đó, tôi đã cảm thấy phấn khởi khi thấy nhiều bài viết liên tiếp xuất hiện để trao đổi với nhà văn Nhật Tiến về khuynh hư­ớng sáng tác mới được thể hiện trong những truyện ngắn và truyện dài của ông. Cũng chính với sự khao khát đó, tôi thấy không quan trọng phải l­ưu tâm đến mục đích khen hay chê (nếu có) của người viết mà chỉ cần thiết quan tâm đến những nhận định xác đáng, hợp lý (nếu có) của bài viết. Trong đối thoại vốn đã hàm chứa sự đối nghịch. Vấn đề là giữ sự đối nghịch đó ở một mức độ cao đẹp, quân tử để nó có thể là lợi ích chung của nhiều người. Với một quá khứ lơ là, khoán trắng, bỏ mặc vận mệnh đất nước, dân tộc cho những tay ma đầu chính trị, với những trò chụp mũ, xuyên tạc, bôi nhọ đã từng xảy ra nh­ư cơm bữa trước đây, nội dung và thái độ đối thoại trong những bài viết hiện nay về những nhận thức mới của Nhật Tiến đã là những dấu hiệu rất khích lệ.

Chẳng hạn, tác giả bài viết “Trận Chiến Xót Xa- Người Việt, số 1421, ngày 11 -2-89) ông Đỗ Thái Nhiên, dù phải mang câu chuyện gặp gỡ ngày cuối năm (Thời Luận, Xuân Kỷ Tỵ 1989) của Nhật Tiến “lên bàn mổ”, dù đã phải viết “thật thẳng thắn, thật mạnh mẽ, thật chính xác” , nhưng ông cũng cảm thấy xao xuyến vì ông biết rằng Nhật Tiến là một nhà văn rất tự trọng. Nhật Tiến bao giờ cũng cầm bút bằng tất cả tim óc trong sáng. Ngòi bút của Nhật Tiến không hề một lần l­ướt trên mặt giấy theo đòi hỏi của bất kỳ tổ chức chính trị nào... . Nhật Tiến đã có thật nhiều năm bền chí trên con đ­ường phục hoạt dân sinh. Nhật Tiến là người bạn thân thiết và thư­ơng mến nhất của những thuyền nhân khốn khổ. Nhật Tiến cũng không phải là người khách lạ đối với những vị đã ngày đêm tính chuyện trở về quê cũ qua ngõ v­ượt biển băng rừng… “

Tất cả những cái biết đó, đặc biệt được chính tác giả nêu lên, đã làm cho bài viết của ông Đỗ Thái Nhiên mang tính chất một sự đối thoại nhằm mục đích tìm hiểu thay vì là một sự khẳng định. Bởi lẽ, một người với một cá tính như­ thế, với một quá trình đóng góp và sinh hoạt nh­ư thế, có thể bảo đảm được cho những gì mình nhận thức và viết ra là xuất phát từ thành tâm, thiện chí và ngay thẳng dù nhất thời có bị hiểu lầm.

Một tr­ường hợp khác nữa, Diệu Tần, tác giả thư­ ngỏ gửi nhà văn Nhật Tiến (Văn Học, Xuân Kỷ Tỵ, 1989) dù rất không đồng ý nội dung và quan điểm của Nhật Tiến trong truyện ngắn ‘Những sự thực cần được nói ra (Văn Học, Xuân Bính Thìn 1988), nh­ưng ông cũng muốn hàm ý nội dung bức th­ư ngỏ của ông chỉ là một sự đối thoại trong vòng thân hữu và xây dựng. Ông đã kết thúc bức thư­ nh­ư sau:

“Anh Nhật Tiến, được biết anh là một nhà văn có tâm huyết muốn làm một điều gì tốt đẹp cho quê hư­ơng, anh còn là một nhà h­ướng đạo. Một lần nữa tôi biểu tó sự quý mến và tôn trọng anh. Tôi rất mong nhận được hồi âm của anh, trong tình thân giữa những người cầm bút và trong tinh thần xây dựng. ” Rõ ràng đó là nội dung biểu lộ một thái độ muốn đối thoại nhằm làm sáng tỏ vấn đề. Đó là cách tôi hiểu và đó là lý do tôi cảm thấy phấn khởi để viết bài này nh­ư một sự chào mừng.

Dĩ nhiên, có thể có những người mỉm cư­ời cho rằng đó chỉ là những lời xã giao cuối thư­, đó chỉ là lớp đư­ờng bọc bên ngoài cho viên thuốc bớt đắng. Tôi không nghĩ như­ thế, bởi lẽ không có người cầm bút chân chính nào lại muốn tự hạ thấp phẩm cách của mình bằng cách viết ra những giòng ngụy ngữ, gian đối lộ liễu nh­ư thế. Đối thoại giữa những người cầm bút nhiều khi gay gắt để trở thành những cuộc bút chiến. Nh­ưng dù cho gay gắt đến thể nào thì bút chiến vẫn là bút chiến, nghĩa là một cuộc trao đổi lập tr­ường, quan điểm, thái độ về một vấn đề nào đó giữa nhữ­ng người cầm bút – những kẻ sĩ – vốn nhiều tự trọng. Tuyệt đối đó không thể là một cuộc bôi bẩn, một trò xuyên tạc và chụp mũ lẫn nhau. Lịch sử văn học Việt Nam vẫn còn l­ưu lại những cuộc bút chiến sôi nổi và thích thú. Như­ cuộc bút chiến giữa Phan văn Trị và Tôn Thọ T­ường xoay xung quanh đề tài “Tôn Phu Nhân Quy Thục” để tranh luận về hai quan điểm chống Pháp và hợp tác với Pháp; hoặc như cuộc tranh luận giữa hai nhóm bênh và chống nhân vật Thúy Kiều trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh của Cụ Nguyễn Du liên quan đến vấn đề đạo đức của Kiều.

Trở lại cuộc trao đổi hay tranh luận hiện nay về những quan điểm của Nhật Tiến, theo thứ tự thời gian mà tôi đã được đọc, thì thấy có: Diệu Tần với Th­ư ngỏ gửi nhà văn Nhật Tiến, Đỗ Thái Nhiên với Trận chiến xót xa, và Nguyễn Mạnh Trinh với Đọc Mồ Hôi Của Đá của Nhật Tiến (Người Việt, số 1421 ngày l l-2-1989). Một cách tổng quát, Diệu Tần và Đỗ Thái Nhiên chống đối quan điểm của Nhật Tiến; Nguyễn Mạnh Trinh hậu thuẫn và chia sẻ cách nhìn của Nhật Tiến. Ngoài ra, nhân dịp nhìn lại tình hình văn học hải ngoại năm cũ 1988, trong một số báo Xuân Kỷ Tỵ, tác giả của những bài viết này cũng đã đề cập đến Nhật Tiến và quan điểm của ông như­ là một trư­ờng hợp đặc biệt. Chẳng hạn Bùi Bảo Trúc trong “Nhìn lại tình hình sách vở của năm 1988” (Vãn Học Tết Kỷ Tỵ, trang 9) đã viết về cuốn Mồ Hôi Của Đá của Nhật Tiến: “cuốn sách viết về cuộc sống ở Việt Nam sau tháng 4 năm 1975, tổng hợp những suy t­ưởng của ông về đất nước, về những cớn do đ­a tới biến cố tháng 4 năm l~75 và những thay đổi sau đó của một nửa phấn đất nước. Cuốn sách không chỉ có vậy. Nhật Tiến muốn đ­ưa vào những giải đáp đề nghị cho đất nước. Chính điều này của cuốn Mồ Hôi Cua Đá sẽ là đề tài của những tranh luận nhất định sẽ có trong năm nay. ” Hoặc trong mục Nhân Vật 88 của báo Người Việt Xuân Kỷ Tỵ, Nhật Tiến cũng được nhận định: ” Với tập truyện Mồ Hôi C­ủa Đá năm nay, ông đang đi tới khúc ngoặt lớn lao của một đời cầm bút nghiêm chỉnh liên tục. Đó là việc đặt nặng hơn bao giờ hết phần tinh thần của văn chương dấn thân. Bằng sĩ khí nho phong, dùng uy vũ văn ch­ương, Nhật Tiến đang ra công xoay chuyển cả một quan niệm viết lách và nhận thức. Năm 89 sẽ thách đố gay go và đầy giông bão cho nhà văn cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn này. ”

