← Quay lại trang sách

Chương 2 NHỮNG QUÁN CHIẾU TRONG TẤM GƯƠNG PHA LÊ-SÁU CÕI BẤT TỊNH-

Xin đảnh lễ Đức Avalokiteshvara, đấng cao quý của thế giới

Ngàn cánh tay của Ngài là ngàn đại đế;

ngàn con mắt Ngài là ngàn vị Phật của thời đại may mắn này.

Ngài xuất hiện trong bất kỳ phương cách nào cần thiết để thuần hóa chúng sinh.

Con đảnh lễ Đức Avalokiteshvara cao quý và siêu phàm.

Con đảnh lễ Ngài, đấng che chở chúng con thoát khỏi tám nỗi sợ hãi;[1]

Con đảnh lễ Ngài, đấng dẫn dắt chúng con trên con đường tới các cõi cao hơn;

Con đảnh lễ Ngài, đấng đưa dẫn chúng con tới sự giải thoát.

Con đảnh lễ Đức Tara, với Ngài mọi mối liên hệ đều có ý nghĩa.

Sắc thân vinh quang của các Ngài hợp nhất tất cả chư Phật;

Các Ngài là tinh túy đích thực của Đức Kim Cương Trì;

Các Ngài là cội gốc của Tam Bảo.

Con đảnh lễ các bậc đạo sư.

Bằng sự kính lễ, cúng dường, sám hối,

hoan hỉ trước công đức của người khác, khuyến thỉnh các bậc thầy giảng dạy và khẩn cầu chư Phật hiển lộ trong thế giới,

bất kỳ đức hạnh nhỏ bé nào con có thể tích tập

con hồi hướng cho sự giác ngộ siêu việt vô song.

Giờ đây Kundun Rinpoche, bậc có linh kiến về Phật Pháp,

hai tulku cực kỳ quý báu [2], những bậc cha mẹ tốt lành đã sanh ra tôi, và những người khác

đã liên tục thúc giục tôi, cho tới khi tôi không thể phớt lờ họ,

và vì thế tôi viết ra những điều chỉ là một giọt nước trong đại dương.

Tôi, cô gái khiêm tốn này là Dawa Drolma,

đã phát khởi động lực thanh tịnh và đi vào cửa Pháp,

Tôi đã từ bỏ cách hành xử xấu xa và những hành vi ác hại, vô đạo đức.

Tôi đã cúng dường Tam Bảo càng nhiều càng tốt

và bố thí cho hành khất bất kỳ thứ gì tôi có thể.

Tôi đã làm bất kỳ tinh tấn nào để thực hành đức hạnh.

Khi đã vứt bỏ những thái độ xấu, tôi chỉ nỗ lực trong những cách thế bi mẫn.

Một số người nói: “Đây là một sự tái sanh may mắn”,

và tự đặt mình vào hàng ngũ những đệ tử trung thành và sùng mộ của tôi.

Những người khác nói: “Cô ta không phải là một vị trời cũng chẳng phải là một quỷ ma”.

Dù họ giải thích cho tôi, nhưng khó coi những gì họ nói là sự thật.

Trong bất kỳ trường hợp nào, tôi là một cô gái ít ham muốn và nhu cầu.

Tôi không có những hy vọng được nổi tiếng.

Tôi không có sức mạnh để mang vác gánh nặng của một nữ anh hùng đang tìm kiếm một địa vị cao ngất.

Tôi không khao khát của cải hay kiếm tìm để có được ngay cả một sợi chỉ.

Tôi không ước muốn thuyết giảng, và thiếu hẳn một cái miệng lanh lợi và cái lưỡi dí dỏm.

Tuy nhiên, với tâm hoàn toàn thanh tịnh và vị tha

tôi có cảm tưởng rằng mình có thể ảnh hưởng tâm thức của một ít chúng sinh,

và vì thế tôi sẽ bày lộ một con đường cao quý, không thể sai lầm và thẳng tắp.

Nếu các bạn coi nó như cái gì chân thật, thì đó sẽ là sự tốt lành vĩ đại nhất mà các bạn có thể làm cho chính mình.

Bởi bằng những chọn lựa đạo đức, các bạn bảo đảm hạnh phúc của riêng mình.

Vì thế, hãy chú tâm lắng nghe những lời này của tôi!

Đây là câu chuyện của tôi về sự chết và hành trình đi tới địa ngục.

Các đạo sư tôn kính ở địa vị cao,

những nhà cai trị với quyền lực và ảnh hưởng vĩ đại, an tọa trên những chiếc ngai của họ,

và những nhà bảo trợ giàu có, là những người tạo nên hạnh phúc và kho lẫm của cải vật chất –

khi họ chết và đi tới các cõi địa ngục,

không có vô số nhà sư tề tựu trong sự lộng lẫy, tráng lệ,

không có những cuộc duyệt binh với kiếm đao và các loại vũ khí,

không có những kho thực phẩm hay của cải để thực hiện những cuộc hối lộ bí mật.

Địa vị cao ngất, sức mạnh và quyền lực tàn nhẫn,

của cải của người giàu, những thân xác yêu kiều đẹp đẽ,

sự hóm hĩnh tinh ranh và những lý lẽ thông minh

không thể làm khây khỏa hay lừa gạt Thần Chết.

Có ai trong cõi người này sống mãi mà không chết?

Có ai không phải chia ly gia đình và bằng hữu?

Có sự thâu đạt của bất kỳ ai mà không bị bỏ lại đằng sau?

Có ai không rơi ngã từ một đỉnh cao tột vời?

Thật tốt cho tất cả các bạn nếu có những người như thế!

Mặc dù chúng ta nói về địa ngục như nơi nào xa xôi lắm, nhưng không phải thế.

Mặc dù chúng ta nói về bardo [3] như nơi nào khác để đi, nhưng không phải thế.

Cái chết lảng vảng bên mình như cái bóng của ta đi theo thân xác.

Nếu các bạn tỉnh giác về cái chết không thể tránh, các bạn là những người thông minh nhất trong tất cả.

Khi giờ chết đã tới, những bậc cha mẹ và con cái,

vợ chồng, thân quyến và bạn bè, của cải và tài sản đều như nhau

họ có hiến tặng cho các bạn lợi ích hay nơi nương tựa nhỏ bé nhất? Hãy nhìn và thấy đấy!

Họ điều làm ác độc to lớn nhất là gởi các bạn tới các cõi thấp [4].

Như thế, điều gì là lợi lạc? Chính là Tam Bảo không thể sai lầm.

Nếu các bạn duy trì một tâm thức cao quý, đức hạnh và trì tụng thần chú mani sáu-âm,

các bạn sẽ không đi vào con đường dẫn tới những tái sanh ở các cõi thấp trong vòng luân hồi,

mà đạt tới trạng thái toàn giác không gì sánh.

Om mani padme hung hri.

Xin đừng thất bại trong việc ban cho chúng con sự nương tựa, Ôi các bậc đạo sư và Tam Bảo [5].

Xin đừng ẩn dấu lòng bi mẫn của Ngài, hỡi Đức Avalokiteshvara cao quý.

Xin làm những đấng bảo trợ nương tựa cho chúng con, hỡi các thiên nữ trắng và xanh [6].

Xin chỉ cho chúng con con đường đi tới giải thoát, Ôi các Đấng Chiến Thắng và những bậc kế thừa của các Ngài.

Om mani padme hung hri.

Trong bầu trời trống rộng và mặt đất trống không của trạng thái bardo giữa cái chết và sự tái sanh,

ta không có cả cha lẫn mẹ để quay về nương cậy.

Trong chốn thê lương, xa lạ này,

chúng sinh phàm tục lang thang, tan nát trong tâm tưởng.

Om mani padme hung hri.

