Chương 15 - Con Rắn Hổ Mang Thứ Chín.
Bên trong lòng giếng lạnh lẽo, ba đứa trẻ tiếp tục công việc đào bới trong bóng tối.
Ném một hòn đá nữa vào bóng tối và nghe nó chạm vào mặt nước ở đáy giếng, Philippa nhận xét:
– Mấy hòn đá này hơi lạ à nha. Chúng có vẻ nhẹ hơn nhiều so với mấy hòn đá ban đầu.
Dybbuk thừa nhận:
– Tớ cũng nghĩ vậy. Có khi chúng là đá núi lửa. Cái loại người ta hay dùng để chà chân ấy.
– Cậu nói loại đá bọt ấy hả? Ờ. Cũng có thể.
Ba đứa trẻ đã liên tục đào bới suốt gần một tiếng đồng hồ, và cái lỗ hổng trên tường mà chúng trú chân tạm thời trước đây giờ đã trở thành một đường hầm dài khoảng 3, 4 mét - mang đến cho ba đứa trẻ một tia hy vọng mới về lối thoát ra khỏi giếng. Quần áo của cả bọn vẫn còn ẩm ướt, và thân thể chúng vẫn còn quá lạnh để có thể phục hồi sức mạnh djinn, nhưng, ngay trong tăm tối, chúng vẫn nhận ra được tình hình có vẻ đã sáng sủa hơn một chút. Và càng đào sâu hơn vào trong vách giếng, chúng lại càng lạc quan hơn. Cả người đầy bụi bặm và gạch vụn, Philippa vẫn hăng hái thực hiện công việc vô hình của mình, miệng không ngừng huýt sáo để tự cổ vũ tinh thần.
Dybbuk hỏi John:
– Cây đèn pin sao rồi?
John đáp:
– Có vẻ khô rồi. Để tớ thử gắn lại xem sao.
Rồi bỏ hai cục pin lại vào phần ống kim loại dài bên trong thân đèn, John vặn nắp đậy và nói:
– Ok. Cầu nguyện cho nó hoạt động đi nhé.
Rồi hít thở một cái thật sâu, cậu nhấn nút BẬT/TẮT của cây đèn.
Cây đèn pin bật lên, rọi sáng đoạn đường hầm nho nhỏ mà ba đứa trẻ vừa tạo nên. Nhưng không ai thở phào nhẹ nhõm. Còn lâu mới nhẹ nhỏm nổi. Thay vào đó, lũ trẻ hét lên một tiếng kinh hoàng khi thình lình nhận ra chính xác chúng đang ở đâu. Bao quanh ba đứa trẻ là hàng tá bộ xương người, bới vì chúng đang ở trong một hầm mộ, và tảng đá mà Philippa đang ôm trong lòng hoàn toàn không phải đá mà là một cái đầu lâu. Khiếp sợ, cô vội ném nó ra xa. Nó nhanh chóng biến mất trong bóng tối bên trong lòng giếng. Tương tự, Dybbuk phát hiện cái que nãy giờ cậu dùng để đào tường chẳng phải que gậy gì mà là một khúc xương đùi. Và ba đứa trẻ tình cờ biết được chuyện gì đã xảy ra cho thi thể của những người dân Ấn xấu số nổi dậy chống chính quyển mà quân đội Anh vớt lên sau khi quăng xuống giếng. Họ đã bị tái chôn cất tại đây, xác chồng chất lên nhau như những điếu xì gà trong hộp, trong một hầm mộ ngay bên trong vách giếng, nơi giấc ngủ của họ không bị phá rối suốt hơn 150 năm qua.
Những bộ xương nhiều đến nỗi ba dứa trẻ không thể nào tránh né chúng. Philippa kinh hãi quay lưng lại với một cái đầu lâu trắng hếu nhe răng cười nhưng rồi phải đối mặt với một cái khác. Và, trong cố gắng trốn tránh sâu vào trong lòng hầm mộ, Dybbuk chỉ thành công trong việc làm vài bộ xương khác rơi xuống người. Giờ đây, cái chết và sự phân hủy tế bào vật chất không chỉ tràn ngập trước mắt ba đứa trẻ mà còn lấp đầy miệng và mũi chúng.