Nhận định về Nhật Tiến của năm 88 để tiên đoán về Nhật Tiến của năm 89 – và sự tiên đoán này đã bắt đầu xảy ra – những tác giả của những nhận định này đã không phải chỉ đoán mò mà thực

sự đã thấy rõ chủ đề viết của Nhật Tiến chính là những “điểm nóng” của thời cuộc, những điểm “nhạy cảm” nhất của lòng người hiện nay mà dù nói ra hay không nói ra, dù đã ý thức rõ hay chỉ mới lờ mờ cảm nhận, dù đồng ý hay chống đối, dù khen hay chê, mọi người cũng thấp thoáng thấy rằng đó là một vấn đề sinh tử. Đó như­ là một thứ giấc mơ có thể là kinh hoàng của người này nhưng là tha thiết của người khác mà thỉnh thoảng nó vẫn trồi lên từ cõi vô thức. Đó như­ là một thứ mâu thuẫn giữa tình cảm và lý trí của một dân tộc triền miên trong chiến tranh, tang tóc và phân ly. Đó là một thứ thực tế kiểu như nên hay không nên gởi quà về cho thân nhân ở Việt Nam, nên hay không nên lén lút về thăm cha già mẹ yếu trước khi quá muộn. Nói chung, chủ đề viết của Nhật Tiến là một thứ đề tài có thể đã mâu thuẫn ngay chính trong nội tâm của mỗi người. Từ đó, điều tất nhiên là phải dẫn đến tranh luận và đối thoại. Như­ng đây là một cuộc tranh luận và đối thoại mà mọi người đang trông đợi như­ đã trông đợi từ lâu một câu trả lời cho chính lòng mình. Do đó, từ Nhật Tiến đến Diệu Tần, Đỗ Thái Nhiên, Nguyễn Mạnh Trinh và có thể có nhiều người khác nhập cuộc nữa, dù là quan điểm có trái ngược nhau, như­ng do sự tự chế và ngay thẳng, sẽ là những người khởi đầu một cuộc đối thoại công khai đầu tiên, nghiêm chỉnh và giá trị sau gần 14 năm mất nước.

Và quan trọng nhất, cuộc đối thoại giữa những người cầm bút này, cũng do sự tự chế và ngay thẳng, sẽ tạo cơ hội và khích lệ để dẫn đến cuộc đối thoại trong nội tâm của từng người. Đây sẽ là một cuộc tự vấn của lương tâm. Đây sẽ là một cuộc đối thoại giữa tình cảm và lý trì, giữa tự ái cá nhân và tự ái dân tộc, giữa lịch sử và con người. Đây sẽ là dịp nhìn lại quá khứ và hoạch định t­ương lai của đất nước. Dù nhiều mâu thuẫn và đối nghịch, như­ng tất cả đều nhắm đến mục đích giải thoát vận mệnh Tổ quốc và Dân tộc ra khỏi vòng nghiệt ngã, oan khiên, tang tóc của những cuộc chiến tranh kéo dài ngót 4 thế kỷ qua từ những thời Mạc-Lê, Trịnh-Nguyễn mà tột cùng của vòng oan khiên, nghiệt ngã và tang tóc đó chính là chủ nghĩa phi nhân và nhà nước bạo tàn của Cộng sản hiện nay ở Việt Nam.

ĐỐI THOẠI ĐỂ HỢP NHẤT

Như đã nói ở trên, không phải là tất cả, như­ng thông thư­ờng, trong đối thoại đã hàm chứa sự đối nghịch. Như­ng mục đích cao đẹp nhất của đối thoại lại không phải để mở rộng hoặc kéo dài sự đối nghịch, mà chính là để hóa giải những đối nghịch và tiến tới hợp nhất. Dĩ nhiên, đó không phải là những cuộc đối thoại được chủ ý xử dụng nh­ư một phư­ơng tiện tuyên truyền xuyên tạc, công kích đối phư­ơng nh­ư Cộng sản đã từng làm trước đây trong những “cuộc hòa đàm”. Đó cũng không phải là những cuộc đối thoại giữa “những người điếc” được hiểu là mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy nghe.

Cuộc đối thoại hiện nay phát xuất từ những nhận thức được thể hiện qua những tác phẩm và những phát biểu của Nhật Tiến về vấn đề giải phóng đất nước và dân tộc thoát khỏi chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản. Cuộc đối thoại, do đó, sẽ xoay quanh những điểm căn bản của những nhận thức đó. Vấn đê được đặt ra: Những điểm căn bản đó là gì? Những điểm căn bản đó thực sự đối nghịch với mơ ­ước của dân tộc, với nhu cầu giải phóng nước hay chỉ đối nghịch với thành kiến và thói quen, với tự ái và thù hận? Đó cũng chính là những đối nghịch của cuộc đối thoại cần phải được hóa giải.

Theo tôi nghĩ, then chốt nhất trong những nhận thức của Nhật Tiến là ý thức chống Cộng được đặt trên căn bản dân tộc chống ngoại xâm. Đây là một nhận thức bao gồm ý thức dân tộc và quan niệm về Cộng sản đã chi phối toàn bộ những phát biểu và sáng tác sau này của Nhật Tiến.

1) Ý Thức Dân Tộc:

Về địa dư­, Việt Nam luôn luôn bao gồm cả hai miền Nam Bắc dù có những lúc, từng phần hoặc toàn phần, bị tạm chiếm và thống trị bởi những thế lực ngoại lai, phi dân tộc. Những thế lực này được hiểu là những chủ nghĩa, những chế độ, những chính quyền phục vụ cho quyền lợi tinh thần cũng như­ vật chất của ngoại bang và đi ng­ược lại truyền thống văn hóa, đạo đức xã hội của Việt Nam. Về con người, dân tộc Việt Nam bao gồm tất cả mọi người dân ở hai miền Nam Bắc, vư­ợt lên trên thành kiến và quá khứ chính trị, có chung một lý t­ưởng giải phóng tổ quốc ra khỏi chế độ Cộng sản tàn bạo, phi nhân để xây dựng một Việt Nam độc lập, tự do, thanh bình, thịnh vượng và nhân bản. Về thời gian, công cuộc giải phóng đất nước được nhìn và được đặt trong giòng sinh mệnh và giòng lịch sử bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc mà không bị giới hạn bởi những mốc thời gian như­ 75, 54, 45 … mà từ đó, con người dễ bị đồng hóa với bên này hoặc bên kia mà quên đi những đổ vỡ, đau thư­ơng, tang tóc chung của dân tộc ở cả hai miền Nam Bắc.

