← Quay lại trang sách

Chương 1 Không Ai Biết.

Mẹ bị lạc đã một tuần.

Cả gia đình cô tập trung ở nhà anh cả Hyong-chol. Sau khi cân nhắc kỹ

lưỡng, mọi người quyết định soạn tờ rơi để đi phát ở nơi có người nhìn

thấy mẹ lần cuối cùng. Việc đầu tiên là thảo tờ rơi. Tờ rơi là giải pháp

quen thuộc trong trường hợp này. Gia đình có người lạc vốn chẳng làm

được gì nhiều, huống hồ người bị lạc không phải ai khác mà chính là mẹ.

Tất cả những gì gia đình cô có thể làm là đăng tin tìm người thân bị

lạc, chia nhau đi tìm kiếm khắp nơi, dò hỏi khách qua đường xem có ai

nhìn thấy người nào giống mẹ không. Cậu em cô đang kinh doanh quần áo

qua mạng đã đăng tin mẹ mất tích, miêu tả địa điểm, tải ảnh của mẹ lên

mạng, đề nghị nếu ai thấy người nào giống như vậy thì xin hãy báo cho

gia đình. Cô muốn tìm đến những nơi mẹ có thể đã đến, nhưng cô biết rằng

mẹ không thể tự đi tới bất cứ nơi nào trong thành phố này. Anh

Hyong-chol bảo cô soạn nội dung tờ rơi bởi cô sống bằng nghề viết lách.

Cô đỏ dừ mặt như thể vừa bị phát hiện làm một việc xấu xa nào đó. Cô

không chắc những gì mình viết liệu sẽ có ích trong việc tìm mẹ hay không.

Khi cô viết ngày sinh của mẹ là ngày 24 tháng 7 năm 1938, bố cô nói rằng

mẹ sinh năm 1936. Mặc dù trên giấy tờ đều ghi năm 1938 nhưng thực tế mẹ

sinh năm 1936. Lần đầu tiên cô được nghe tới điều này. Bố cô bảo ngày

xưa tất cả mọi người đều làm như thế. Có rất nhiều đứa trẻ sinh ra chưa

đầy trăm ngày đã chết, vì vậy người ta thường nuôi con được vài ba tuổi

rồi mới làm giấy khai sinh. Cô sửa số 38 thành 36, nhưng anh cả bảo phải

viết năm sinh của mẹ là 1938 theo đúng như trên giấy tờ. Cô thầm nghĩ

không biết có cần phải chính xác tới thế không khi đây chỉ là tự soạn tờ

rơi chứ không phải khai báo với cơ quan chức năng, nhưng cô vẫn sửa số

36 thành 38, trong lòng tự hỏi không biết đến cả ngày sinh của mẹ cũng

có thật là ngày 24 tháng 7 không.

Mấy năm trước, mẹ bảo anh chị em cô không cần tổ chức sinh nhật riêng ẹ

vì sinh nhật của bố trước sinh nhật mẹ một tháng. Trước đây, vào mỗi dịp

sinh nhật hay các ngày lễ kỷ niệm khác, anh chị em cô đều về nhà bố mẹ ở

thị trấn J. Cả nhà tập trung đầy đủ là 22 người. Mẹ rất thích cảnh cả

gia đình quây quần, nói chuyện rôm rả. Cứ mỗi dịp cả nhà tập trung đông

đủ, từ mấy ngày trước mẹ đã muối kim chi, ra chợ mua thịt bò, chuẩn bị

kem đánh răng và bàn chải. Mẹ còn ép dầu mè, rang vàng hạt tía tô và hạt

vừng rồi đem hạ thổ để làm quà cho các con mang về. Những lần chờ con

cháu về, mẹ vui ra mặt, khi nói chuyện với hàng xóm hay người quen thì

từ cử chỉ đến lời nói đều không giấu được vẻ tự hào. Mẹ còn chất đầy

trong kho những chai thủy tinh lớn nhỏ, đựng đủ các loại nước hoa quả do

chính tay mẹ làm, nào là nước mận, nước dâu tây...; mùa nào thức ấy. Mẹ

có những hũ đựng đầy vèn cá đù muối và mắm cá trống hay sò muối để gửi

cho các con trên thành phố. Biết hành tươi tốt cho sức khỏe, mẹ ép cả

nước hành, và trước khi mùa đông đến mẹ còn làm nước bí ngô pha với cam

thảo. Ngôi nhà của mẹ giống như kho xưởng, ở đó mẹ làm tương, làm đậu

muối, làm gạo lứt, chế biến mọi thứ cho gia đình sử dụng quanh năm.