Là đứa đầu tiên khôi phục lại tinh thần, John lia đèn pin ra xa phía trước, rọi đường cho Dybbuk. Dybbuk đang vất vả đẩy những bộ xương ra khỏi người rồi loạng choạng bò sâu vào bên trong căn nhà xác ngầm. Bức tường trong cùng của hầm mộ được làm từ gạch, nhưng lớp vữa hồ đã mục nát, và Dybbuk đã đào được một lỗ hổng đủ lớn để luồn qua. John nằm ép bụng xuống, bò lách qua Dybbuk, thò đầu và vai qua lỗ hổng trên tường để kiểm tra. Hai đứa trẻ còn lại nối gót theo John vì cậu đang cầm cây đèn pin duy nhất của cả đám - cả Dybbuk và Philippa đều không có hứng thú bị bỏ lại trong bóng tối với những bộ xương người làm bầu bạn.
Trông thấy một khoảng không rộng lớn phía trước, hoàn toàn sạch bóng xương người, John nhanh chóng quẳng mình qua cái lổ hổng. Và, sau khi bò thêm chừng vài thước, cậu đã có thể đứng thẳng người dậy. Thở dài nhẹ nhõm - một hơi thở không còn bị lấp đầy bởi mùi xương người mục nát - cậu quay lại nhìn Dybbuk và Philippa, và nở nụ cười.
Rọi đèn pin vào một dãy bậc thang bằng đá cũ kỹ trước mặt, cậu nhận xét:
– Có vẻ như chúng ta đã tìm được đường ra.
Philippa nói:
– Tạ ơn Trời đất.
– Đó là tin tốt.
Dybbuk hỏi:
– Vậy còn tin xấu là gì?
– Cậu chưa nhận ra hả? Trong này lạnh như đá. Nhìn nè.
John thở ra một hơi trước ánh đèn pin.
– Cậu có thể thấy được hơi thở của mình đấy.
Dybbuk lầm bầm:
– Còn đỡ hơn nước giếng.
John nói:
– Đúng. Nhưng cậu không hiểu sao? Nếu nó cứ lạnh như thế này, chúng ta vẫn hết hy vọng sử dụng sức mạnh djinn.
Dybbuk nhún vai bảo:
– Mấy bậc thang này chắc chắn dẫn lên trên mặt đất. Và cái nóng ở trên đó. Cho nên, tớ bỏ phiếu là chúng ta nên di lên. Trời biết được tớ cần ánh mặt trời như thế nào. Tớ giờ cứ y như một con rắn trong ngăn đá ấy.
John bỗng vỗ tay cái chét và nói:
– A, phải rồi. Mải lo vụ đèn pin không hoạt động, rồi vụ mấy bộ xương, tớ xém nữa quên mất.
Đưa cây đèn pin cho Dybbuk, John lôi cái túi da ra khỏi thắt lưng và cẩn thận mở nó ra. Bên trong là một vật thể dài khoảng 15 phân, được quấn quanh bởi vài lớp giấy chống thấm. John gỡ lớp giấy ra và thở gấp một tiếng khi Dybbuk rọi đèn vào món đồ giờ đang nằm trong lòng bàn tay cậu.
Đó là tượng một con rắn hổ mang chúa đang ngóc đầu dậy. Thân hình con rắn được làm từ vàng ròng, nhưng cái đầu mà phần mang bành ra được chế tác từ một viên ngọc lục bảo khổng lồ. Cái đuôi - Dybbuk cho rằng nó không chính xác, vì nhìn giống rắn đuôi chuông hơn rắn hổ mang - được làm từ bốn cái răng khôn bọc vàng. Chính chi tiết sau cùng ấy - cùng số lượng những cái chết do bùa thế thân này gây ra - chứ không phải kích cỡ của viên ngọc lục bảo Koh-E-Qaf, khiến ba đứa trẻ phải im lặng nghiền ngẫm trong mấy phút.
Cuối cùng thì John lên tiếng:
– Thật khó tin, đúng không? Rằng bốn cái răng này từng thuộc về ông Rakshasas.
Dybbuk nhún vai nói:
– Nó làm cậu nhận ra ông ấy già như thế nào, đúng không? Dù sao thì, củng dễ hiểu tại sao gã Hermann Goering lại muốn nó. Viên ngọc lục bảo này còn lớn hơn quả trứng gà ấy chứ. Nó đáng giá cả đống tiền chứ chả chơi.