Giờ đây tôi sẽ nói về những kinh nghiệm linh kiến của tôi. Trong khi tôi, cô gái Dawa Drolma, đang vượt qua một hẻm núi xa lạ và khủng khiếp thì gặp Sherab Dronma, con gái của gia đình ông Raga Shag, một trong những bộ trưởng của chính phủ Lhasa. Bởi bà là một hóa thân của Đức bổn tôn Vajravarahi nên tất cả những ai có quan hệ với bà qua việc chia sẻ hoặc thọ nhận những của cải hay thực phẩm từ bà sẽ được dẫn dắt tới cõi thuần tịnh ở tiểu lục địa Chamara. Vì thế, bà xuất hiện trong các cõi thấp của sự tái sanh và đã đưa dẫn khoảng một trăm triệu chúng sinh theo bà thoát ra ngoài. Khi tôi gặp bà, bà đang tụng hát thần chú mani với một âm điệu cực kỳ du dương, khơi dậy lòng tin đến nỗi những giọt lệ tuôn chảy trên đôi mắt tất cả những người hiện diện.

Thiên nữ cao quý Tara Trắng (vị bổn tôn mà với Ngài tôi đã có mối liên hệ nghiệp riêng và Ngài đã dẫn dắt tôi trong nhiều đời) và Sherab Dronma đều hiển lộ trong những hình tướng có vẻ bình thường. Các vị cư xử với nhau thật đằm thắm, giống như sự gặp gỡ giữa mẹ và con. Hơn nữa, Sherab Dronma còn xử sự với tôi trong cung cách có vẻ sùng mộ và tôn kính. Sau đó bà hát bài ca này:

Om mani padme hung hri.

Có năm con đường: trắng, đỏ, xanh dương, xanh lá cây và vàng.

Con, con gái, hãy biết rõ con đường nào để đi.

Đức Tara Trắng, xin dẫn dắt cô gái trên con đường đó!

Con đường màu trắng đi về phương tây dẫn tới Cõi Cực Lạc,

cõi thuần tịnh của Đức Phật Amitabha.

Con đường màu đỏ dẫn tới Chamara,

cõi thuần tịnh của Đức Padmasambhava.

Con đường màu xanh dương dẫn tới Núi Potala,

cõi thuần tịnh của Đức Avalokiteshvara cao quý.

Con đường màu xanh lá cây dẫn tới Yulokod,

cõi thuần tịnh của Đức Tara cao quý, tôn kính.

Con đường màu vàng dẫn tới Cõi Hoa thượng,

cõi thuần tịnh của vị nhiếp chính Jampa Gonpo.

Nếu con không thể quyết định theo con đường nào,

thì thật ít ý nghĩa trong việc lang thang trong bardo sau cái chết.

Con, Dawa Drolma, hãy biết rõ nơi phải đi.

Cầu mong con đến được cõi mà con tìm kiếm.

Ta là một hóa thân của Vajravarahi.

Không có những tái sanh trong trạng thái thấp đối với những ai có liên hệ với ta qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.

Từ núi Huy Hoàng trong tiểu lục địa Chamara,

hãy đi tới thế giới của cõi người.

Cầu mong con được ban cho những sự ban phước để thực hiện con đường giải thoát.

Bà tiếp tục: “Con gái, con cần phải trở về cõi người. Nhưng chỉ mới mười sáu tuổi, năng lực tinh thần của con chưa phát triển đầy đủ, và khi đã tái sanh làm một người đàn bà, con sẽ có một chút uy quyền. Bởi chúng sinh trong những thời đại suy hoại này sẽ khó tin rằng những tường thuật của con là chân thật, sự lợi lạc mà con có thể đem lại cho họ sẽ bị suy giảm”. Nước mắt bà rơi lã chã bởi lòng trắc ẩn đối với tôi. Đức Tara Trắng, bậc đang dẫn dắt tôi trên con đường, có vẻ hơi phật lòng vì những lời này. Ngài trả lời:

Những cô gái thế tục bình thường và cô gái này thì không giống nhau,

bởi cô ấy là một hóa thân của Tara Trắng.

Cô ấy là một cô gái có tâm hồn đức hạnh.

Cô ấy là cô gái có lòng bi mẫn.

Cô ấy là một nữ anh hùng có tâm hồn can đảm.

Cô ấy là một dakini được chứng nhận trong tiên tri.

Cô ấy là cháu gái của bốn đạo sư.

Ngài Khakyod Wangpo bất nhiễm đã khởi hành tới Chamara trong một thời gian ngắn; cô gái này đi tới cõi đó hy vọng gặp lại Ngài.

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với cha cô;

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với mẹ cô;

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với những vật sở hữu, thực phẩm hay tài sản;

Cô ấy tới chốn này không chút quyến luyến với bằng hữu hay các người phục vụ.

Không thể phân ly với bậc thống lĩnh Manjughosha [7],

bậc thống lĩnh bảo trợ, hóa thân hoạt động của một ngàn vị Phật,

là bậc thống lĩnh nương tựa, Đức Sakya Sodnam Tzemo vĩ đại[8].

Hóa thân của Ngài trong thân tướng của một thiện tri thức,

đạo sư Tromge Chhogtrul, nhập thể tuyệt hảo,

nỗ lực liên tục trì hoãn cô, Ngài nói: “Đừng đi!”

nhưng cô ấy không nghe và đi tới nơi này.

Cô ấy cũng gặp những cõi linh kiến thanh tịnh không thể suy lường.

Nếu cô ấy trở về thế giới con người,

cô có thể kể về những chọn lựa đạo đức trong việc chấp nhận những hành vi đức hạnh và từ bỏ những ác hạnh.

Cô ấy có thể chuyển tâm của chúng sanh.

Cô ấy có thể thành tựu vô số lợi ích cho họ.

Cô có thể nói về những linh kiến của cô trong những cõi này.

Cô có thể viếng thăm cõi giới này một lần nữa.

Vì thế không cần đối xử với cô ấy với lòng trắc ẩn,

và bà không nên cảm thấy buồn đau trong lòng.

Rồi chúng tôi tiến lên.

Trong cổng vào lối đi dài và ghê sợ của bardo là Đạo sư Gyajam, một đệ tử thân thiết của Tromge Kundun Rinpoche. Tóc Ngài bới lên thành một búi, và Ngài khoác một khăn choàng và mặc một hạ y bằng vải trắng. Mặc dù tôi rất mong được gặp Ngài, nhưng chúng tôi không tiếp xúc và không bao lâu tôi tiếp tục đi. Tôi hỏi bà mẹ bi mẫn của Đấng Chiến Thắng: “Vị lạt ma đó của chúng ta, ngài Gyajam chứng ngộ - Ngài từ đâu tới, từ hướng nào? Và với mục đích gì?”

Các thiên nữ Tara Trắng và Tara Xanh trả lời:

Bậc chứng ngộ và hết sức cao quý đó được đặt tên theo Đức Manjughosha [9]

đã nương tựa một đạo sư nhân từ và cực kỳ bi mẫn.

Bởi mối liên hệ nghiệp của Ngài sâu đậm, Ngài đã phát triển sự chứng ngộ toàn hảo;

bởi sự tinh tấn của Ngài lớn lao, Ngài đã thực hành Pháp thật dũng mãnh;

bởi lòng bi mẫn của Ngài vĩ đại, Ngài đã tới giảng dạy Pháp trong bardo.

Om mani padme hung hri.

Lại thêm những điều để kể: Hàng năm chúng sinh bị cuốn lên giống như một trận bão tuyết; hàng ngàn chúng sinh nữa rớt xuống như một trận mưa tuyết dày đặc. Họ kêu khóc, tiếng kêu như âm thanh của một ngàn con rồng. Nước mắt như một trận mưa rào dài một năm tuôn ra từ đôi mắt họ. Từ đỉnh đèo cát giữa sự sống và sự chết xuống tới những cánh đồng sắt nóng đỏ rộng lớn trong các địa ngục, chúng sinh nhiều vô số kể, như những hạt cát trong đại dương. Họ không được nghỉ ngơi hay rảnh rỗi, giống như những cừu cái lẫn lộn với cừu non [10]. Nỗi khổ của họ không thể đo lường được, giống như nỗi khổ của một con cá trên đất khô. Như người cố leo lên một đồi cát, họ không có cơ may để trốn thoát. Như người bị ném vào lò lửa, họ không có phương tiện để chịu đựng. Như người có ảo giác nhìn thấy nước, họ kinh nghiệm những hình tướng lầm lạc theo nghiệp của họ. Các thiên nữ bi mẫn và cao quý, xin đưa dẫn những chúng sinh này là những người đang kinh nghiệm nghiệp quả thật hỗn loạn!