Nhưng về sau, anh chị em cô về thăm bố mẹ thưa dần và bố mẹ lên Seoul

nhiều hơn. Bữa tiệc gia đình ấm cúng trong ngày sinh nhật của bố mẹ cũng

bắt đầu được thay bằng những bữa ăn thịnh soạn ở nhà hàng. Như thế tiện

lợi hơn. Rồi thậm chí mẹ còn gợi ý nên tổ chức sinh nhật mẹ cùng với

sinh nhật bố vì mẹ nghĩ mùa hè nóng nực mà anh chị em cô phải đi đi lại

lại hai lần cho hai ngày sinh nhật thì thật mệt, chi bằng chọn lấy một

ngày rồi tổ chức luôn cho tiện. Ban đầu cả nhà phản đối chuyện đó, dù mẹ

cứ khăng khăng không thay đổi ý kiến, và nếu mẹ không chịu lên thành phố

thì mấy người trong anh chị em cô sẽ về quê tổ chức sinh nhật ẹ. Về sau

tất cả anh chị em trong nhà đều tặng quà sinh nhật ẹ vào ngày sinh nhật

bố, còn ngày sinh nhật của mẹ cứ lặng lẽ trôi qua. Mẹ thích mua tất ọi

thành viên trong gia đình nhưng anh chị em cô không ai lấy nên tất cứ

chất đống trong tủ quần áo của mẹ.

Tên: Park So-nyo.

Ngày sinh: 24 tháng 7 năm 1938 (69 tuổi).

Hình dáng: Tóc muối tiêu ngắn, gò má cao, khi đi lạc mặc áo sơ mi xanh

da trời, áo khoác trắng, váy xếp nếp màu be.

Địa điểm bị lạc: Ga tàu điện ngầm Seoul.

Không ai quyết được cô nên sử dụng tấm hình nào của mẹ. Mọi người đều

nhất trí dùng tấm hình chụp gần đây nhất, nhưng không ai có tấm hình mới

chụp nào có mẹ. Cô nhớ ra là lâu nay mẹ không thích chụp ảnh. Ngay cả

khi chụp ảnh gia đình mẹ cũng lẩn đi mất, thế nên mẹ không bao giờ xuất

hiện trong ảnh. Tấm ảnh gần đây nhất có mẹ là tấm chụp cả nhà vào dịp

mừng thọ bố bảy mươi tuổi. Hôm ấy mẹ mặc hanbok màu xanh nhạt, mái tóc

được thợ làm đầu cuốn lên cẩn thận, môi đánh son đỏ, trông thật sang

trọng. Cậu em trai cô cho rằng hình dáng mẹ trong ảnh trông khác xa hình

dáng mẹ trước khi bị lạc, cho dù có tách riêng ảnh mẹ ra phóng to lên

thì mọi người cũng không nhận ra. Cậu kể rằng khi cậu tải ảnh mẹ lên

mạng, mọi người vào bình luận rằng mẹ đẹp quá, trông chẳng giống người

đi lạc tí nào. Cả nhà quyết định sẽ tìm tấm ảnh khác của mẹ. Anh cả bảo

cô bổ sung thêm nội dung trong tờ rơi. Khi cô nhìn anh trai chằm chằm,

anh bảo cô hãy nghĩ ra những câu cảm động hơn để lay động lòng người

đọc. Lời lẽ lay động lòng người đọc ư? Khi cô viết “Làm ơn hãy giúp

chúng tôi tìm mẹ”, anh cả cho rằng lời lẽ như vậy đơn giản quá. Khi cô

viết “Omoni của chúng tôi bị lạc”, anh cả cho rằng từ Omoni trịnh trọng

quá và bảo cô sửa thành Omma. Khi cô viết “Omma của chúng tôi bị lạc”,

anh cả lại bảo nghe câu này quá trẻ con. Khi cô viết “Nếu nhìn thấy

người nào như vậy, làm ơn báo cho chúng tôi”, anh cả quát ầm lên, “Cô là

cái kiểu nhà văn gì vậy?” Cô không tài nào nghĩ ra được lấy một câu đủ

sức thuyết phục để anh cả vừa ý.