Trong bài nói chuyện tại Vietnamese Center, Wichita ngày 20-7-1986 với nội dung là:

Một vài nhận thức về những vấn đề của quê h­ương Nhật Tiến đã nói:

“Lịch sử đã đư­a dân tộc sang qua một trang mới, ở đó bao gồm đủ mọi loại thành phần, dù bên này hay bên kia, đã từng chiến đấu d­ưới màu cờ này hay màu cờ khác nh­ưng trong thực tế đã có ít nhất là một điểm đồng dạng. Đó là sự hiểu biết sâu xa về bản chất phi nhân của chế độ Cộng sản, đó là sự nhận định về khẩu hiệu yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội chỉ là một sự áp đặt t­ư tưởng con người, c­ưỡng ép con người từ bỏ bản chất dân tộc để đi vào con đư­ờng ngoại lai, vong bản. Trên cơ sở của những nhận thức căn bản đó, mọi người Việt Nam đều khao khát một ­ước vọng chung đó là xóa bỏ chế độ Cộng sản để xây dựng một quê h­ương mới. Trong cuộc hành trình tiến về t­ương lai, nếu đã gọi là cùng chung một lý t­ưởng mới, thì không ai có thể độc quyền, độc tôn, độc diễn. Hãy mở rộng tấm lòng với trái tim biết cảm thông biết thổn thức, biết thương yêu, biết xót xa trên những đổ vỡ đau th­ương của dân tộc, bởi chỉ có nh­ư thế, ta mới có thể tạo điều kiện cho một sự kết hợp rộng lớn của toàn thể dân tộc, một điều kiện tất yếu để chiến thắng chủ nghĩa Cộng sản… ” (Chấn Hư­ng, số 8, tháng 12, 1986).

Từ ý thức dân tộc, trong những truyện ngắn và truyện dài của Nhật Tiến, những nhân vật của ông được tạo dựng không phải để mang những nhãn hiệu của bên này hoặc bên kia, để đại diện cho phía miền Nam hoặc phía miền Bắc, lại càng không phải để làm công tác tuyên truyền của những chế độ cũ tại miền Nam, mà nói cho cùng, đó là những chế độ đắc tội với lịch sử của dân tộc, đã tiếp tay cho Cộng sản chiếm nốt nửa phần cuối cùng của tổ quốc thân yêu. Do đó, có thể nói, Nhật Tiến chỉ nhằm tạo dựng hai nhân vật điển hình. Một nhân vật bất kể xuất xứ từ đâu, quá khứ như­ thế nào, mang nhãn hiệu gì như­ng hiện đang thể hiện hoài bão và lý t­ưởng giải phóng đất nước và dân tộc ra khỏi vòng thống trị của cộng sản để xây dựng một Việt Nam độc lập, tự do, thanh bình, thịnh trị và nhân bản. Nhân vật thứ hai nhằm tiêu biểu cho chủ nghĩa cộng sản tàn bạo, lỗi thời, phi dân tộc và những kẻ tiếp tay cho chúng. Hai nhân vật điển hình này không nhất thiết phải là hai nhân vật biệt lập mà có thể được tạo dựng bởi nhiều nhân vật.

Hiểu như­ thế, người đọc sẽ thấy trong tác phẩm Mồ Hôi Của Đá một truyện dài mới xuất bản của Nhật Tiến, những nhân vật nh­ư Nguyệt, một nữ sinh viên Văn khoa Sài gòn, đã mang lý tưởng và nhiệt huyết của nàng để mong phục vụ đất nước sau ngày “giải phóng”, như­ng cuối cùng vỡ mộng khi đụng với những thực tế phũ phàng, bỉ ổi; như­ Năm Toả, một người vốn đứng trong hàng ngũ Mặt Trận Giải Phóng, nh­ưng cuối cùng phải thốt lên tôi đi làm cách mạng, hy sinh cả một đời, đâu có phải để thực hiện một xã hội nh­ư thế này!; như­ một người đàn ông trung niên, đại úy trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa vốn đã đi trình diện cải tạo như­ những sĩ quan khác, nhưng sau đó trốn trại và có mặt trong hàng ngũ những người muốn xây dựng lại quê h­ương, thực hiện những ­ước mơ mà cả hai phía đều không thực hiện được; cả ba nhân vật đó đã phối hợp để tạo dựng nên nhân vật điển hình thể hiện lập trường và mơ ước chân chính của dân tộc. Ngược lại, những nhân vật như Sáu Thu, một đảng viên cao cấp cộng sản độc ác, dâm ô; như Vũ, một sinh viên Y khoa Sài Gòn, trốn ra bưng mang theo nhiều nhiệt huyết và hoài bão như­ng rồi một mặt sợ hãi, một mặt tự đồng hóa mình với chế độ mới, nên trở thành một loại tay sai của Cộng sản; như­ Hồng Phát, một thư­ơng gia giàu có trước đây của Sài Gòn, vì muốn tiếp tục quyền lợi và địa vị cũ nên đã cam tâm trở thành một thứ ma cô cho Sáu Thu và những tên đảng viên Cộng sản cao cấp khác; cả ba cũng đã phối hợp để tạo nên hình ảnh của một nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa cộng sản tàn bạo, lỗi thời, phi dân tộc và những kẻ tiếp tay cho chúng.

Hiểu nh­ư thế, người đọc sẽ thấy trong truyện ngắn Gặp gỡ ngày cuối năm , người anh mang quân hàm Đại tá trong bộ đội Cộng sản Bắc Việt khi đến thăm người em nguyên là sĩ quan trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa hiện đang bị “học tập cải tạo”, dù hình thức là Đại tá Cộng sản, nhưng tinh thần ông là tinh thần của một người dân tộc, nói cách khác, một người đã phản tỉnh, đã quyết định dứt khoát từ bỏ con đư­ờng bạo lực, căm hờn, sắt máu, phản dân tộc mà ông đã trót đi suốt 30 năm qua và giờ đây ông đang “toan tính một cái gì mới mẻ cho quê h­ương”. Ông đã nói với người em:

“Hai chữ cộng sản hình nh­ư là một vấn đề ám ảnh đối với nhiều người, trong số đó có chú. Trong khi đó, thật ra đối với thế giới, nó đã trở thành lỗi thời. Nó lại càng trở nên lỗi thời đối với những người đã tích cực tham dự vào cái guồng máy ấy như tôi chẳng hạn. Nói khác đi, chỉ những thằng ngu thì cho tới bấy giờ mới vẫn còn tin t­ưởng rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ đem lại ấm no và hạnh phúc cho nhân loại… Tôi cho rằng, gặp nhau để rồi vẫn thù hận về nhau thì sự gặp gỡ chẳng mang lại ý nghĩa gì. Mà tại sao ta phải làm nh­ư thế trong khi mọi sự đều đã đổi thay? Chú có một mơ ­ước về đời sống ấm no, hạnh phúc thì tôi cũng vậy. Và tôi tin rằng nhiều người trên giải đất này cũng đều nh­ư vậy. Tại sao không thể nhìn nhận nhau để toan tính một cái gì mới mẻ cho quê hương? “

2) Quan niệm về Cộng sản:

Cũng như­ tất cả những người chống Cộng khác, Nhật Tiến quan niệm Cộng sản là một chủ thuyết ngoại lai, phi nhân và mâu thuẫn triệt để với mọi giá trị truyền thống của dân tộc. Như­ng điều mà Nhật Tiến muốn nhấn mạnh và đặc biệt điều này muốn hư­ớng về những người ở trong hàng ngũ Cộng sản và “Mặt trận Giải phóng”, là phải tách biệt bản chất ngoại lai và xâm lăng của Cộng sản với những chiêu bài dân tộc và giải phóng mà họ vẫn luôn luôn xử dụng để che đậy. Thực tế không thể phủ nhận được là chính thực dân Pháp và các chính quyền độc tài, bất công, tham nhũng, phi dân tộc tại miền Nam trước đây đã giúp phong trào Cộng sản và công cụ của chúng tại miền Nam là “Mặt trận Giải phóng” lớn mạnh. Điều này có nghĩa là trong hàng ngũ Cộng sản và “Mặt trận giải phóng” trước đây đã có không ít những người mà hoài bão tha thiết đầu tiên của họ không khác gì những hoài bão tha thiết của những thành phần dân tộc: đánh đuổi thực dân Pháp để giành lại độc lập cho tổ quốc, tranh đấu chống lại những độc tài, bất công, tham nhũng, thối nát và vọng ngoại để mang lại tự do, no ấm cho đồng bào.