Om tare tuttare ture soha.

Trên một cánh đồng trống và rộng lớn trong bardo, Lozang Drolma, con gái của Tromge Kundun Dargyay, đang lang thang. Nỗi khổ của cô không quá lớn cũng không quá nhẹ nhàng. Cô trao cho tôi thông điệp sau đây để thuật lại:

Hãy nói lại điều này cho những người trong gia đình tôi:

Nếu cha mẹ thực cảm nhận rằng con gái của mẹ đang đau khổ,

thì một lần duy nhất trì tụng thần chú mani sẽ có lợi ích to lớn.

Nếu cha mẹ có thể thu xếp để trì tụng Kinh Giải Thoát,

càng nhiều càng tốt thần chú mani,

và Tantra Sám Hối Bất nhiễm,

thì con có thể từ bỏ thân bardo này

và đạt được tái sanh như một con người với samaya trong sạch [11].

Với một tấm lòng bi mẫn, tôi lớn tiếng tụng thần chú sáu-âm cho cô từ xa, và cô ấy ra đi, bị cuốn dạt như một chiếc lông chim trong gió.

Trên đèo cát rất cao giữa sự sống và sự chết, là một cánh đồng cực kỳ hoang vắng, thảo nguyên bao la xám xịt của sự chết. Con sông người chết có một màu nâu ngầu đục, không có chỗ cạn, chỉ có những con sóng tung cao thật dữ dội. Chiếc cầu sáu-nhịp dễ sợ làm tôi ớn lạnh. Những sứ giả kinh khủng của Yama, Thần Chết, thì cực kỳ hung dữ và phàm ăn. Không có tới một vị bảo trợ trong xứ sở của người chết, chúng sinh ở đó thật bơ vơ, không nơi nương tựa!

Om mani padme hung hri.

Aga, con dâu của gia đình Gyaten xứ T’hromt’hog, ở trong con sông nâu không có chỗ cạn của người chết đó, phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi. Đây là hậu quả sau cùng của việc cô đã cúng dường trà bất tịnh cho tập hội nhiều nhà sư. Tôi hát thần chú mani và với một mũi tên có trang trí dải ruy băng, Đức Tara đã cứu thoát cô, kéo cô ra khỏi con sông nâu hung dữ.

Tôi tiếp tục đi xuống một nơi khủng khiếp. Không có ánh sáng, mà chỉ là bóng tối ảm đạm đến nỗi tôi chỉ có thể nhìn thấy khoảng một cánh tay trước mặt. Từ trên cao, một trận mưa đổ xuống. Mặt đất bị bao phủ bởi sắt nóng. Kim loại nóng chảy tràn ngập mọi hướng và đủ loại vũ khí rải đầy khắp nơi. Xác chúng sinh chất cao khoảng một trăm sải (1 sải = 1,8m), da họ màu đen như mực. Họ kêu thét một âm thanh inh tai nhức óc không dứt, giống như trăm cừu mẹ gặp được trăm cừu con của chúng, “Trời ơi! Than ôi! Ôi khổ tôi chưa! Chao ôi! Ôi Cha ơi! Ôi Mẹ ơi! Cứu con! Ôi, nóng quá!”

Sự xuất hiện hỗn loạn và khủng khiếp này dường như rải rác ở một địa điểm nào đó.

Ở giữa một cánh đồng bao la khác sừng sững một cái ngai sắt màu đen có kích thước của một tòa nhà ba tầng. Ngự trên đó là Dharmaraja [12], Thần Chết. Thân tướng ông màu nâu pha đỏ tía đậm, trông thật khủng khiếp, hung nộ và dữ tợn. Đôi mắt ông sáng rực như mặt trời và mặt trăng, đỏ ngầu và lóe sáng như tia chớp. Có những mụt cóc trên má và những chỗ khác trên mặt ông. Ở phần thân trên, ông khoác miếng da sống của một con voi, quanh thắt lưng là miếng da lột của một con người, quấn quanh phần thân dưới là hạ y bằng da cọp. Ông tô điểm bằng quần áo lụa cùng nhiều món trang sức bằng xương và châu báu. Trên đầu đội một vương miện làm bằng năm đầu lâu khô. Trong bàn tay phải, ông ôm một bảng định mệnh có vẽ các vạch chéo song song, trong bàn tay trái là tấm gương nghiệp quả [13] Ông ngồi trong tư thế xếp chéo chân. Vẻ rực rỡ phát ra từ thân ông làm chói mắt không thể chịu nổi.

Trước mặt Yama là Ác Ý, một thuộc hạ có đầu của một con rắn đang cầm một tấm gương. Bên phải Yama là Kiêu Ngạo với cái đầu sư tử, cầm cái trống tòa án. Phía sau Yama là Định Mệnh với cái đầu khỉ, cầm một cái cân. Bên trái Yama là Awa Đầu-Bò, cầm những cuộn giấy. Xung quanh họ có vô số hàng triệu thuộc hạ của Thần Chết hóa thân trong những hình dạng có đầu của vô số thú vật.

Đức Tara và tôi, cô gái, cùng thực hiện ba lễ lạy và dâng bài tụng ca tán thán sau đây:

Nếu nhận ra được, thì chính là đây - bổn tâm của ta;

nếu không nhận ra, thì đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại.

Thực ra đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Samantabhadra (Phổ Hiền).

Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.

Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa);

Nếu không đó là Ác Ý với đầu của một con rắn.

Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự sân hận hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một tấm gương.

Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh);

nếu không, đó là Kiêu Ngạo với đầu sư tử.

Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự kiêu ngạo hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một cái trống tòa án.

Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Amitabha (A Di Đà)

nếu không, đó là Định Mệnh với cái đầu khỉ.

Thực ra đây chính là giác ngộ, với sự tham luyến hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm một cái cân.

Nếu nhận ra được, thì đó là Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu);

nếu không đó là Awa Đầu-Bò.

Thực ra đây chính là tâm giác ngộ, với sự ganh tị hoàn toàn được tịnh hóa.

Chúng con đảnh lễ và tán thán vị thuộc hạ vĩ đại cầm những cuộn giấy.

Các ngài biết rõ đức hạnh hay điều xấu ác, những thuộc hạ phẫn nộ của sự chết này.

Cầu mong những chúng sinh đó, là những kẻ không hoàn tất điều gì, không tích tập nghiệp xấu.

không bị dẫn vào những con đường không lối thoát và không thể chịu đựng,

được tái sanh trong một cõi thuần tịnh không lỗi lầm và không sợ hãi.

Dharmaraja hơi mỉm cười và trả lời: “Cô con gái có biện tài từ cõi người, cô đã tích tập loại nghiệp tích cực, thiện lành nào? Cô đã tích tập loại nghiệp tiêu cực, xấu ác nào? Hãy nói thật trung thực, bởi nói dối sẽ không ích lợi gì!”

Đức Tara Trắng đứng lên, lạy Dharmaraja ba lạy và nói: “Thay mặt cô gái này, tôi có vài điều muốn nói”.

“Tốt lắm”, ông trả lời.

“Cô gái này là con gái của gia đình Lạt ma Tromge” bà nói. “Về đức hạnh, cô ấy cúng dường bất cứ điều gì có thể cho Tam Bảo, coi Tam Bảo là bậc trưởng thượng của cô. Cô có lòng đại bi và không coi thường những người xấu, những người hành khất như người dưới của cô. Cô rất rộng lượng, thưa Ngài. Mặc dù bản thân cô không thực hành Phật Pháp nhiều, cô làm cho những người khác thực hành và khuyến khích họ sống đức hạnh. Cô luôn luôn có đức tin, lòng sùng mộ và Bồ Đề tâm to lớn. Cô không bao giờ mắc phạm dù chỉ một hành vi ác hại hay phi-đạo đức, thưa Ngài”.