Người anh thứ nói, “Mọi người sẽ chú ý nếu em viết thêm là chúng ta sẽ

có hậu tạ.”

Khi cô viết “Chúng tôi sẽ hậu tạ xứng đáng”, đến lượt các chị dâu cô cho

rằng không thể viết chung chung như vậy, mọi người chỉ thực sự quan tâm

đến tờ rơi nếu chúng ta đưa ra một con số cụ thể.

“Vậy nên viết bao nhiêu?”

“Một triệu uôn được không?”

“Sợ ít quá.”

“Ba triệu uôn được không?”

“Vẫn có vẻ ít nhỉ?”

“Vậy thì năm triệu uôn nhé!”

Chắc chẳng có ai chê khoản tiền năm triệu uôn. Cô viết, “Chúng tôi sẽ

hậu tạ năm triệu uôn,” rồi đặt dấu chấm câu. Người anh thứ hai bảo nên

sửa lại là “Hậu tạ: năm triệu uôn.” Cậu em trai bảo cô cho dòng chữ năm

triệu uôn thành cỡ chữ to hơn. Mọi người thống nhất nếu ai tìm thấy tấm

hình của mẹ phù hợp hơn thì gửi email cho cô. Việc bổ sung nội dung và

phô tô tờ rơi do cô đảm nhận, cậu em trai chịu trách nhiệm phân phát ọi

người trong nhà. Cô gợi ý thuê người phát tờ rơi nhưng anh cả yêu cầu

mọi người phải trực tiếp làm việc ấy, những ngày trong tuần thì tranh

thủ thời gian rỗi, còn cuối tuần thì đi phát cả ngày.

Cô cáu kỉnh, “Làm như thế đến khi nào mới tìm thấy mẹ?”

Anh cả vặc lại, “Chúng ta sẽ làm việc này vì không thể ngồi tễnh mà chờ

được, chúng ta đang làm tất cả những gì có thể.”

“Anh nói thế là thế nào, chúng ta đang làm tất cả những gì có thể sao?”

“Chúng ta đã đăng tin trên báo.”

“Tất cả những gì chúng ta có thể làm là đăng tin trên báo sao?”

“Thế cô muốn làm gì nữa, tất cả chúng ta phải bỏ việc để đi lục tung mọi

ngõ ngách trong thành phố này lên chắc? Nếu làm như vậy mà tìm được mẹ

thì tôi đã làm,” anh cả gần như nổi khùng.

Cô thôi không tranh luận với anh cả nữa. Xưa nay cô vốn quen để anh coi

sóc mọi việc, nhưng cô cũng hiểu rằng làm vậy trong trường hợp này là

quá đáng. Mọi người để bố ở lại nhà anh cả rồi ra về. Nếu không giải tán

nhanh thì chắc chắn sẽ lại tiếp tục có tranh cãi. Anh chị em cô đã cãi

vã nhau cả tuần trước rồi. Cả nhà tập trung để bàn cách tìm mẹ và rồi vô

tình người này lại động chạm đến những lần người kia người nọ làm điều

không phải với mẹ trước đây. Dần dà những chuyện dồn nén bấy lâu bùng

phát, kết cuộc là anh em quát tháo lẫn nhau, người đốt thuốc mù mịt,

người nổi khùng lên đóng sập cửa lại.

Ngay sau khi được tin mẹ bị lạc, cô bực tức hỏi mọi người trong gia đình

sao không có ai ra ga tàu điện ngầm Seoul đón bố mẹ.

“Còn cô đã ở đâu?”

Tôi ư? Cô mím chặt môi. Tận bốn ngày sau khi mẹ bị lạc cô mới biết tin.

Mọi người trong gia đình cô đổ lỗi cho nhau về chuyện mẹ bị lạc nhưng ai

cũng cảm thấy day dứt trong lòng.

Rời khỏi nhà anh cả, cô bắt tàu điện ngầm về nhà nhưng rồi lại xuống ở

ga Seoul, nơi mẹ biến mất. Trong nhà ga người đông như nêm, họ chen lấn

va quệt vào cô khi cô tìm đường đi tới chỗ mẹ bị lạc. Chắc mẹ cô cũng bị

lạc trong tình trạng hỗn loạn như thế này. Mọi người xô đẩy cô khi cô

đứng tại nơi mẹ đã tuột mất bàn tay bố. Không ai nói một lời xin lỗi. Có

lẽ mọi người đã ào ạt đi qua như thế trong khi mẹ cô đứng đấy, không

biết phải làm gì.