John nhíu mày bảo:
– Đúng là vậy. Tuy nhiên, giá trị vật chất chẳng là gì so với sức mạnh nó mang đến cho bất cứ ai sở hữu nó thông qua ông Rakshasas. Cậu cứ tưởng tượng xem. Một djinn phục tùng cho riêng cậu. Không biết gã Goering có biết về điều đó không nhỉ? Về việc cái bùa thế thân này có thể mang đến cho gã sự giàu có và quyền lực to lớn dường nào.
Philippa nhận xét:
– Em thì thấy nó thật là độc ác. Và em nghĩ chúng ta nên phá hủy nó. Bẻ nó thành từng mảnh nhỏ rồi ném nó cùng tất cả những bộ xương đằng kia xuống giếng, nơi không ai có thể đụng vào chúng. Bao gồm cả viên ngọc.
Dybbuk há hốc mồm hỏi:
– Cậu đùa hả? Chúng ta đã trải qua bao nhiêu rắc rối mới tìm được nó, giờ cậu bảo quẳng đi?
Lắc đầu quầy quậy, cậu nói tiếp:
– Không đời nào. Vả lại, cậu có quên gì không? Tớ đã phải trả giá nhiều hơn các cậu để đến được đây. Tớ đã phải mất đi hai người bạn.
Philippa vẫn bảo vệ ý kiến của mình:
– Chính vì thế cậu càng phải đồng ý với tớ. Cậu không nghĩ đến việc, chúng ta sẽ gặp nguy hiểm như thế nào nếu giữ nó sao? John, anh nói gì đi chứ.
John thở dài một tiếng. Hơi thớ lạnh lẽo của cậu nhìn giống như một đám mây tích nhỏ. Khó để tin rằng, ba đứa trẻ vần đang ở trên một quốc gia nóng bức như Ấn Độ. Cậu ghét phải đồng ý với Dybbuk thay vì về phe em gái, tuy nhiên, giá trị cúa cái bùa hộ thân này đúng là quá cao để có thể dễ dàng quẳng đi như Philippa mong muốn.
– Anh nghĩ trước khi làm gì với Hổ Mang Chúa, chúng ta cần tìm ông Rakshasas hỏi ý kiến. Dù sao, đây cũng là răng khôn của ông ấy, và cái bùa hộ thân này trao cho kẻ giữ nó quyền chế ngự ông.
Dybbuk nói:
– Nếu điều đó đáng nói. Nói thật, tớ không hiểu có lợi ích gì với việc kiểm soát được sức mạnh của một djinn đã gần đất xa trời.
Philippa trách:
– Dybbuk, đôi lúc cậu ăn nói thấy sợ luôn đó. Ông Rakshasas là bạn của chúng ta mà.
Dybbuk phản kháng:
– Tớ nói sai gì chứ? Cậu cũng biết ông ấy già như thế nào mà. Sức mạnh của ông ấy gần như ngúm rồi. Hiện giờ, tất cả những gì ông ấy có thể làm là chui ra chui vào cây đèn của mình mà thôi.
Rồi lắc đầu, cậu bảo:
– Tớ vẫn không hiểu tại sao cái giáo phái thờ hổ mang này muốn nô dịch ông ấy.
John biện minh:
– Không phải ông Rakshasas không có sức mạnh. Chỉ là, vì tuổi tác, ông ấy muốn giữ gìn nó. Ông ấy không sử dụng sức mạnh trừ những lúc thật sự cần thiết.
Quay sang Philippa, cậu bảo:
– Nói gì thì nói, anh không nghĩ phá hủy Hổ Mang Chúa và ném các mảnh vỡ xuống giếng đủ làm nản chí những ai quyết tìm nó. Lấy ví dụ như, họ có thể thuê thợ lặn lặn xuống lấy nó lên. Hay thậm chí là thuê cả một tàu ngầm mini.
Rồi chỉ vào lỗ hổng trên tường, cậu nói tiếp:
– Ngoài ra, anh thật sự không hứng thú với việc đi xuyên qua mấy bộ xương để quay lại đó. Một lần là đã tởn đến già rồi. Cho nên, anh xin lỗi, Philippa, nhưng anh đồng ý với Buck. Chúng ta tạm thời giữ nó đi.