Khi bà trình bày xong, Yama nói: “Tốt, nào! Thuộc hạ đầu-rắn sẽ nhìn vào tấm gương của ông xem điều này có đúng sự thật không”.

Thuộc hạ đầu-rắn chăm chú nhìn vào tấm gương và nói: “Hình ảnh giống như mặt trời lộ ra từ sau đám mây”. Thuộc hạ đầu-sư tử đánh cái trống tòa án và phát biểu: “Âm thanh thật du dương”. Thuộc hạ đầu-khỉ đặt các vấn đề lên bàn cân và tuyên bố: “Đức hạnh của cô ta hoàn toàn trổi vượt; hầu như chỉ có hơn một hoặc hai hành động xấu”. Cuối cùng, thuộc hạ bảo vệ đầu-bò liếc nhìn những cuộn giấy và nói: “Một phút thôi! Cô có phạm vài hành động xấu, như đập vỡ trứng chim trên mặt đất hoặc tỏ lộ tánh khí quá ngang bướng, phải không?”

Nghe những điều này, Dharmaraja cười khúc khích và nói: “Ồ, thế à! Tốt, con gái ta, mặc dù con là một người đầy lòng bi mẫn, nhưng lỗi lầm của những người xấu thì thật nặng nề. Nếu ta trừng phạt một số người và tha thứ những người khác, thì với tư cách là một vị vua có quyền lực đối với những ác hạnh, ta sẽ phải chịu những hậu quả của sự sao lãng nhiệm vụ. Vì thế, bây giờ ta sẽ gởi con trở về cõi giới của con một lần nữa, nhưng con nên sám hối những hành vi xấu của con và cẩn thận giữ gìn đức hạnh chừng nào con có thể. Hãy giữ trong tâm những cảnh tượng của địa ngục, những thông điệp từ những người quá cố, và những lời khuyên này của Dharmaraja. Con cũng hãy thuật lại các điều này cho những người khác và khuyến khích mọi người thực hành đức hạnh”.

Nhìn xung quanh, tôi thấy một cô gái tên là Bilima ở miền Zurpa. Một con rắn đen to mập như thân cây thông quấn quanh người cô từ đầu tới chân như thể cô đắp một cái mền. Những thuộc hạ của Yama la hét và rống lên: “Ha, ha! Ồ, ồ!” tạo nên một âm thanh inh tai nhức óc. Nước mắt cô dầm dề như đại dương, và tôi nghe tiếng cô kêu khóc: “Ôi, Cha ơi, Mẹ ơi, cứu con!”

Vị thuộc hạ la lớn:

Ồ đứa con gái tội lỗi giết những con rắn,

Kêu réo cha mẹ mi thì chẳng có ý nghĩa gì.

Đây là hậu quả của những hành động bản thân mi đã phạm.

Sẽ không thể thoát khỏi trong một ngàn kiếp!

Đây là kết quả sau cùng của việc cô giết một con rắn trong khi thu hoạch lúa mạch trong cánh đồng. Bà mẹ già của cô lo sợ những hậu quả của hành động này và nói với cô: “Con quỷ cái, đừng kêu la nữa – hãy sám hối hành động này!” cô gái đã cười phá lên và sự tái sanh này kết quả.

Cũng có một cô gái tên là Palkyid ở quận Nyagrong. Những thuộc hạ của Yama đã đặt một cái rây bằng sắt trên đầu cô, qua đó họ đổ chất kim loại đỏ rực, nóng chảy và sôi sùng sục từ đầu tới chân cô. Với những âm thanh xèo xèo, xương thịt cô bị đóng dấu bằng sắt nung và bị thiêu đốt. Cô thút thít, không thể khóc lớn tiếng. Những thuộc hạ la hét: “Ồ đứa con gái tội lỗi, trong thế giới con người phàm tục, mi đã la cà bên ngoài khu vực tu hành của một hội chúng tu sĩ, bắt đầu mỉm cười và tán tỉnh họ. Gấu áo quần của mi làm tung bụi đất. Một nhà sư nói: “Đừng cư xử như vậy – đừng tích tập nghiệp xấu!” Nhưng mi không nghe ông ấy va điều đang xảy ra cho mi bây giờ là hậu quả sau cùng của việc mi phá rối những thành viên này của tăng đoàn. Trong một ngàn kiếp, mi sẽ không có cơ may thoát khỏi”.

Bà mẹ bi mẫn của các Đấng Chiến Thắng vung vẩy mũi tên có trang trí dải ruy băng lụa; tôi, cô gái, đã tụng thần chú mani du dương như một giai điệu. Thoát khỏi trạng thái thấp đó, Palkyid tái sanh trong cảnh giới mà cô cầu nguyện, nhưng dường như cô vẫn còn phải chịu một vài hậu quả do các hành động của mình.

Om mani padme hung hri.

Sau đó tôi thấy một người đàn bà già ở miền Tro, tên là Anag. Khi kim loại nóng chảy sôi sục được đổ vào miệng bà, thân bà ta vỡ tung ra từng mảnh từ đầu tới chân. Bà chịu đựng loại đau khổ này liên tục không ngừng nghỉ. Tôi được cho biết hậu quả này là bởi bà đã đầu độc một vị lạt ma [14].

Dingla ở vùng Aso, Khargya và những người khác – thực ra phần lớn những người ở vùng đó – đang lang thang trong bardo. Rinchhen Dargyay cũng lang thang vơ vẩn ở đó. Một người tên là Nyima Holeb bị tái sanh trong Địa ngục Sống lại [15].

Cũng có khoảng mười người ở Aji. Một số đã bị tái sanh trong các cảnh giới địa ngục, một số thì ở các cảnh giới preta [16].

Trong số họ có một người tên là Abo có một cái đầu to như một cái bình đất sét lớn và thân mình bị biến dạng trông thật khủng khiếp. Miệng ông ta nhỏ như lỗ kim và thực quản bằng bề rộng của một sợi bờm ngựa, trong khi bao tử thì lớn bằng cả một thành phố. Móng tay ông đâm thủng các năm tay nắm chặt của ông ba lần. Ông không tìm được thức gì để ăn; những lưỡi lửa trào ra khỏi miệng. Ông ra đang phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi.

Tôi hỏi: “Hành động nào dẫn tới nỗi khổ của người này?” Tôi được kể lại rằng ông ta không bao giờ cúng dường Tam Bảo là những bậc trưởng thượng của ông, và đối xử thiếu nhân từ với chúng sinh ở các trạng thái thấp là những kẻ dưới ông. Ông luôn luôn cúng dường một số lượng nhỏ bé và do sợ cạn kiệt lương thực, ông ta chỉ dâng cúng sự tham lam.

Một người quen của tôi tên là Atar thuộc gia đình Tampa xứ T’hromt’hog cũng ở đó. Thông điệp của ông ta gởi cho mẹ và thân quyến là: “Xin đừng từ bỏ những thực hành đức hạnh, sự trì tụng thần chú mani và nghi thức của Đức Phật Akshobhya [17] cùng sự quyên cúng cho tập hội đông đảo các nhà sư”.

Tashi Dondrub thuộc gia đình Nag cũng tái sanh ở đó và trải qua nỗi khổ ghê gớm. Tôi hỏi bạn đồng hành của tôi là Đức Tara: “Người này đã phạm hành động nào mà phải chịu hậu quả này?”.

Ngài đáp: “Không giữ gìn các hứa nguyện samaya của mình, hành động với sự ích kỷ kiêu căng, nghĩ tưởng rằng: “Có phải ta sẽ được cái này?” và “Ta sẽ kiếm được cái kia chăng?”

Ông ta trao cho tôi thông điệp gởi về gia đình: “Vì lợi ích của tôi xin hãy trì tụng bảy mươi triệu lần thần chú mani và Kinh Giải thoát, hãy sám hối những hành động có hại của quý vị, và hãy dâng những lời cầu nguyện hồi hướng trong tập hội đông đảo”.