Người ta có thể lật lại hồi ức được bao xa? Hồi ức về mẹ thì sao?

Từ khi nghe tin mẹ bị lạc đến tận bây giờ, cô không thể tập trung suy

nghĩ được gì. Những ký ức cô đã quên lãng từ lâu bỗng nhiên trỗi dậy.

Nỗi ân hận cứ bám theo từng ký ức. Cô nhớ lại nhiều năm về trước, mấy

ngày trước khi cô rời thị trấn quê nhà lên thành phố, mẹ dẫn cô ra cửa

hàng quần áo ngoài chợ. Cô muốn chọn một chiếc váy trơn nhưng mẹ lại

chọn cho cô một chiếc váy xếp nếp có đai và đường diềm.

“Cái này thế nào?” mẹ cô hỏi.

“Không,” cô nói rồi gạt đi.

“Tại sao? Con cứ mặc thử đi.”

Mẹ lúc đó còn trẻ, mở to mắt ngạc nhiên không hiểu. Chiếc váy xếp nếp ấy

tương phản hoàn toàn với chiếc khăn cũ kỹ lem nhem mẹ đội trên đầu như

hai thế giới tách biệt không ăn nhập gì với nhau.

“Trông trẻ con quá.”

“Thật sao?” Mẹ cô nói nhưng vẫn cầm chiếc váy ngắm nghía mãi không nỡ

rời. “Nếu là con thì mẹ đã thử cái váy này,” mẹ cô lẩm bẩm.

Thấy mẹ có vẻ hơi buồn khi cô cho rằng kiểu váy đó trẻ con, cô nói, “Cái

này có phải kiểu mẹ hay mặc đâu.”

Mẹ nói, “Không, mẹ thích kiểu này, chỉ có điều mẹ thì không mặc được.”

Mình lẽ ra nên mặc thử cái váy đó, cô thầm nghĩ. Cô khuỵu chân ngồi

xuống có lẽ đúng chỗ mẹ cô đã từng ngồi. Vài ngày sau khi nhất quyết đòi

mua váy trơn, cô đã đến chính sân ga tàu điện ngầm Seoul này cùng mẹ. Mẹ

nắm chặt tay cô, bước đi giữa biển người với phong thái có thể đe dọa cả

những tòa nhà lừng lững đang từ trên cao nhìn thẳng xuống, rồi băng qua

quảng trường và đợi anh cả dưới chân tháp đồng hồ. Sao một con người như

vậy có thể bị lạc? Khi ánh đèn từ con tàu đang vào ga vừa rọi tới, mọi

người đổ xô lại, liếc xéo qua chỗ cô ngồi cứ như thể họ đang bực bội vì

cô cứ ngồi trên lối đi.

Lúc mẹ bị xô tuột khỏi tay bố, cô đang cùng đồng nghiệp tham dự triển

lãm sách tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Lúc mẹ cô bị lạc ở ga tàu

điện ngầm Seoul, cô đang cầm trên tay bản dịch tiếng Trung cuốn sách của

cô tại một quầy sách ở triển lãm. Cô tự hỏi tại sao bố không đi taxi mà

lại đi tàu điện ngầm chứ? Chỉ cần bố không đi tàu điện ngầm thì chắc đã

không xảy ra chuyện này.