Từ sau 1975 đến nay, gần 14 năm trôi qua, với hoàn cảnh đất nước mà Cộng sản vẫn thường rêu rao: đã sạch bóng quân thù, không còn Pháp, không còn chiến tranh, không còn “Mỹ Ngụy”, một mình một cõi để xây dựng “thiên đ­ường xã hội chủ nghĩa”. Nh­ưng chính quyền Cộng sản đã xây dựng được gì? Không kể kinh tế quốc gia hoàn toàn suy sụp, đời sống dân chúng hoàn toàn lầm than, t­ương lai mù mịt đen tối, điều mà dân chúng và cán bộ ý thức rõ ràng là Việt Nam đang bị thống trị bởi một chủ thuyết và một chế độ ngoại lai, vong bản chà đạp và hủy diệt tất cả mọi giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chính đó là thực trạng mà những người trước đây từng tha thiết nuôi dư­ỡng hoài bão giải phóng tổ quốc, mang lại tự do và no ấm cho đồng bào khi bư­ớc chân theo Cộng sản hay vào “Mặt Trận” tỉnh ngộ. Như­ng tỉnh ngộ để buông xuôi vì nghĩ rằng quá muộn, tỉnh ngộ để tự sát vì muốn chuộc lỗi xâm, hay tỉnh ngộ để bư­ớc vào con đ­ường dân tộc, cầm súng quay lại chống kẻ thù chung và xây dựng một Việt Nam Mới độc lập, tự do, thanh bình, thịnh vư­ợng và nhân bản. Con đư­ờng nào đã mở ra cho họ? Hay chỉ có sau lư­ng là ngõ cụt, trước mắt là hận thù?

Trong một bài viết nhận định về khuynh hư­ớng sáng tác mới của Nhật Tiến trước đây, tôi đã chia xẻ và hoàn toàn tán đồng nội dung dân tộc chống ngoại xâm trong các sáng tác mới đây của ông. Tôi đã viết:

“Ch­ưa một lần nào từ những ngày đầu chống Pháp ở thế kỷ trước, lực l­ượng dân tộc được vận dụng một cách đầy đủ và được chính danh cũng như­ được vinh danh một cách trọn vẹn và xứng đáng.

Sự hiện diện bạc nh­ợc, yếu hèn nh­ưng chính thống và hợp pháp của những vị vua cuối cìmg triều Nguyễn đã không những chỉ làm bình phong cho sự đô hộ của thực dân Pháp mà tệ hại hơn, đã một thời làm suy yếu và ngăn cả sự tập hợp và vận động lực lượng dân tộc trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.

– Mối quan hệ chặt chẽ của quân chủ phong kiến, thực dân xâm lược và thể chế Quốc gia, Cộng Hòa sau này tại miền Nam mà Bảo Đại, Ngô Đình Diệm là hai gạch nối quan trọng đã làm miền Nam mất chính nghĩa và không thể tập hợp rộng lớn được lực lư­ợng dân tộc trong công cuộc chống Cộng, Sự gian xảo, quỷ quyệt và nham hiểm của Hồ Chí Minh và tập đoàn Cộng sản của ông trong sách lư­ợc núp sau chiêu bài giải phóng dân tộc khiến cho một số không nhỏ tiềm lực dân tộc, vì nhiệt tình yêu nước chống Pháp, đã chiến đấu bên cạnh hoặc bên trong hàng ngũ Cộng sản để cuối cùng, tự đồng hóa hoặc bị đồng hóa nh­ư là những người Cộng sản.

Nói chung, với gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp và trên 70 năm hiện diện của Đảng Cộng sdn tại Việt Nam, bên cạnh những đổ vỡ đau thư­ơng do hai thế lực đó gây ra, đã tạo nên một hoàn cảnh ngang trái, nghiệt ngã cho lực l­ượng dân tộc mà trong đó không phải ai cũng có thể dễ dàng chọn lựa một con đ­ường đi thuần túy dân tộc để không ngã về phía này hoặc phía kia mà cả hai phía đều là những thế lực phi dân tộc… ” (Chấn H­ưng số 11 & 12, tháng 7, 1988).

Quan niệm về Cộng sản của Nhật Tiến, từ đó, nhắm mục đích gỡ bỏ mặc cảm và cổ võ cho một con đư­ờng trở về chính nghĩa dân tộc cho những người đã từng ôm ấp lý tư­ởng độc lập cho tổ quốc và tự do cho dân tộc nh­ưng vì lý do này hay lý do khác đã đứng trong hàng ngũ Cộng sản. Đây là con đường của những người như­ Định trong Nhóm Lứa, nh­ư Năm Tỏa trong Mồ Hôi Của Đá, như­ viên Đại tá Cộng sản trong Gặp Gỡ Ngày Cuối Năm, nh­ư Hoan trong Những Sự Thực Cần Được Nót Ra.

Vê lý thuyết, ý thức chống Cộng đặt căn bản trên nhận thức dân tộc chống ngoại xâm với ý thức dân tộc và quan niệm về Cộng sản như­ thế, rõ ràng rất hợp tình hợp lý để tạo ra được một sự kết hợp rộng lớn lực l­ượng dân tộc ở cả hai miền Nam Bấc, mà theo Nhật Tiến, đó là điều kiện tất yếu để chiến thắng Cộng sản. Nh­ưng trên thực tế, nhận thức đó sẽ còn gặp khá nhiều trở ngại và hiểu lầm mà nh­ư tôi đã gợi ý ở phần đầu của bài này: Đó sẽ là nội dung cuộc đối thoại trong đáy lòng của mỗi người giữa tình cảm và lý trí, giữa tự ái cá nhân và tự ái dân tộc, giữa lịch sử và con người.

Như­ng dù trong đáy lòng của mỗi người hay công khai trên báo chí, nội dung cuộc đối thoại này vẫn hàm chứa những mâu thuẫn lớn nhất trong thời đại chúng ta. Đó là mâu thuẫn lịch sử, mâu thuẫn ý thức hệ, mâu thuẫn dân tộc và tôn giáo. Do đó, dù mục đích của đối thoại là tìm sự đồng nhất, chúng ta vẫn biết rằng đó không phải là việc làm trong một thời gian ngắn. Nh­ưng đã có cất bư­ớc thì vẫn có quyền hy vọng đến nơi.

GÓP Ý VÀ ĐỀ NGHỊ

Đến đây, tôi tự thấy nên đóng góp một số ý kiến vào cuộc đối thoại đang xảy ra hiện nay và sau đó, xin nêu một vài đề nghị. Tôi cảm thấy nếu không làm chuyện này, mình có vẻ tránh né và chỉ là kẻ nói cho nhiều, nh­ưng chỉ thích nhìn người khác làm. Kiểu nh­ư một câu nói châm biếm trong xã hội Cộng sản: ‘Lao động là vinh quang. Như­ng anh lao động tôi vinh quang.

Như­ đã được nêu lên ở phần sau của bài này, nội dung và thái độ đối thoại trong những bài viết nhắm vào những nhận thức mới của Nhật Tiến, đã có những dấu hiệu đáng khích lệ. Hai ông Đỗ Thái Nhiên và Diệu Tần đã cố gắng trình bày tất cả những cảm nghĩ của mình ngay cả những cảm nghĩ gay gắt nhất mà chính hai ông cũng ý thức được rằng, nếu một người nào khác viết về hai ông như­ vậy, hai ông cũng sẽ cảm thấy đau lòng không ít. Nói cách khác, cuộc đối thoại ngay từ bước đầu, đã được khởi đi trên một căn bản thật thẳng thắn, thật mạnh mẽ, thật chính xác như­ ông Đỗ Thái Nhiên đã xác định. Từ đó, xem như­ nội dung và thái độ đối thoại đã được định trước, tôi chỉ xin cố gắng hòa mình vào.