Gyashod Atsang bị tái sanh trong một cõi ngạ quỷ (preta). Vô số không thể nghĩ bàn những người khác, những người tôi quen biết lẫn những người không quen cũng bị tái sanh ở đó. Cõi giới này thì thật khủng khiếp. Các chúng sinh hết sức tuyệt vọng bởi họ không sao tìm được thứ gì để ăn hay uống. Tóc họ dựng đứng lên, thân thể gầy mòn, miệng giống như lỗ kim, cổ họng như những sợi bờm ngựa, bụng lớn như toàn thể xứ sở, và chân tay thì như những cọng cỏ. Móng tay rất dài, đâm thủng bàn tay họ chín lần.

Phần lớn trong số đó, có trong bàn tay chút nước bọt mà Đức Jamyang Khyentsei Wangpo hồi hướng cho họ [18], nhưng họ phải trải qua hàng trăm hay hàng ngàn năm trước khi có thể mở miệng và liếm tí chút nước bọt ấy. Họ không tìm thấy bất kỳ sự nhàn nhã nào ngoại trừ giây phút nghỉ ngơi ngắn ngủi này. Trong nỗi đau khổ của họ, họ đồng thanh kêu khóc: “Tôi sẽ ăn cái gì? Tôi sẽ uống cái gì? Tôi đói! Tôi khát! Trời ơi, trời ơi! Than ôi!”

Quân lính bảo vệ cõi preta bày ra nhiều loại món ăn và của cải, rồi cầm những lưỡi gươm sắc nhọn trong tay và nhìn trừng trừng trông thật hiểm ác. Bị dồn ép bởi đói khát, những preta tới ăn cắp thực phẩm và nước uống này, nhưng chỉ khiến cho thân xác họ bị những thanh gươm này đâm chém làm họ kêu khóc thật hoảng loạn.

Các bán thần phải trải qua nỗi khổ dữ dội trong cuộc chiến đấu với các vị trời trên những dốc núi Tu Di [19]. Họ ganh tị không thể chịu đựng nổi trước sự tráng lệ và của cải trong các cõi trời cùng trò nô đùa ve vãn của các thiên nữ đang ca hát và nhảy múa, nhưng họ chỉ gánh chịu sự đau khổ không tưởng tượng nổi bởi thất bại trước các vị trời. Các vị trời ném đĩa có các đinh nhọn, cũng như các mũi tên và chĩa ba, và sử dụng những con voi say có những vũ khí hình bánh xe được trang bị ở cuối thân voi. Các bán thần trải qua những đau khổ không thể nghĩ bàn khi bị giết chết hay bị thương tích. Họ cũng chiến đấu ngay trong nội bộ của họ, với những âm thanh inh tai “Giết, giết!” và “Đánh, đánh!” vang dội như tiếng gầm của một ngàn con rồng.

Ngay cả bản thân tôi cũng kinh hoàng trước những gì được chứng kiến trong cảnh giới đó. Đối với việc ném mạnh một trái trứng chim trên mặt đất, tất nhiên là tôi phải kinh qua mọi loại khí giới; nhưng tôi đã nhất tâm khẩn cầu Bồ Tát của lòng bi mẫn và vị thiên nữ tôn kính và hát tụng thần chú sáu-âm ba lần, và rồi dường như đối với tôi, những âm thanh dần dần trở nên dịu đi.

Khoảng năm ngàn người ở vùng Chamtring và một số không rõ những người Trung Quốc tái sanh trong cùng cảnh giới này. Dường như cũng có nhiều nhà quý tộc, nổi bật nhất trong số đó là Lozang Tendzin, một vị tướng miền Chamtring. Một số đông người không thể tính xuể bị tái sanh ở đó, trong đó có gia đình Wanggyal và bộ tộc Dugtza, phần lớn họ đã chết vì dao.

Đi xa hơn nữa, trong một công viên đầy hoa, tôi tìm thấy một vị trời hết sức già, không chịu đựng điều gì ngoài sự đau khổ. Vài người bạn tới gần, ném những vòng hoa lên người ông và nói: “Ngay khi ông rời bỏ thân xác, cầu mong ông được tái sanh trong cõi người, thực hành mười loại thiện hạnh [20], và một lần nữa được sanh vào cõi trời này”. Cùng với lời nói đó, họ tung rải những bông hoa. Ông đã phải chịu nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi, như thể trái tim ông vỡ tung ra và thân xác thì tan thành cát bụi.

Sự trường thọ của đời một vị trời có thể được đo lường từ sự kiện là khoảng bảy ngàn năm của con người chúng ta chỉ bằng một tuần lễ đối với họ. Một tuần trước khi chết, họ trải qua những đau đớn mà mức độ dữ dội thì vượt xa những đau khổ trong địa ngục khủng khiếp nhất của sự hành hạ không ngừng dứt. Khi nghiệp của họ cạn kiệt, do các niệm tưởng bị hư hỏng bởi những cảm xúc như sự kêu ngạo, họ thực sự nhìn thấy nơi tái sanh trong tương lai của mình ở một cõi thấp. Điều ấy làm họ đau khổ ghê gớm hơn việc tự vẫn bằng cách tự ném mình vào hầm lửa lộ thiên.

Om mani padme hung hri.

Tôi tiếp tục đi và gặp Kardo thuộc bộ tộc Gestsay trong một cõi địa ngục. Ở đó, trong một căn nhà bằng sắt đồ sộ có kích thước to lớn, ông ta đang thâu thập đất, đá, cỏ và gỗ (mặc dù tôi nghi ngờ về sự cần thiết của những hành động của ông), và đặc biệt là lam ngọc, san hô, pha lê, đá lưu ly, vàng và bạc. Rồi các thuộc hạ của Yama chất đống tất cả của cải cùng đất đá lên đầu ông. Ông kêu khóc trong đau đớn. Dù cố trốn thoát ở đâu, ông cũng bị chặn giữ lại. Sau đó, phải nhìn những viên đá và kim loại quý bị rải rắc như những lông chim trong gió, một lần nữa, lòng ông đau khổ dữ dội. Rồi lại như lần trước, ông thâu thập của cải và thực phẩm và lại bị chúng đè bẹp, và vì thế ông phải chịu đựng trong từng giây phút những hình thức đau khổ luân phiên này.

Tôi hỏi: “Đây là hậu quả của hành động nào?”

Đức Tara nói với tôi: “Đây là hậu quả của việc ông ta thèm muốn tất những gì ông để mắt tới, hậu quả của việc ông có ác tâm với mọi người ông nghe nói, hậu quả của việc ông không có gì ngoài những tà kiến về mọi sự ông nghĩ tưởng tới. Đây là hậu quả của việc không thực hành đức hạnh, mà dấn mình vào những hành động phi đạo đức và có hại, kể cả việc đeo một mala (chuỗi hạt) trong khi bị phóng tâm bởi chuyện ngồi lê đôi mách và trò chuyện tầm phào không đâu”.

Kardo trao cho tôi thông điệp này để mang về: “Với Tsagdi, con dâu trong gia đình tôi, tôi nói: ‘mặc dù con trang điểm bằng mã não và san hô, điều này không tốt cho cha. Con không thương xót cha sao? Con đã không thỉnh cầu một đạo sư duy nhất để tạo mối liên hệ với cha bằng cách hồi hướng tài sản của con nhân danh cha. Không gì lợi ích cho cha hơn nghi lễ tẩy tịnh của Đức Phật Akshobhya, bổn tôn trong cổng phía nam của mạn đà la của Đức Phật Vairocana”’.

Tôi trì tụng thần chú mani và trong chốc lát ít ra ông ta đã có thể nghỉ ngơi. Nhưng cũng như trước đó, ông bắt đầu phải chịu đựng những tri giác lầm lạc của mình.

Thêm vào đó, có nhiều lạt ma (đạo sư) và nhiều sư trong một ngôi nhà trông-đẹp đẽ làm bằng sắt. Mặc dù thoạt đầu họ có vẻ khá hòa nhã, bỗng nhiên tâm họ trở nên rối loạn và cùng lúc đó họ bắt đầu la hét một ngôn ngữ gớm ghiếc. Trong sự hoài nghi, tôi tới gần và thấy lửa phun ra từ miệng họ, khói thoát ra từ lỗ mũi và những chiếc cưa sắt kêu rì rầm trên đỉnh đầu họ. Khi tôi hỏi họ hành động nào đã dẫn tới hậu quả này, họ trả lời là họ đã nói chuyện tầm phào trong các nghi lễ được cử hành cho tín đồ (cả người sống lẫn người chết), trong khi kết giao với những hành giả đang hoàn thành những thực hành bổn tôn theo nghi thức và trong khi dự những nhóm hội trong đền thờ của họ. Họ đã làm gián đoạn việc thiền định của người khác bằng cách nói luôn miệng, cãi cọ trong những tiệc cúng dường và tạo nên một âm thanh chói tai.