Dybbuk gật đầu cái rụp, như thể vấn đề đã được khép lại và không còn chấp nhận bất cứ tranh cãi nào nữa.
Liếc nhìn Hổ Mang Chúa với vẻ mặt không lấy gì làm thoải mái, Philippa nhượng bộ:
– Ok. Nếu cả hai người đều nghĩ chúng ta nên giữ nó, vậy thì chúng ta sẽ giữ nó. Chỉ có điều, đừng bảo em không cảnh bảo trước. Không tốt lành gì khi giữ nó đâu, tin em đi.
Dybbuk giơ tay lên như thể muốn bảo Philippa im lặng, và cô đã chuẩn bị nổi sung với cậu trước khi nhận ra cậu đang nghe ngóng một cái gì đó.
Cô hỏi:
– Gì vậy?
Dybbuk trả lời:
– Cậu không nghe thấy gì à? Có tiếng rì rầm đâu đó.
Đưa lòng bàn tay gò gõ một bên thái dương, cô thú nhận:
– Tai tớ vẫn còn đầy nước. Nước đông lạnh.
– Nó từ phía trên mấy bậc thang này vọng xuống.
Nói rồi Dybbuk, vẫn đang cầm cây đèn pin, đi trước dẫn đường.
Gói Hổ Mang Chúa với lớp giấy chống thấm, John trả nó vào lại cái túi da, nhét vào thắt lưng, và đi theo Dybbuk. Đến giờ cậu cúng đã nghe được tiếng rì rầm mà Dybbuk nói đến.
Philippa khuyên:
– Tốt nhất cậu nên tắt đèn đi. Hoặc ít nhất vặn nhỏ nó lại, cho đến khi chúng ta biết được cái gì ở phía trước. Chỉ để phòng hờ trường hợp có ai đó không muốn chúng ta ở đây.
Dybbuk thắc mắc:
– Họ không muốn thì đã sao chứ? Chúng ta là môn đồ của ashram, không phải sao? Chúng ta tốn công gia nhập nó cũng chỉ để có thể thuận tiện đi lại mà không bị nghi ngờ thôi mà.
Philippa bảo:
– Cậu quên ông Groanin rồi à? Tớ không tin ông ấy sẽ bỏ rơi chúng ta trong cái giếng khủng khiếp đó trừ khi gập chuyện nghiêm trọng gì đấy.
John gật đầu:
– Phil nói đúng đó, Buck. Chúng ta nên cẩn thận cho đến khi biết được chuyện gì đã xảy ra với ông Groanin.
Bước lên các bậc thang, Dybbuk nói:
– Ok thôi. Nhưng chúng ta vẫn cần một ít ánh sáng nếu không muốn ngã gãy cổ. Tớ biết điều này nghe có vẻ rất điên khùng, nhưng mấy bậc thang này phủ đầy băng.
Đặt một ngón tay lên bậc thang trước mặt, John bảo:
– Đúng là vậy. Làm thế nào mà có băng dưới này được nhỉ?
Dybbuk nhún vai nói:
– Tớ không biết Nhưng tớ nghĩ chúng ta sắp khám phá ra nguyên nhân rồi.
Nói rồi cậu đặt một bàn tay lên trước cây đèn pin, biến bàn tay thành màu đỏ, và cho phép vừa đủ ánh sáng lọt ra để cả ba có thể nhìn thấy đường đi.
Tiếng rì rầm lớn dần lên, cho đến khi ba đứa trẻ nhận ra đó là tiếng tụng kinh.
John hỏi nhỏ:
– Hay là lớp học thiền định siêu việt nhỉ?
Liếc nhìn những con số dạ quang trên mặt đồng hồ đeo tay của mình, Dybbuk lắc đầu bảo:
– Làm gì có lớp học nào vào lúc ba giờ sáng chứ. Mà, thiền định thì làm gì có chuyện tụng kinh.
Rồi ngừng bước để tập trung lắng nghe, cậu nói:
– Các cậu nghe thử xem!
– NA-GA, NA-GA, NA-GA…
Dybbuk thì thầm:
– Naga. Đó là những gì họ tụng. Naga.