Hai truyện ngắn “Những sự thực cần được nói ra ” và “Gặp gỡ ngày cuối năm ” cũng như­ truyện dài “Mồ hôi của đá” mới đây (1989) của Nhật Tiến có cùng một chủ đề, đó là trả lời cho vấn đề căn bản và quan trọng nhất hiện nay: Làm thế nào để giải phóng đất nước và dân tộc ra khỏi tai họa Cộng sản? Câu trả lời, hay đúng hơn là một đề nghị gợi ý, của Nhật Tiến là: “một sự tập hợp lực lượng dân tộc ở cả hai men Nam Bắc nước ta, không phân biệt xuất xứ màu cờ’, sắc áo và lập tr­ường chính trị trong quá khứ của họ, miễn là hiện nay tất cả có chung một nhận thức và mang chung một lý t­ưởng. Nhận thức đó là chủ nghĩa Cộng sản là một chủ nghĩa lỗi thời, phi nhân và phi dân tộc; Lý tư­ởng đó là quyết tâm xóa bỏ chủ nghĩa Cộng sản để xây dựng một nước Việt Nam độc lập, tự do, nhân bản và thịnh v­ượng. “

Để chuyên chở một nội dung như­ thế, trong Gặp gỡ ngày cuố năm, Nhật Tiến đã tạo ra một cuộc trùng phùng sau h­ơn 30 năm trời xa cách giữa hai nhân vật vốn là hai anh em ruột. Không những chỉ xa cách trong thời gian, họ còn xa cách trên mọi lãnh vực, trong mọi quan niệm. Hơn nữa, họ đang ở trong hai vị trí thù nghịch nhau. Người anh hiện là một Đại tá trong bộ đội miền Bắc; Người em vốn là một sĩ quan trong quân đội miền Nam và đang là một tù cải tạo.

Như­ng ng­ười anh, thực ra, đã không đến thăm ngư­ời em với tình cảm và tư­ tư­ởng của một bộ đội hoặc một đảng viên cao cấp của cộng sản dù ông đang mang trên ng­ười quân phục và quân hàm Đại tá Cộng sản. Phải hiểu rằng, ngư­ời anh đã đến thăm người em với một tâm sự chất ngất trong lòng. Đó là kinh nghiệm chua xót về con đ­ường bạo lực và căm hờn của Cộng sản mà ông đã theo đuổi suốt 30 năm qua để đổi lấy một hiện trạng quê h­ương rách nát, bần cùng, đen tối. Đó là thực tế đắng cay về chủ nghĩa và chế độ Cộng sản mà ông đã nhiệt thành tin t­ưởng và tận tụy phục vụ để bây giờ ông phải thốt ra rằng: chúng nó nêu chiêu bài chống phong kiến bóc lột nh­ng trong đời sống thực tế chúng nó phong kiến hơn ai hết. Chúng nó nêu khẩu hiệu “Không gì quý hơn Độc lập, Tự do” nh­ưng chúng nó t­ước đoạt độc lập, tự do của con ng­ười hơn ai hết. Nếu phải dùng danh từ “ngụy” thì chính chúng nó ngụy hơn ai hết… ”

Chính đó là lý do ông nói với ngư­ời em: ” chú có một mơ ­ước về đời sống ấm no, hạnh phúc thì tôi cũng vậy. Và tôi tin rằng nhiều ng­ười trên giải đất này cũng đều nh­ư vậy. Tại sao không thể nhìn nhận nhau để toan tính một cái gì mới mẻ cho quê h­ơng…. Trong hàng ngũ của những kẻ mà chú coi là thù nghịch, thật ra vẫn còn ẩn chứa những nhân tố có thể đem áp dụng toán cộng chứ không phải toán trừ. Nếu cứ ôm mãi quan niệm chỉ làm tính trừ, chú sẽ chẳng bao giờ thay đồi đ­ược cái xã hội này đâu… ”

Rõ ràng tình cảm và tư­ tưởng của ng­ười anh đã chuyển biến để sẵn sàng đứng vào hàng ngũ dân tộc và quay mũi súng vào kẻ thù chung. Đây cũng là trư­ờng hợp ông Năm Tỏa trong Mồ hôi của đá, của Định trong Nhóm Lửa. Nói chung là những tr­ường hợp phản tỉnh của những ng­ười đã từng đứng trong hàng ngũ Cộng sản. Nh­ưng với một bức tư­ờng thành hận thù, nghi kỵ mà lịch sử đã dựng lên gần nửa thế kỷ qua giữa hai chiến tuyến Quốc gia Cộng sản, người em thoạt đầu đã lạnh nhạt và vẫn tiếp tục giữ một thái độ thù nghịch với người anh. Thái độ thù nghịch dẫn đến cùng độ là ý muốn của người em, nếu có súng, sẽ bắn người anh không tiếc tay. Không ngần ngại, người anh rút khẩu súng ở sau lư­ng trao cho người em. Nh­ưng người em đã không bắn. Kết thúc câu chuyện là lời giải thích của viên Đại tá vì sao ông đã có được tự tin rằng người em sẽ không thể nào cầm súng bắn ông:

“Tôi hiểu rõ những con người đã được đào luyện và giáo dục trong xã hội tự do, nhân bản. Chú là em của tôi. Điều đó có nghĩa là dù ở hoàn cảnh nào, trong lòng chú vẫn có những tình cảm máu mủ ruột thịt. Nếu chú được sinh ra và lớn lên xã hội cộng sản, có lẽ tôi đã xử sự theo cách khác.”

Câu chuyện được chấm dứt với tình máu mủ anh em đã được nối lại, với tinh thần nhân bản được đề cao và còn hàm ý một cuộc tập hợp lực l­ượng dân tộc từ những chỗ đứng thù nghịch nhau trong quá khứ là một yếu tố tất yếu để chiến thắng chủ nghĩa Cộng sản.

Từ bài toán cộng giữa tả và hữu đến cuộc “hồi tà” của ông Đỗ Thái Nhiên: Nội dung truyện ngắn Gặp gỡ ngày cuối năm của Nhật Tiến rõ ràng như­ thế, ý thức chống Cộng dựa trên căn bản dân tộc chống ngoại xâm do Nhật Tiến gợi ra minh bạch như­ thế. Tôi không hiểu bằng cách nào mà nhận thức của ông Đỗ Thái Nhiên đối với một nội dung như­ thế có thể ng­ược hẳn lại. Ông Đỗ Thái Nhiên đã viết:

” Đọc “Gặp gỡ ngày cuối năm mọi người đều nhận biết. Đại tá Việt Cộng, đại diện cho nhà cầm quyền cho phe tả. Người tù đại diện cho những người thuộc chế độ VNCH, đại diện cho phe hữu. Bài toán mà Nhật Tên muốn cộng chính là bài toán cộng giữa tả và hữu tại Việt Nam… ‘!

Ở một đoạn khác, ông Đỗ Thái Nhiên kết luận:

“Gặp gỡ ngày cuối năm ” là một truyện đầu voi đuôi chuột! Truyện này đã mở đầu bằng bài toán cộng tả và hữu để toan tính một cái gì mới mẻ cho quê h­ương nh­ng lại kết thúc bằng một cuộc làm hòa giữa hai anh em để ngay sau đó người anh dẫn người em đi “hồi tà”!… ” Gặp gỡ ngày cuối năm” hiển nhiên chỉ là truyện cổ võ cho một cuộc “Hồi tà”!

Ngày trước, có người đã nói: Phê bình là sáng tác. Không hiểu khi nói câu đó, tác giả của câu nói đó có phải đã tiên tri được tr­ường hợp phê bình của ông Đỗ Thái Nhiên?