Một người hành hương du phương xuất hiện mặc quần áo rách rưới tả tơi và cầm một cây cờ cầu nguyện [21]. Yama Dharmaraja hiện ra với thuộc hạ của ông, biểu lộ sự vui thích và nói: “Lợi lạc to lớn biết bao cho Phật Pháp! Và không có gì vĩ đại hơn Pháp cao quý của một lá cờ cầu nguyện. Những lá cờ cầu nguyện là cội gốc của Pháp. Thần chú mani là tinh túy của Pháp. Thần chú siddhi đem lại sự giải thoát từ lối hẹp của bardo [22] Nghi lễ chay nyungnay là bậc thầy chỉ rõ con đường đi tới giải thoát. Những hòn đá một trăm ngàn thần chú mani là vòng hoa của Pháp [23]. Hành vi cứu giúp những sinh mạng là cỗ xe của con đường. Việc đúc các satsa là cách chặn đứng sự tái sanh trong các cõi thấp [24].

Đi hành hương là cây chổi quét sạch những hậu quả của các ác hạnh. Bày tỏ sự tôn kính bằng những lễ lạy tiệt trừ các lỗi lầm. Tara là nguồn mạch bên ngoài của sự nương tựa (quy y). Sự tích tập công đức và giác tánh nguyên sơ (trí tuệ) là lương thực dự trữ cho những đời sau. Lòng bi mẫn là trục chính của Giáo Pháp. Vì thế, con ta, hãy vui vẻ đi tới Potala”.

Người hành hương đi qua, dẫn khoảng một ngàn chúng sinh có liên hệ với ông qua ngôn ngữ hay tiếp xúc.

Om mani padme hung hri.

Đức tôn kính Tara nói với tôi:

Những kẻ không bỏ nón khi một vị lạt ma bước vào trước sự hiện diện của họ,đã có một thời họ từng phải trải qua những địa ngục sẽ tái sanh làm con cừu hoang.

Những kẻ không đứng dậy và vẫn đứng khi các nhà sư bước vào trước sự hiện diện của họ,đã có một thời họ từng phải trải qua những địa ngục sẽ tái sanh làm những người què.

Những kẻ không cúng dường đèn bơ tinh sạch sẽ tái sanh trong hầm lửa.

Những kẻ bước lên hay để quần áo trên ba biểu tượng của Châu báu [25] sẽ tái sanh làm những người câm hoặc làm những con sâu dơ bẩn.

Những kẻ khạc nhổ hay hỉ mũi trong các chùa miếu sẽ tái sanh trong Địa ngục Đầm lầy Tử thi Rữa nát.

Những kẻ ăn thịt từ một con vật bị giết trong cùng ngày mà không tịnh hóa hành động đó bằng sự sám hối, sẽ tái sanh làm những quỷ ma khát máu.

Những kẻ ăn bám vô dụng biển thủ tài sản của Tam Bảo sẽ tái sanh làm các preta (quỷ đói) hoặc những lính canh trong các cõi preta.

Những kẻ uống rượu không được hiến cúng sẽ tái sanh trong Địa ngục Kêu khóc.

Những kẻ sử dụng những ghế ngồi của tăng đoàn xuất gia, sẽ tái sanh trong các địa ngục nhất thời.

Sự lấy đi các lễ phục từ ba loại biểu tượng, sự biển thủ phóng túng tài sản của tăng đoàn, và đặc biệt là trộm cắp tài sản chung của tăng đoàn, sự cướp đoạt hay đánh đập các hành giả trong ẩn thất cô tịch – những hành vi này đưa tới sự tái sanh trong tám địa ngục lạnh.

Những kẻ tích tập nghiệp bằng năng lực của sự sân hận sẽ tái sanh làm các chúng sinh trong địa ngục; những kẻ tích tập nghiệp bằng sự tham lam, sẽ tái sanh làm các quỷ đói; tích tập nghiệp bằng năng lực của sự ngu si, tái sanh làm súc sinh.

Cầu mong những chúng sinh trải qua ba cõi thấp được tái sanh ở Núi Patala.

Om mani padme hung hri.

Cũng có nhiều người ở bộ tộc Gyashod. Ở giữa cây cầu sáu nhịp trên con sông màu nâu không có chỗ cạn của người chết. Gonpo Dargyay bị xích lại, không hy vọng được giải thoát. Khói xuất hiện trên da thịt ông khi bị đốt cháy và ông phải chịu nỗi đau khổ không tưởng tượng nổi. Những thuộc hạ trong các địa ngục, với các đầu sư tử và nai đực, đang canh giữ ông. Ông nói rằng thần chú mani sẽ là một phưong tiện để tịnh hóa nỗi khổ và những lỗi lầm của ông và sẽ hết sức lợi lạc nếu có ai nhân danh ông sám hối những ác hạnh của ông.

Tôi hỏi Đức Tara là những hành động gì dẫn tới hậu quả này. Ngài trả lời: “Khi ông ta là một nhà cai trị trong vùng, ông đã không phân phát của cải và thực phẩm hoặc không xét xử đúng đắn, và ông hành xử với ác ý”.

Thợ săn nai Tsewang Gonpo đang ở trong Địa ngục Sống lại. Ông nói rằng ông sẽ được giải thoát nếu có ai khắc vào đá Kinh Giải Thoát, hành động đó tịnh hóa những hậu quả của ác hạnh. Tôi hỏi những hành động nào dẫn tới hậu quả này, Đức Tara đáp: “Bởi giết hươu nai vô tội”.

Tashi Wangkhyug đang đau khổ trong Địa ngục Sợi chỉ Đen. Ông giao cho tôi một thông điệp để mang trở về: Nếu nhân danh ông ta mà trì tụng một trăm triệu lần mỗi thần chú sau: thần chú một trăm âm của Đức Vajrasattva, thần chú mani và thần chú siddhi thì ông sẽ được tái sanh làm người.

Tsewang Gonpo đang đau khổ trên đỉnh Núi Shangma. Ông nói rằng nếu một trăm hay một ngàn nghi lễ chay nyunnay được thực hành tích cực nhân danh ông, ông sẽ có một tái sanh làm người tuyệt hảo.

Trong số những người ở Gyashod, một số trong đó có tâm hồn đức hạnh – các đạo sư, các nhà sư và các cư sĩ – ở trong các cõi thuần tịnh, kể cả nhà sư già Padma Kalzang, Tsering Dondrub, Dontse, cũng như một người được gọi là Barchhung Dragho, người ta nói rằng ông ta đã được tái sanh trong một cõi thuần tịnh bởi lòng bi mẫn của Ngài Drimed Khakyod Wangpo Rinpoche tôn quý.

Phần lớn những người ở bộ tộc Nat’har từng tinh tấn thực hành Pháp được tái sanh ở núi Potala, trong khi những người không có mối liên hệ với các bậc linh thánh, tiêu phí cuộc đời khi dấn mình vào những ác hạnh, thì phải chịu sự tái sanh sau khi tái sanh trong các cõi thấp. Một nhà sư tên là Hulay Buchhung đang đau khổ trong bardo. Một người tên là Natar Alug Chhodzin có một tái sanh may mắn. Nhà sư Lodro Zangpo đang ở cõi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.

Lahai Yontan, mặc dù đã từng thực hành đức hạnh và từ bỏ các ác hạnh, đã nuôi dưỡng những tà kiến hết sức nặng nề và đã bị tái sanh trong một cõi, ở đó ông ta bị giam cầm trong một căn nhà có bốn người canh gác. Khi tôi hỏi Yontan là tôi có nên thỉnh cầu nhân danh ông để đức hạnh đó được thực hành trong cõi người hay không, vị sư già trả lời rằng tôi nên để ông chịu đựng hậu quả những hành động của ông cho tới khi nghiệp của ông cạn kiệt. Ông nói rằng sau khi đau khổ như thế này trong ba năm, ông sẽ được tái sanh ở núi Potala.