Cả ba đứa trẻ khẽ rùng mình, không phải vì lạnh, mà vì sợ hãi. Vì giờ đây, chúng đã nhận ra cái từ đang được tụng đi tụng lại không ngừng trong tiếng Phạn có nghĩa là “rắn”.
Sau một lúc im lặng, Philippa cho biết:
– Tớ có một dự cảm xấu về chuyện này.
Dybbuk bảo:
– Cậu đã nói điều đó rồi.
– Trên thực tế là không. Điều mà tớ nói trước đây là, không tốt lành gì khi chúng ta giữ Hổ Mang Chúa. Tớ chỉ hy vọng nó không có liên quan đến dự cảm xấu mà tớ cảm thấy hiện giờ. Bởi vì đây là lúc tớ thật sự không muốn dự cảm của mình trở thành hiện thực.
Dybbuk nói:
– Ờ, hy vọng thế.
Bước thêm mấy bậc thang nữa, ba đứa trẻ có thể thấy được ánh sáng le lói ở trước mặt, nên Dybbuk tắt đèn. Nối tiếp với đỉnh cầu thang là một đoạn đường hầm chật hẹp, kết thúc bằng một cầu thang kim loại nâng cao khoảng 5, 6 mét bên trong lòng một đường ống hình trụ rỗng làm bằng đồng. Đường ống rộng khoảng mét rưỡi, và trên đỉnh là một kẽ hở có đường kính chừng một mét. Xuyên qua kẽ hở này là ánh sáng chập chờn và tiếng tụng kinh đơn điệu.
– NA-GA, NA-GA, NA-GA, NA-GA, NA-GA…
Trèo lên cầu thang trong im lặng, ba đứa trẻ bám tay vào lớp kim loại lạnh lẽo và cẩn thận thò đầu ra khỏi miệng kẽ hở. Một cảnh tượng đáng kinh ngạc hiện ra trước những cặp mắt mệt mỏi bám đầy bụi của chúng.
Đó là một ngôi đền xây trong một hang động có trần cao đến 18 mét và được chiếu sáng bởi vài dây đèn điện.
Một lớp sương mù kỳ lạ nổi bồng bềnh trên mặt đất, giống như trong một màn trình diễn ảo thuật tại rạp hát, bao phủ bàn chân mang ủng cao su của gần 400 nam nữ đứng đối diện với một cái gì đó ngay bên dưới chỗ mà bọn trẻ đang đứng, tay giơ cao lên trời thể hiện sự tôn thờ. Họ khoác một lớp áo ngoài có mũ trùm đầu viền lông cừu thường thấy ở vùng Bắc Cực bên trên lớp áo thụng màu cam, trên mặt trát đầy sơn màu vàng. Như thể bị thôi miên, họ tiếp tục tụng đều:
– NA-GA, NA-GA, NA-GA…
Giờ đã hiểu rõ ý nghĩa phần cuối thông điệp của đại tá Killiecrankie - Hãy tìm kiếm con rắn thứ ba. Nhưng coi chừng con rắn thứ tám - Philippa thì thầm:
– Đây chính là giáo phái thờ hổ mang. Aasth Naag. Chắc chắn họ sử dụng cái ashram này để che đậy cho các hoạt động của mình.
Rơi vào im lặng, ba djinn trẻ cùng nghiền ngẫm về sự trớ trêu đã xảy ra cho chúng: cái giáo phải mà ba đứa trẻ hy vọng che giấu Hổ Mang Chúa lại ở ngay bên cạnh chúng, và số phận đã đưa đẩy cả ba rơi xuống ngay giữa những kẻ mà chúng muốn né nhất.
Đến giờ thì ba đứa trẻ đã biết được bản chất thật sự của cái đường ống bằng đồng mà chúng đang ẩn nấp. Cách nơi lũ trẻ đứng chừng một mét, một cái lưỡi chẻ đôi thè ra giữa hai cái răng nanh dài: Cả ba đang ở trong miệng một bức tượng khổng lồ - bức tượng một con hổ mang chúa ngóc đầu. Tuy nhiên, nó không phải là đối tượng mà những tín đồ kia đang thể hiện sự tôn thờ. Không, sự thờ phụng ấy được dành cho gã đàn ông đang đứng ngay bên dưới chân lũ trẻ. Đó là Guru Masamjhasara, trong một bộ đồ hoàn toàn khác biệt so với trước đây. Thay cho lớp áo thụng trắng là một cái áo choàng lông thú dày cộm để chống lại cái lạnh khắc nghiệt kỳ lạ bao phủ khắp hang động, và thay cho đôi chân trần trước đây là một đôi ủng da cừu hợp thời trang.