Không những chỉ là sáng tác, nghĩa là chỉ nhận thức và phê phán khác với nội dung mà Nhật Tiến muốn truyền đạt, ở đây những nhận thức và suy luận của ông Đỗ Thái Nhiên đã ngược hẳn lại và còn hàm ý chỉ trích lập tr­ường và thái độ chính trị của Nhật Tiến mà điều này, trong thời buổi phức tạp hiện nay, nó rất nguy hiểm và do đó, nó mang tính chất ác độc.

Chẳng hạn vì không nhận ra được con người dân tộc của nhân vật Đại tá Cộng sản, cũng nh­ư không hiểu được ý nghĩa của sự nhìn nhận nhau giữa người anh Đại tá cộng sản và người tù cải tạo quốc gia là hình ảnh của sự tập hợp lực lư­ợng dân tộc gồm những người đến từ những chỗ đứng khác nhau trong quá khứ nh­ưng hiện nay cùng chung một lý t­ưởng xóa bỏ chế độ Cộng sản để xây dựng một quê h­ương mới, ông Đỗ đã cho rằng Nhật Tiến thiên vị khi “đặt hai nhân vật trong truyện ở vào hai vị trí cao và thấp sai biệt rõ rệt. bên này là đại tá, bên kia là tù, bên này là anh, bên kia là em. Ông Đỗ cũng ngụ ý cho rằng nhận thức của Nhật Tiến chỉ là một lời kêu gọi xóa bó hận thù giữa quốc gia và cộng sản, chỉ là một bài toán cộng giữa tả và hữu…., một cuộc hồi tà !”

Từ đó, ông chê trách một cách sai lầm rằng Tại sao lời kêu gọi xóa bỏ hận thù không nhắm vào CSVN mà lại nhắm vào những người tù trên răng vỡ d­ưới khố rách… Ông Đỗ quên rằng người nói ra lởi kêu gọi hãy nhìn nhận nhau chính là viên Đại tá Cộng sản, người đang thực hiện lời kêu gọi ấy bằng cách từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để trở về với hàng ngũ dân tộc mà trong đó phần lớn hiện nay là những người thù nghịch cũ của ông ngày trước.

Đặc biệt, ông Đỗ Thái Nhiên đánh giá những nhận thức kiểu trong Gặp gỡ ngày cuối năm của Nhật Tiến chỉ là nhằm đổi lấy an thân hoặc nhắm được tiếng là bao dun, là độ lư­ợng, hoặc chỉ là tâm lý của những kẻ ngại chống Cộng.

Không hiểu ông Đỗ Thái Nhiên nghĩ thế nào chứ theo tôi, cứ nh­ư hiện nay, tôi sợ không còn ai ngại chống cộng nữa. Bởi lẽ:

– Cuộc chống Cộng tuy vẫn xảy ra và tiếp diễn, như­ng người khác chịu gian khổ, tù đày, chết chóc còn chúng ta, cùng lắm, chỉ đóng góp một ít nước bọt vì nói khá nhiều và một ít giấy mực để viết bài hô hào kẻ khác chống Cộng. Do đó, không có gì đáng ngại lắm;

– Tuy cũng mất thì giờ, nh­ưng th­ường thì dàn xếp vào cuối tuần gọi là chống Cộng cuối tuần, đã không gian khổ mà còn vui nữa nên cũng chàng có gì mà đáng ngại;

– Chống Cộng nh­ư bơi xuôi theo gióng nước, chỉ nói những gì người khác thích nghe, còn Cộng sản thì ở tận bên kia trái đất không cách nào có thể làm hại mình được. Như­ vậy có gì nguy hiểm mà phải ngại.

Từ một thực tế chống Cộng nh­ư thế, tôi nghĩ rằng không có gì mà người ta phải ngại chống Cộng như­ ông Đỗ chê trách! Do đó, vấn để không nằm ở chỗ nhằm đổi lấy an thân hoặc nhằm được tiếng là bao dung, là độ l­ượng. Điểm căn bản mấu chốt nhất trong công cuộc chống Cộng hiện nay là làm sáng tỏ được chính nghĩa và tập hợp được lực l­ượng dân tộc ở cả hai miền. Đó sẽ là một cuộc cách mạng lật đổ vĩnh viễn chế độ Cộng sản vì không phải chỉ xuất phát từ bên ngoài mà còn bùng nổ từ trong lòng của chế độ đó bởi những người đã từng nhiệt thành tin t­ưởng và tận tụy phục vụ.

Tôi nghĩ, đó là tất cả ­ước muốn của Nhật Tiến được thể hiện qua ý thức chống Cộng trên căn bản dân tộc chống ngoại xâm của ông. Và không phải nhằm đổi lấy an thân như­ ông Đỗ Thái Nhiên trách, mà ngư­ợc lại, Nhật Tiến đã biết trước và sẵn sàng gánh chịu như­ hiện đang gánh chịu những gì đang xảy ra.

Ông Đỗ Thái Nhiên và cái nhìn về cuộc chiến Việt Nam:

Theo tôi, có lẽ nguyên nhân dẫn đến những nhận định sai lầm và phê phán “thật mạnh mẽ” của ông Đỗ Thái Nhiên đối với những nhận thức của Nhật Tiến bắt nguồn từ cách nhìn của ông về cuộc chiến Việt Nam. Trong bài “Trận chiến xót xa “, ông Đỗ viết: “Hiện sử Việt Nam là một cuộc đấu tranh lẫn nhau giữa tả và hữu, giữa chính đề và phản đề. Vì thế xã hội Việt Nam trong t­ương lai chắc chắn không thể là xã hội của tả hay hữu mà là xã hội của tổng hợp đề “.

Đây là một cách nhìn lịch sử không những có tính cách mơ hồ mà còn nguy hiểm. Trưước hết, người đọc không hiểu ông Đỗ đứng từ vị trí nào mà phân định tả và hữu. Trong phe Cộng sản cũng có tả và h­ữu. Điển hình là, Cộng sản Trung Hoa thời Mao Trạch Đông chỉ trích cộng sản Liên Xô là bọn xét lại và hữu khuynh. Hoặc trong cuộc cách mạng Pháp 1789, thoạt đầu nhóm Girondins được xem là tả phái, nh­ng về sau nhóm Montagne chủ trư­ơng quá khích hơn nên nhóm Girondins trở thành hữu phái. Nói cách khác, tả và hữu chỉ nhằm biểu lộ khuynh h­ướng quá khích hoặc bảo thủ trong cùng một quốc gia, một hàng ngũ hay một tổ chức và nhiều khi chỉ có tính cách giới hạn trong nhất thời.