Kunzang và Tendzin Wanggal được tái sanh ở núi Potala. Samyay Monlam thuộc gia đình Khamtay đang ở trong cõi thuần tịnh này. Ông nói: “Tôi có một thông điệp gởi cho con trai út của tôi. Xin nói với nó: ‘Đừng giết hươu nai, cừu hoang hoặc linh dương. Đừng sống cuộc đời của một kẻ trộm cướp. Đừng nói dối hoặc thề thốt. Đừng lấy cắp của các anh con hay đánh nhau với chúng. Hãy thực hành đức hạnh nào mà con có thể cùng với thần chú mani và nghi lễ chay nyungnay!”’.

Một người đàn bà tên là Dronma đã tới Potala, khẩn cầu nhiều đạo sư. Một vị tulku ở làng Natar tên là Adam cũng ở núi Potala. Ông nói rằng mặc dù để làm lợi lạc cho chúng sinh, có lần ông đã tái sanh trong gia đình Apal của các đạo sư trong quận Nyagrong, nhưng bởi những chứng ngại trong đời đó nên ông đã nhập Niết Bàn.

Petsa Gonpo Rinchhen cũng có mặt ở đó; ông nói rằng ông đã tái sanh trong cõi thuần tịnh đó nhờ lòng bi mẫn của Tromge Kundun Rinpoche.

Ở một nơi cách xa cõi giới này tám mươi ngàn lý (1 lý bằng khoảng 4,8km), tôi đi tới một mặt vách đá khổng lồ và dễ sợ của một tảng đá màu đỏ sậm, có bề cao bằng thế giới-ba-ngàn-nhánh [26]. Ở giữa vô số các khí giới, cạnh một pháo đài đầy đầu lâu thật khủng khiếp là Thần Chết, Yama, đang hút đời sống và hơi thở trong tam giới [27], ném tất cả những chúng sinh đã chết không ngoại trừ ai vào máng ăn, chứa ba mức độ của sự sống [28] trong bụng ông. Với cái dạ dày súc vật teo tóp thèm thuồng, cái lưỡi cuộn tròn giật giật, các răng nanh dài nhe ra sắc nhọn, đôi bàn tay chìa ra để chộp bắt, ông ta trông thật khủng khiếp. Ông có thân thể của một người đàn ông với cái đầu của một con bò đỏ, những cái sừng sắc nhọn bằng sắt và đôi mắt nhìn chòng chọc sáng như mặt trời và mặt trăng. Những lưỡi lửa nóng bắn ra từ miệng ông. Ông có sự nhanh nhẹn, lẹ làng của gió, làm thiên đường và trái đất rung lên bằng những tiếng cười khiếp sợ như bò rống. Khi tôi thấy cái nhìn dữ dội phẫn nộ vô bờ này và nghe tiếng gầm điếc tai của ông, tôi cảm thấy như thể muốn ngất đi.

Ngậm lục địa phương nam [29] của thế giới buồn khổ này trong miệng (một cái miệng dường như nuốt trọn thiên đường và trái đất), ông có thể làm thế giới run sợ bằng âm thanh của lưỡi đập vào vòm miệng. Trong khi trước kia từng có một đại dương cuồn cuộn máu đỏ sẫm khi ông ta ngậm chặt miệng lại thì trong năm này chỉ có ít giọt máu trông giống như sương. Đó là bởi ngài Khakyod thuộc gia đình Tromge, ngài Dza Konchhog và những bậc linh thánh khác đã thị tịch, và vì thế trong năm đó nhiều chúng sinh không phải chết [30]. Mặc dù nhiều điều khủng khiếp xảy ra cho tôi, nhưng nhờ khẩn cầu các thiên nữ tôn kính, tôi đã có thể giữ một quan điểm vững vàng không sợ hãi.

Gonpo Samdrub ở Tangkya đang ở trong một cõi địa ngục. Khi tôi hỏi Đức Tara hành động nào dẫn tới hậu quả này, Ngài đáp: “Khi làm một thủ lãnh, ông ra đã tham ô tài sản, coi thường phong tục đã được lập ra”.

Droje Dondrup, con trai của Zangli thuộc gia đình Sadu, đang trải qua sự đau khổ không tưởng tượng nổi. Có nhiều nhà quý tộc ở vùng Hor miền viễn đông Tây Tạng. Và cũng có nhiều người tôi không nhận ra. Bởi một lòng bi mẫn kỳ lạ phát khởi trong tâm thức tôi, tôi trì tụng thần chú mani theo giai điệu du dương.

Khi tôi, cô gái Dawa Drolma, tiếp tục cuộc hành trình thì một yogin mặc quần áo trắng với mái tóc dài chảy lòa xòa tiến lại gần, có một số daka và dakini vây quanh. Ông quay một bánh xe cầu nguyện với một cái bao thêu kim tuyến rất tỉ mỉ và bàn chân không chạm đất. Ông đi ngang qua mặt tôi trên đường đi tới cánh đồng địa ngục.

Khi tôi hỏi ông đi đâu, ông đáp: “Đi tới những cõi tái sanh thấp. Tôi sắp đi tới các cõi địa ngục để dẫn ra những người đã từng chia sẻ thực phẩm tôi. Tôi là Togdan Pawo, một đạo sư dẫn dắt chúng sinh. Tên này có ý nghĩa thực sự là ‘anh hùng của sự chứng ngộ tâm linh’”. Khi ông hát thần chú mani ba lần theo giai điệu, các ngôi nhà sắt nóng trở thành những cung điện pha lê và tất cả chúng sinh được chuyển hóa thành các thân ánh sáng. Ông tiến lên, đưa họ lên núi Potala, cõi thuần tịnh siêu phàm, giống như một đàn chim giật mình hoảng hốt bởi một viên đá từ ná bắn ra.

Bà mẹ của tất cả các Đấng Chiến Thắng, Đức Tara tôn kính, chắp hai tay nơi ngực và nói:

Kỳ diệu thay – bậc dẫn đường phi thường và linh thánh!

Vị hoa tiêu siêu phàm đưa dẫn tất cả những ai có liên hệ với Ngài:

Nếu không có mối liên hệ, Ngài không thể dẫn.

Đáng thất vọng biết bao, những người không tạo nên một mối liên hệ.

Om mani padme hung hri.

Trên đỉnh ngọn cây shalmali [31], những con chim sắt đen đang móc mắt những chúng sinh trong địa ngục. Ở gốc cây là những người đàn bà dễ sợ đang ôm cổ những chúng sinh này và giựt đứt đầu họ. Trong cái nhìn của tôi, những chúng sinh ở địa ngục này không thể tránh đi tới chỗ đó, bởi nghĩ rằng bè bạn yêu quý đang kêu gọi họ. Khi họ chạy trốn, các khí giới rơi vào người họ. Khi họ quay trở lại, khí giới nhảy lên đục khoét phổi, tim, gan và ruột họ. Khi họ chạy lên dốc, khí giới đâm xuống người họ. Thịt xương họ biến thành máu. Đó là nỗi nguy cơ trước mắt những lạt ma dâm đãng và những nhà sư, ni cô thế tục, họ đã hủy hoại những đứa con bất hợp pháp của mình, và những kẻ hãm hiếp ni cô hoặc những kẻ không hài lòng với người vợ của họ mà kết giao với người đàn bà khác.