Với đôi mắt sắc, John ngay lập tức nhận ra nguồn gốc của cái lạnh khó lý giải ở đây: Ở một góc đền, hai tay sadhak đeo găng tay da dày cộm đang dịch chuyển những khối đá khô to đùng cùng những bình ni-tơ lỏng. Cậu thầm thì:
– Tại sao họ lại cần mấy cái đó chứ?
Dybbuk nói:
– Không biết. Có lẽ để điều hòa nhiệt độ cũng nên. Trên mặt đất nóng như thế mà. Ý tớ là, ai mà biết dưới này sẽ nóng như thế nào nếu không có mấy cái đó.
John lắc đầu bảo:
– Tớ không nghĩ vậy. Đã nằm qua mấy cái giường trong tịnh xá, tớ có thể chắc chắn gã guru đó chả quan tâm gì đến sự thoải mái của các tín đồ. Phải là một lý do khác. Nhưng là gì mới được?
Gã guru rủ bỏ cái áo choàng lông thú, làm lộ ra một bộ ngực trần trụi bôi đầy hình vẽ ngoằn ngoèo màu vàng, giống như trên má và trán của gã. Rồi gã giơ hai tay lên trời như thầy dòng làm lễ rửa tội, và những tín đồ của gã lập tức im bặt.
Bằng một chất giọng sang sảng nghe nổi cả da gà, Guru Masamjhasara nói:
– Ta mang đến cho các ngươi thực chất của những thứ mà các ngươi ao ước. Và chứng cứ của những thứ chưa bao giờ được thấy. Tất cả những ai, nam hay là nữ, theo ta, vâng lời ta sẽ nhận được món quà của sự kỳ diệu, cùng sức mạnh trên sự sống và cái chết. Các bạn của ta, tối nay, các ngươi sẽ chứng kiến sự thật về sức mạnh đó được minh chứng. Một sức mạnh vượt khỏi logic. Một sức mạnh vĩ đại hơn mọi sự tranh cãi. Vâng, các con của ta, một sức mạnh mà tất cả các ngươi sẽ là nhân chứng sống.
Gã guru vỗ tay vào nhau, và hai tín đồ của gả khệ nệ khiêng ra một bể kiếng đựng đầy rắn. Có thể thấy rõ gả guru dự định sẽ đụng vào chúng.
Dybbuk thầm thì:
– Có vẻ đây là lý do họ giữ nhiệt độ thấp như vậy. Rắn là loài máu lạnh. Nhiệt độ cơ thể chúng phụ thuộc vào nhiệt độ không khí bên ngoài. Khi cơ thể rắn quá lạnh, nó sẽ trở nên buồn ngủ và lờ đờ. Khiến chúng dễ điều khiển hơn.
Quan sát một lát, John lắc đầu:
– Không phải. Cậu nhìn đi. Có bộ phận tản nhiệt hồng ngoại trong bể. Những con rắn này đủ ấm.
Ngay khi cậu đang nói, một gã sadhak vệ sĩ cầm lên một cây gậy dài và chọt vài lần vào những con rắn trong bể, như thể cố ý làm chúng nổi giận, và đã thành công. Một con rắn, một con hổ mang chúa cực lớn, cắn mạnh cây gậy. Ba đứa trẻ ẩn nấp bên trong bức tượng nhanh chóng nhận ra Guru Masamjhasara không hứng thú gì với những con rắn lờ đờ ngoan ngoãn. Cái mà gã muốn là những con rắn bất trị giận dữ.
Bằng một phong thái kiểu cách, gã guru tiến về phía bể rắn và cầm lên một con hổ mang chúa. Gần như ngay lập tức, con rắn cắn vào tay gã, làm chảy máu dọc xuống thân cánh tay, điều đó dập tắt ngay ý nghĩ của Dybbuk - rằng những con rắn này đã bị gỡ răng ra.