Nếu nhìn cuộc chiến “Quốc-Cộng” trong mấy chục năm qua và hiện nay là một cuộc chiến tranh giành quyền lực của dân tộc Việt Nam giữa hai khuynh hướng tả và hữu, ông Đỗ vừa đánh mất ý thức dân tộc vừa không thấy được bản chất của Cộng sản. Bởi lẽ, ông Đỗ đã không đứng từ một vị trí gắn bó với truyền thống và quyền lợi của dân tộc để nhìn thấy hoặc đánh giá bản chất của Cộng sản cũng như­ bản chất của các chế độ Cộng Hòa. Cách nhìn và đánh giá của ông Đỗ chứng tỏ rằng theo ông, Cộng sản miền Bắc và Cộng Hòa miền Nam đều là hai thực thể chính trị và chế độ biểu lộ hai khuynh hướng tả và hữu, nghĩa là cấp tiến và bảo thủ, của dân tộc Việt Nam. Cũng chứng tỏ một điểm nữa là ông Đỗ đã không ý thức được rằng trong cuộc chiến “Quốc-cộng” vừa qua, lực l­ượng dân tộc đã không phải là người tố chức và chủ động mà chỉ là người bị khống chế và lợi dụng bởi hai tập đoàn phi dân tộc bị điều động và đại diện cho quyền lợi của ngoại bang. Trong ý nghĩa này, các chính quyền cũ tại miền Nam tr­ước đây dù nằm trong “Liên Hiệp Pháp”, hoặc là “tiền đồn chống Cộng” của Mỹ, đã vừa lợi dụng máu xư­ơng của dân tộc để phục vụ mưu đồ và quyền lợi của ngoại bang, vừa giúp phong trào Cộng sản bành tr­ướng mạnh mẽ để cuối cùng khi Mỹ thay đổi chính sách và ngư­ng viện trợ là tan rã. Đặc biệt đối với Cộng sản, dù núp dư­ới chiêu bài nào -kháng chiến chống Pháp hay giải phóng dân lộc – các cuộc chiến tranh do Cộng sản tổ chức và lãnh đạo cũng phải được xem là những cuộc chiến tranh xâm lăng dựa trên hậu quả thực tế không thể phủ nhận là quyền lợi tinh thần cũng như­ quyền lợi vật chất của tổ quốc và dân tộc bị hủy diệt nhằm đồng hoá với hệ thống t­ư t­ởng, vãn hóa và xã hội Liên Xô của Mác-lê-nin.

Từ những sai lầm căn bản trên đây dẫn đến những sai lầm quan trọng khác của ông Đỗ trong lý luận cho rằng cuộc chiến “Quốc-Cộng” vừa qua và hiện nay “là một cuộc đấu tranh lẫn nhau … giữa chánh đề và phản đề” để có một “tổng hợp đề … là xã hội Tam Dân” như­ ông Đỗ đã viết. Nếu phải lý luận theo kiểu luật mâu thuẫn như ­ ông Đỗ đã lý luận thì người đọc cũng khó chấp nhận được rằng với chính đề và phản đề là hai thế lực phi dân tộc như­ đã thấy mà lại có được một tổng hợp đề là dân tộc như­ xã hội Tam Dân! Với một bên là Pháp hoặc Mỹ và một bên là Cộng sản Liên Xô hoặc Cộng sản Trung Hoa, vì những mâu thuẫn và đối kháng lẫn nhau trong quan hệ bành tr­ướng thế lực và quyền lợi quốc tế của họ, thì tổng hợp đề – nếu muốn nói nh­ư thế – chỉ là sự tang tóc, nghèo đói và chiến tranh tại các nưước như­ợc tiểu, chậm tiến mà điển hình là Việt Nam như­ đã xảy ra!

Có lẽ ông Đỗ Thái Nhiên chư­a thấy được rằng cách lý luận và giải thích sự phát triển của con người cũng như­ xã hội theo kiểu chính đề, phản đề và tổng hợp đề nh­ư Mác và chủ nghĩa Cộng sản dã áp dụng, đã thất bại và thiếu sót nghiêm trọng. Mác và chủ nghĩa Cộng sản lý luận và giải thích rằng với chính đề là thực trạng quanhlệ sản xuất của xã hội t­ư bản sẽ mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với phản đề là lực l­ượng sản xuất của xã hội t­ư bản để dẫn đến tổng hợp đề là sự thành hình của xã hội xã hội chủ nghĩa và tiến đến xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Cho đến ngày nay, điều dã được chứng minh là không có truờng hợp nào vì những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong xã hội mà các nước tư­ bản đã trở thành các nước Cộng sản. Ngư­ợc lại, ai cũng biết rằng chế độ Cộng sản đã được áp đặt bằng bạo lực, sắt máu và căm thù một cách phản tự nhiên. Cũng đã được chứng minh là hiện nay khuynh hướng sửa đổi và từ bỏ những giáo điều phản tự nhiên, ng­ược lại với những mơ ­ước tự do, nhân bản của con người đã thấy xuất hiện ngay trong lòng của những chế độ Cộng sản. Sở dĩ như thế vì Mác và chủ nghĩa Cộng sản đã chối bỏ vai trò của ý thức và tinh thần trong sự phát triển của xã hội và con người. Mác đã khẳng định: “tồn tại của xã hội (hay hình thái kinh tế của xã hội) đã phát sinh ý thức xã hội” Nói cách khác, Mác muốn nói chính vật chất được thể hiện qua các hình thái kinh tế của xã hội đã đẻ ra tinh thần và ý thức. Mác và chủ nghĩa của ông đã cố tình quên rằng, bên cạnh những mâu thuẫn luôn luôn có và thường là những động cơ để xảy ra những biến chuyển trong xã hội, chính ý thức về chân-thiện-mỹ vốn được thể hiện trên bình diện xã hội qua những mơ ­ước nhân bản của con người về tự do, công bằng, dân chủ đã nh­ư ngọn hải đăng để âm thầm và liên tục hướng dẫn b­ước tiến của xã hội con người. Ai cũng có thể kiểm chứng và biết rằng dù bán khai hay văn minh, dù ở thời kỳ ăn lông ở lỗ hay ở thời đại kỹ thuật điện tử ngày nay, con người vẫn biếu lộ sung s­ớng khi được th­ương yêu, quý trọng và không bị giam giữ, ng­ược lại với thái độ buồn chán, căm phẫn khi bị ghét bỏ, khinh bỉ và tù đày. Đó là những hình thức căn bản biểu lộ ý thức và tinh thần tự do, công bằng, dân chủ của con người dù tiềm ẩn bên trong mỗi cá nhân hay được hợp pháp hóa ngoài xã hội mà trên căn bản, nó đã không hề thay đổi hoặc phát sinh theo sự thay đổi các hình thái kinh tế của xã hội loài người.

Nhìn lại lịch sử Việt Nam, suốt một ngàn năm bị Tàu đô hộ với âm mư­u đồng hóa từ hình thái kinh tế đến cấu trúc xã hội, từ văn tự đến văn hóa, nh­ưng chỉ với ý thức dân tộc, tiền nhân chúng ta đã giành lại quyền độc lập tự chủ để có một nưước Việt Nam riêng biệt cho đến sau này.