Bố cô nói ông đã nghĩ tại sao phải đi taxi khi ga tàu hỏa cũng nối liền

với ga tàu điện ngầm? Có những khoảnh khắc mà người ta thường suy ngẫm

lại sau khi có việc gì đó xảy ra, nhất là sau khi chuyện không may xảy

ra. Khoảnh khắc mà người đó nghĩ, Lẽ ra mình không nên làm vậy. Khi bố

cô nói với cả nhà rằng bố mẹ có thể tự tìm đến nhà anh Hyong-chol, tại

sao khác với những lần trước anh chị em cô lại để bố mẹ làm thế? Bình

thường mỗi lần bố mẹ lên thành phố thăm các con, trong số anh em cô vẫn

có người ra ga xe lửa hay ga tàu điện ngầm Seoul đón họ. Điều gì khiến

bố cô, vốn luôn dùng xe của nhà hoặc đi taxi mỗi lần lên thành phố,

quyết định đi tàu điện ngầm vào cái ngày định mệnh ấy? Khi tàu điện đến,

bố mẹ vội vã chạy lại. Nhưng lúc bố lên tàu, nhìn lại phía sau thì đã

không thấy mẹ đâu. Đó là một buổi chiều thứ Bảy đông đúc. Mẹ lạc bố giữa

đám đông, đoàn tàu lăn bánh khi mẹ hoàn toàn mất phương hướng. Khi mẹ

tay không đi lang thang trong ga tầu điện ngầm vì bố đã cầm túi của mẹ

lên tàu, cô vừa rời khỏi triển lãm sách và đang trên đường đến quảng

trường Thiên An Môn. Mặc dù đã đến Bắc Kinh ba lần nhưng cô chưa lần nào

đến quảng trường Thiên An Môn, chỉ mới ngắm nhìn từ trong xe buýt hay taxi.

Cậu tình nguyện viên đề xuất đi thăm quảng trường Thiên An Môn trước bữa

tối, cả đoàn nhất trí đó là một ý hay. Khi cô bắt taxi đến trước Tử Cấm

Thành, người mẹ bơ vơ ở ga tàu điện ngầm Seoul của cô đang làm gì? Đoàn

của cô đã vào thăm Tử Cấm Thành nhưng phải quay ra ngay. Tử Cấm Thành

chỉ mở cửa một phần vì đang trong thời gian trùng tu, vả chăng cũng sắp

đến lúc đóng cửa. Toàn bộ thành phố Bắc Kinh đang là một công trường lớn

để chuẩn bị cho Đại hội Olympic vào năm tới. Cô chợt nhớ đến một cảnh

trong phim Hoàng đế cuối cùng, khi ông vua già Phổ Nghi trở lại Tử Cấm

Thành, nơi ông đã từng sống thời thơ ấu, và ột vị khách du lịch nhỏ tuổi

xem cái hộp ông giấu sau ngai vàng. Khi ông mở nắp hộp ra, con dế ông

nhốt trong hộp từ ngày xưa vẫn còn sống. Khi cô đi sang quảng trường

Thiên An Môn, mẹ cô đang đứng bơ vơ, bị chen lấn giữa dòng người đông

đúc. Phải chăng mẹ cô đang mong chờ các con đến đón? Con đường nối Tử

Cấm Thành với quảng trường Thiên An Môn cũng đang trong giai đoạn tu

sửa. Cô có thể nhìn thấy quảng trường ngay trước mặt nhưng để đến được

đó cô phải đi qua một con đường ngoằn ngoèo. Khi cô ngắm những cánh diều

bay lơ lửng phía trên quảng trường Thiên An Môn, có thể mẹ cô đang ngồi

trong đường hầm với nỗi tuyệt vọng và thầm gọi tên cô. Khi cô thấy cánh

cửa sắt của Thiên An Môn mở ra, một tốp cảnh sát bước đều về phía quảng

trường để hạ lá cờ đỏ có năm ngôi sao xuống, có thể mẹ cô đang đi lang

thang trong mê lộ đường hầm ở ga tàu điện ngầm Seoul. Nhờ sự xác nhận

của những người đã nhìn thấy mẹ cô trong nhà ga cô mới biết được điều

này. Các nhân chứng nói họ nhìn thấy một bà già cứ lững thững bước,

thỉnh thoảng lại ngồi bệt xuống đường hay đứng thẫn thờ trước cầu thang

cuốn. Có người nói nhìn thấy bà già đó cứ ngồi mãi ở sân ga, rồi cuối

cùng cũng lên một chuyến tàu để đi. Vào đêm mẹ bị lạc, cô cùng đoàn bắt

taxi đến một con phố sáng trưng náo nhiệt ở Bắc Kinh, túm tụm cười đùa

dưới ánh đèn đỏ, thưởng thức loại rượu nặng 56° của Trung Quốc, ăn cua

chiên trong chảo dầu cay nóng hổi.

Bố cô xuống ở bến kế tiếp và quay lại ga tàu điện ngầm Seoul nhưng mẹ cô

đã không còn ở đó.