Có những người ở địa vị cao chót vót mà ngay cả tên của họ tôi cũng không dám đề cập tới, gồm cả nhiều lạt mà và các nhà sư. Một người là Nyikho thuộc gia đình Sorgu, một nhà sư của bộ tộc Tromge bị gãy bể giới nguyện. Mặc dù có lúc ông đã được tái sanh làm người, sau đó bởi nghiệp lực, ông tái sanh trong cõi địa ngục. Dưới gốc cây shalmali bị vũ khí chồng chất nặng nề, ông trải qua nỗi khổ không chịu đựng nổi. Bà mẹ bi mẫn của tất cả các Đấng Chiến Thắng cùng tôi hát tụng ba lần thần chú sáu-âm theo giai điệu. Thoát khỏi gánh nặng của khối sắt, ông ra đi. Nếu sự trì tụng Tantra Sám hối Bất nhiễm và Kinh Sám hối những Thiếu sót được ủy thác từ một tập hội rộng lớn, nếu có thể tổ chức với nhiều sự bảo trợ và nhiều vật cúng dường trong mức độ có thể, và nếu những lời cầu nguyện cao quý của sự hồi hướng và ước nguyện được thực hiện nhân danh ông, thì ông sẽ được tái sanh ở Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ trên tiểu lục địa Chamara.

Một người tên là Atsul thuộc gia đình Sogru này, nhờ lòng bi mẫn của nhiều bậc xuất chúng và linh thánh, và nhờ con đường bí mật của chân lý siêu vượt nhân và quả, có lần đã được sanh ra làm người. Nhưng sau khi chết, ông bị rơi vào một cõi địa ngục. Ông đang đau khổ dưới chân núi có cây shalmali. Bị lôi bừa đi bởi một vòng sắt siết ngặt cổ, thân ông bị bọc trong một bộ y phục bằng sắt. Ba lính canh dữ tợn với đầu hươu đực đánh đập, đâm và xé ông bằng lưỡi dao cạo có cán bằng-hoa sen cho tới khi thịt ông bị lóc tới tận xương. Ông ta la hét dữ dội.

Khi tôi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết là ông đã dùng những quả cân sai trong việc mua bán với các lạt ma và nhà sư, nói xấu những thành viên của tăng đoàn, làm ra vẻ mình là một bậc thầy của nghệ thuật nhảy múa tôn giáo, và v.v… Nỗi khổ này là hậu quả không thể tránh khỏi của những ác hạnh này. Với lòng bi mẫn, tôi hát những thần chú sáu-âm từ xa.

Người quá cố Atsul trao cho tôi thông điệp sau đây để đem về:

Tôi chết sớm, một người đàn ông trẻ bị cái chết hủy hoại,

bị hủy hoại bởi sự chia ly cha mẹ và thân quyến của tôi.

Tôi để lại sau lưng lều bạt, bầy thú, và những vật sở hữu, vì thế khó mà từ bỏ.

Tôi đau khổ bởi những hậu quả của những ác hạnh của chính tôi – chúng chỉ chín mùi cho mỗi mình tôi.

Để giải thoát tôi khỏi nỗi khổ không thể chịu nổi này, mọi người có thể trì tụng thần chú mani một trăm triệu lần, tụng đọc Kangyur [32], và khắc trên đá mười ngàn thần chú sáu-âm.

Khi ấy tôi sẽ không đau khổ trong chốn này, mà sẽ có được một thân người.

Đừng quên thông điệp này; xin mang nó về cho người bà con Chhung Lima của tôi.

Một đạo sư tên là Yengmed Dorje xuất hiện, Ngài là đệ tử thân tín của đạo sư Padma Duddul ở quận Nyagrong. Ngài có mang một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột cùng một nhóm năm đệ tử. Ngài ngâm:

Hri con khẩn cầu đạo sư, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu bổn tôn được chọn lựa, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu daka, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu bổn tôn bảo vệ, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con khẩn cầu sự hợp nhất của chư vị này, Đấng Bi mẫn Siêu việt.

Con nguyện cầu, xin đưa dẫn những chúng sinh đó là những người có mối liên hệ tốt hay xấu với con tới núi Potala.

Om mani padme hung hri.

Rồi Ngài dẫn khoảng một ngàn chúng sinh ra khỏi mười tám tầng địa ngục theo một con đường ánh sáng trắng.

Ani Bumo, một ni cô ở miền Zurpa cũng xuất hiện, tay cầm một bánh xe cầu nguyện và một chuỗi hột màu vàng. Cô và một thị giả tụng thần chú mani từ xa tạo nên một giai điệu hết sức đẹp đẽ. Sư cô này dẫn khoảng một ngàn người – tăng, ni, nam nữ cư sĩ, những người hành khất và những người mù – là những người có liên hệ với cô qua ngôn ngữ hay tiếp xúc, đi theo một con đường ánh sáng xanh dương tới cõi thuần tịnh Yulokod của Đức Tara.

Tsachhung, một phụ nữ già nua ở miền Tromge, bị nghiến nát trong Địa ngục Đè bẹp. Tiếng kêu thét của bà vang dội khắp các cõi trời. Khi tôi tụng một lần thần chú mani cho bà từ xa, một lính canh dễ sợ với sừng trên đầu la hét: “Hừ, hừ! Chỉ một lần thần chú mani thì khó có lợi ích gì”. Khi hỏi hành động nào dẫn tới hậu quả này, tôi được cho biết: “Khi ở trong thế giới con người, bà ta đã ăn cắp dê, cừu và giết hại chúng”.

Bà ta muốn nhắn gởi cho con trai là Chhot’har và con gái là Lukyid. Mặc dù thoạt tiên tôi từ chối mang bất kỳ thông điệp nào cho bà, Tsachhung cứ kêu khóc mãi: “Cô phải mang! Cô không thể không mang về thông điệp của tôi!” Và vì thế tôi hứa làm điều đó.

“Xin nói với chúng điều này”, bà nói. “Chớ ấp ủ hy vọng được trở nên giàu có. Chớ mê đắm trong sự sân hận và ganh ghét. Hãy bảo Lukyid đừng quyết ganh đua với những con rắn trong việc tạo ác nghiệp [33].

Hãy khắc thần chú mani trên đá. Hãy thỉnh cầu sự đọc tụng Kinh Giải thoát và Tantra Sám hối Bất nhiễm. Hãy trì tụng liên tục thần chú mani. Hãy hồi hướng đức hạnh theo một cách thế cao quý và sau khi chịu đựng nỗi khổ này trong một ngàn năm, tôi sẽ được tái sanh trong một cõi trời, vẫn phải chịu sự đọa lạc từ cảnh giới tráng lệ đó”.

Khi nói những điều đó, bà cứ khóc mãi.

Om mani padme hung hri.

Sau đó, một phụ nữ trung niên thuộc gia đình Lo ở Gualrong tiến lại gần. Lùa khoảng bốn ngàn con cừu phía trước, bà ta lao xuống một con đường ngập máu. Những cư dân ở địa ngục, như Awa Đầu-Bò, Định Mệnh Đầu-Khỉ và La Sát Đầu-Heo – một số lượng không thể nghĩ bàn những thuộc hạ của Thần Chết – săn đuổi bà và la lớn: “Giết nó, giết nó! Đánh nó, đánh nó!”. Run rẩy như một chiếc lá, nước mắt tuôn rơi, người đàn bà già được dẫn tới trước Dharmaraja. Yama Dharmaraja bừng bừng giận dữ như ngọn lửa, cả khuôn mặt ông đen như than, đôi mắt thì như những cái hồ cuồn cuộn máu.

Từ miệng ông phát ra một tiếng gầm khiếp sợ: “Mi, mụ già thế tục, hãy thận trọng lưỡi của mi, mi phạm vào loại hành động nào, tốt hay xấu? Đừng dấu diếm hay che đậy. Hãy nói thật trung thực!”

Ông dậm chân làm mặt đất rung chuyển như một trận động đất. Những cư dân địa ngục la hét: “Nói nhanh lên!” và cùng đi dậm chân huỳnh huỵch trong sự điên cuồng.

Người đàn bà tái mét và không thể nói được điều gì. Đập đầu xuống đất, đôi bàn tay bà xé tung bộ ngực. Giữa những vị này là hai đứa trẻ tượng trưng cho nghiệp tốt đẹp và tối ám [34] của bà. Đứa trẻ tốt đẹp có vẻ không có gì để nói; vẻ mặt của nó chuyển sang màu đen như than. Sau một lát, nó nói: “Có lần bà ta cúng dường