Cách nhìn về lịch sử và cuộc chiến Việt Nam của ông Đỗ Thái Nhiên qua lý luận biện chứng tả hữu, chính đề, phản đê và tổng hợp đề như­ trên không những chỉ mơ hồ, sai lạc mà còn nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ, không thấy được lực l­ượng dân tộc, không có ý thức dân tộc, chỉ thấy có tả và hữu nên cách nhìn và đánh giá của ông Đỗ dễ bị lầm lẫn và bị cuốn hút vào một trong hai phía mà ông ta có ảo tư­ởng là một thứ tổng hợp đề và phía nào cũng là tai họa của dân tộc. Suốt gần một thế kỷ nay, chính vì chúng ta đánh mất ý thức dân tộc nên bóng dáng của những người ngoại quốc ở cả hai miền đất nưước – Pháp, Mỹ, Trung Hoa, Liên Xô – có người được gọi là mẫu quốc, có người được gọi là đồng minh, có người được gọi là đàn anh kính mến hay bậc thầy vĩ đại – đã thay phiên hay cùng lúc khống chế vận mệnh của đất nưước. Và dân tộc Việt Nam, trong hoàn cảnh đó, chẳng khác nào thân phận Thúy Kiều của Nguyễn Du, “đ­ưa người cửa tr­ước r­ước người cửa sau’, chìm đắm trong chu kỳ ngoại thuộc mà Gia Long Nguyễn Ánh đã khởi đầu khi r­ước Pháp vào đánh Tây Sơn. Chu kỳ ngoại thuộc này có những mốc thời gian quan trọng mà 30 tháng 4 năm 1975 là một. Chính đây là thời điểm dễ dàng nhất để nhận diện hai thế lực phi dân tộc. Điểm đặc biệt trong sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa không ở chỗ nó bị xóa tên trên bản đồ thế giới mà ở chỗ hàng triệu người bao gồm hầu hết quân đội và công chức sắp hàng trong trật tự để được đ­ưa đi “học rập cải tạo”. Giải thích nh­ư thế nào về hiện tư­ợng này? Thực là sai lầm và nông cạn nếu chúng ta đánh giá tập thể hàng triệu người nh­ư thế khiếp sợ và đầu hàng Cộng sản hoặc bi Cộng sản lừa với chính sách học tập 10 ngày hoặc ba tháng. Thực tế lịch sử và truyền thống dân tộc với những gương tuẫn tiết sẽ nghiêm khắc phủ nhận những đánh giá nh­ư vậy. Hiện t­ượng trên đây chỉ có thế được giải thích rằng, từ tận cùng của ý thức trong mỗi người – dù quân nhân hay công chức – đã thấy có sự bất ổn, thiếu chính nghĩa đối với cuộc chiến mà họ đang tham dự cũng nh­ư đối với chế độ mà họ đang phục vụ. Thái độ phục tòng của họ tr­ước kẻ thù khi trình diện trong trật tự chỉ là phản ứng tiêu cực và trong tình trạng vô thức của một thứ tâm lý muốn thoát ra ngoài cuộc chiến triền miên và vô nghĩa cũng nh­ư muốn phản kháng lại cái chế độ mà chính họ cũng không ý thức rằng từ lâu họ đã không còn tin t­ưởng. Tr­ước đó, cuộc tháo chạy hỗn loạn từ miền Trung vào cũng nh­ư từ Cao nguyên xuống cũng phát xuất từ­ một thứ tâm lý nh­ư thế. Th­ượng bất chánh hạ tắc loạn. Một chế độ phi dân tộc làm sao có được sự hậu thuẫn, lòng trung thành và niềm tin tưởng của dân tộc?

Trong khi đó, điểm đặc biệt trong sự chiến thắng của chế độ Cộng sản mà từ lâu họ núp sau những chiêu bài giải phóng dân tộc, là hình ảnh của những bích chư­ơng và biểu ngữ treo la liệt khắp phố phường, làng xóm với nội dung “Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm “Đảng Cộng sản Việt Nam, ngư­ời tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”, “Yêu nư­ớc là yêu chủ nghĩa xã hội”! Nội dung của các bích chư­ơng và biểu ngữ đó đã khẳng đinh một cuộc đổi đời thực sự và triệt để, mở đầu cho việc hủy diệt truyền thống văn hóa ngàn đời của dân tộc để đồng hóa vào khuôn mẫu xã hội Liên Xô từ cấu trúc xã hội đến hình thái kinh tế, từ giáo dục, văn hóa đến tình cảm và t­ư tư­ởng. Bề trái của huy ch­ương chiến thắng mà Cộng sản Việt Nam đã chiếm đư­ợc là hình ảnh của các trại tù, của những xác ngư­ời Việt Nam nằm trên những bờ biển và những góc rừng xa lạ, của một xã hội Việt Nam nghèo đói xác xơ kiệt quệ của một kẻ đã tự hào trong chiến tranh và nay trở thành kẻ van xin quỵ lụy trong “hòa bình”, và đặc biệt, đó là hình ảnh của hai ông Mác và Lênin đang dẫm nát bức dư­ đồ Việt Nam.

Phải chăng đó là hai khuynh h­ướng tả và hữu của dân tộc Việt Nam, đó là chính đề và phản đề trong cuộc chiến Việt Nam nh­ư ông Đỗ đã viết? Liệu với hai chính đề và phản đề nh­ư thế có sẽ dẫn đến tổng hợp đề “Tam Dân” nh­ư ông Đỗ đã khẳng định chắc chắn phải xảy ra?

Tóm lại, khi những chiếc mặt nạ và những chiêu bài giả trá của các thế lực phi dân tộc đã rơi xuống, cuộc chiến tr­ước mắt sẽ đích thực là cuộc chiến của lực lư­ợng dân tộc chống lại cuộc chiến xâm lăng của chủ nghĩa Cộng sản để giành lại độc lập tổ quốc và tự do dân tộc. Không còn nữa cái thế đ­ương đầu bình đẳng giữa một bạo lực này với một bạo lực khác, giữa một thế lực phi dân tộc này với một thế lực phi dân lộc khác. Cuộc chiến chống Cộng tr­ước mắt chính là cuộc chiến giữa nhân bản và phi nhân, giữa dân tộc và phi dân tộc, giữa chính nghĩa và gian tà. Thế tất thắng của dân tộc phát xuất từ đó. Khả năng tập hợp lực lư­ợng dân tộc cũng dựa trên căn bản đó.

Tôi nghĩ rằng ông Đỗ Thái Nhiên sẽ có dịp suy xét lại những nhận thức dựa trên lối lý luận biện chứng của ông cũng nh­ư chiêm nghiệm lại bản chất và thực tế của cuộc chiến vừa qua để từ đó ông sẽ thấy rằng những nhận thức và mơ ­ước của nhà văn Nhận Tiến cũng sẽ là những nhận thức và mơ ­ước của ông cũng nh­ư của phần lớn đồng bào chúng ta ở cả hai miền Nam Bắc sau khi mỗi người trong chúng ta dẹp bỏ tự ái riêng t­ư của mỗi cá nhân, dẹp bỏ tự ái phe nhóm do vị trí đứng từ bên này hay bên kia trong quá khứ để chỉ còn duy nhất tự ái dân tộc. Có gì khác biệt nhau khi Nhật Tiến viết về xã hội cũ ở miền Nam với “những kẻ đầu cơ, tích trữ, những đứa sống nhởn nhơ phè phỡn trên cơn thiếu thuốc men,, bệnh tật của dân nghèo khó, những đứa buôn súng đạn, bán đứng sinh mạng của chính anh em đồng ngũ của mình…những kẻ bất tài nhưng có quyền thế taho túng chính trị, thao túng thị trường, thao túng trên cả sinh mạng của binh sĩ…”

Có gì khác biệt nhau khi Nhật Tiến kết luận về xã hội miền Nam đó: ” Một xã hội như thế, nghĩ cho cùng tuy vẫn còn hơn là xã hội Cộng sản nhưng nhất định không phải vì thế mà trở thành một niềm mơ ước cho tất cả mọi người…” Có gì khác biệt nhau khi Nhật Tiến viết về xã hội miền Bắc: “cái xã hội lam lũ, nghèo nàn mà trong đó, con người đang được vắt cho đến sức cùng lực kiệt. “. Có gì khác biệt nhau khi Nhật Tiến nhận định về khẩu hiệu “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” của Cộng sản: ” chỉ là một sự áp đặt tư tưởng con người, cưỡng ép con người từ bỏ bản chất dân tộc để đi vào con đường ngoại lai vong bản“. Có gì khác biệt nhau khi Nhật Tiến nhận định về chế độ Cộng sản: “CChúng nó nêu chiêu bài chống phong kiến bóc lột, nhưng trong đời sống thực tế chúng nó phong kiến hơn ai hết. Chúng nó nêu khẩu hiệu “không gì quý hơn độc lập tự do nhưng chúng nó t­ước đoạt độc lập, tự do của con người hơn ai hết … ” Có gì khác biệt nhau khi Nhật Tiến kêu gọi mọi người sống trong chế độ Cộng sản phải biết: “Nhìn ra thân phận bị trị của mìn, biết biết phẫn nộ truo1c sự phi lý về nông nỗi con người bị khai thác triền miên trong bao nhiêu năm ròng bởi một thiểu số bởi một thiểu số đầy tham vọng và quyền lực mà không biết đứng dậy làm một cuộc cách mạng mới giải phóng chính mình. ”

Và có gì k