Trông thấy mình bị cắn, gã guru mỉm cười một cách vui sướng và nhặt lên một con hổ mang khác. Lần này nó cắn gã không chỉ một mà đến vài lần. Con hổ mang thứ ba cắm răng vào cẳng tay gã guru sâu đến nổi nó không thể rút chúng ra, và con rắn cứ thế treo lủng lẳng cho đến khi sức mạnh của cơ thể vặn vẹo màu đồng đất của nó làm những cái răng bị gãy, khiến nó rơi xuống đất. Gã guru nhặt nó lên và quấn quanh cổ như một cái khăn choàng bằng tơ lụa. Lúc gã guru nhặt đến con rắn thứ bảy, gã đã bị cắn nhiều không kể hết, và dường như không có vết cắn nào làm gã bận lòng.
Dybbuk nói:
– Tớ không hiểu. Đúng lý thì giờ này gã đã chết queo rồi mới phải. Hoặc ít nhất là nằm bất tỉnh nhân sự trên mặt đất.
Nhớ lại những gì người tuyết Yeti, hay bá tước Reinnerassig đã nói với họ trên dãy Annapurna - rằng djinn miễn nhiễm với nọc độc loài rắn - John quay qua hỏi Philippa:
– Em có nghĩ giống điều anh đang nghĩ không? Rằng gã có thể là một trong chúng ta?
Philippa lắc đầu bảo:
– Một djinn hả? Không. Nếu thật sự là một djinn, gã guru này sẽ không dại gì tốn công tốn sức làm nhiệt độ trong này lạnh như vậy. Gã có thể sẽ bị mất sức mạnh djinn ngay trước mặt những tín đồ của mình. Em cũng không biết. Có thể gã đã nốc trước thuốc kháng độc. Rất nhiều thuốc kháng độc.
Nhưng điều này khó có thể là sự thật. Đây đều là những con rắn hổ mang to lớn và sung mãn, mỗi con đều có khả năng tiết ra một lượng độc tố khổng lồ.
Gã guru, giờ đây đã quấn đầy rắn trên người như một cây thông Giáng sinh, nói:
– Hãy nhìn dấu hiệu. Và tin tưởng vào sức mạnh của ta, một sức mạnh vĩ đại, vì ta sẽ nói vói các ngươi rằng đã đến lúc chúng ta thống trị cả thế giới.
Gả guru nhặt lên hai con rắn khác và, vẫn đang bị cắn, giơ chúng lên cao để mọi người cùng xem.
– Tám là số hổ mang mà người tiền nhiệm của ta, Aasth Naag, cho cắn cùng một lúc. Nhưng ta mạnh mẽ hơn, vì ta có sức mạnh chống lại nọc độc cúa chín con rắn hổ mang. Ta mang đến cho các người chín con rắn hổ mang.
Những tín đồ của gã lại bắt đầu rầm rì tụng:
– NA-GA, NA-GA, NA-GA…
Dybbuk thầm thì:
– Tớ nổi hết cả da gà rồi đây. Mấy người này khùng hết rồi.
Philippa bảo:
– Nói vậy là còn nhẹ đó. Phải gọi họ là những kẻ sát nhân mới đúng.
Gã guru la lớn, một lần nữa làm những tín đồ của gã im lặng:
– Nhưng chờ đã, các bạn của ta. Đôi khi, để thể hiện sức mạnh trên cái chết, chúng ta phải tận mắt thấy được cái chết. Chúng ta phải ngừng lại để hâm mộ sức mạnh của nó. Vì những dấu hiệu của ta không đi theo những kẻ hoài nghi. Và nó không phải là thứ người bình thường có được. Như những gì các ngươi sẽ chứng kiến ngay bây giờ! Các ngươi sẽ thấy ta đã sống sót bao nhiêu lần. Các ngươi sẽ thấy cái chết. Mang tù nhân ra đây!
Đám đông bên dưới tản ra, khi từ phía cuối ngôi đền, những tay sadhak vệ sĩ kéo về phía trước một người đàn ông bị trói hai tay sau lưng với khuôn mặt trắng bệch vì sợ hãi.
Ba đứa trẻ như ngừng thở, vì người đàn ông bị Guru Masamjhasara bắt đi tế thần chết ấy chính là ông Groanin.