“Dù không bắt được tàu nhưng sao có thể quên được đường cơ chứ? Bảng

hướng dẫn ở đâu cũng có. Mẹ biết dùng điện thoại công cộng, chỉ cần đến

bốt điện thoại là có thể gọi được mà.” Chị dâu cô một mực cho rằng chắc

chắn đã có chuyện gì đó xảy ra với mẹ, rằng thật khó hiểu khi mẹ không

thể tìm thấy nhà anh cả chỉ vì không lên đúng chuyến tàu điện ngầm như

bố. Có điều gì đã xảy ra với mẹ ư? Đó là suy nghĩ của những người muốn

nghĩ mẹ là một bà già quê mùa.

Khi cô nói, “Có thể mẹ đã bị lạc đường chứ chị,” thì chị dâu cô tròn mắt

ngạc nhiên. “Chị biết dạo này mẹ thế nào rồi đấy,” cô giải thích nhưng

chị dâu làm ra vẻ không hiểu cô đang nói gì. Nhưng thực ra cả gia đình

đều biết tình trạng của mẹ dạo này. Có thể cô sẽ không tìm được mẹ.

Cô nhận ra mẹ không biết đọc từ khi nào nhỉ?

Lá thư đầu tiên cô viết là khi chuyển lời nhắn của mẹ tới anh Hyong-chol

ngay sau khi anh chuyển lên thành phố. Sau khi tốt nghiệp trung học ở

thị trấn, nơi anh em cô đã sinh ra và lớn lên, anh Hyong-chol đã tự ôn

thi công chức ở nhà trong một năm, rồi thi đỗ và chuyển lên thành phổ để

làm việc. Đây là lần đầu tiên mẹ cô phải xa một đứa con rứt ruột đẻ ra.

Khi ấy nhà cô không có điện thoại, cách liên lạc duy nhất là qua thư.

Anh Hyong-chol thường gửi ẹ những lá thư viết chữ rất to. Mẹ cô luôn

linh cảm được ngày thư của anh Hyong-chol đến cứ như thể có phép lạ. Tầm

mười một giờ trưa, bác đưa thư đến làng cô với cái túi to tướng treo

trước ghi đông xe đạp. Vào ngày có thư của anh cả, từ ngoài đồng hay

ngoài mương mẹ cô sẽ về nhà giặt giũ quần áo để đợi được trực tiếp nhận

lá thư từ tay bác đưa thư rồi mong ngóng cô đi học về. Khi thấy cô về,

mẹ vội vàng dẫn cô ra hiên sau rồi đưa lá thư của anh Hyong-chol ra,

giục cô đọc to ẹ nghe.

Lá thư của người anh xa nhà được mở đầu bằng dòng chữ “Mẹ kính yêu”.

Cách viết thư giống hệt như học trong sách vở, anh hỏi thăm sức khỏe mọi

người ở nhà và thông báo tình hình công việc của anh trên thành phố vẫn

tốt. Trong thư anh Hyong-chol viết rằng mỗi tuần một lần anh mang quần

áo bẩn đến nhà thím để nhờ thím giặt hộ. Thực ra mẹ đã nhờ thím làm việc

đó cho anh. Anh dặn mẹ không phải lo cho anh vì chuyện ăn uống hằng ngày

vẫn đảm bảo, anh cũng có chỗ nghỉ ngơi mỗi khi trực ở văn phòng.

Anh Hyong-chol còn cho biết khi lên thành phố anh muốn làm rất nhiều

việc và cảm thấy như thể mình làm được mọi việc vậy. Thậm chí anh còn

bộc lộ khát vọng rằng anh sẽ thành công và mang lại cuộc sống tốt đẹp

hơn ẹ. Trong thư, người anh hai mươi tuổi còn khéo léo dặn thêm, Thế nên

mẹ ơi, không phải lo lắng cho con đâu mà hãy chú ý giữ gìn sức khỏe. Vừa

đọc thư của anh ẹ nghe, cô vừa ngắm mẹ lúc ấy đang nhìn chằm chằm vào

mấy cây khoai nước ở sân sau và mấy cái chum sành đựng đầy tương. Tai mẹ

dỏng lên như tai thỏ, chú ý lắng nghe cô đọc không để sót từ nào. Sau

khi cô đọc hết lá thư, mẹ bảo cô viết đúng như những lời mẹ nói. Lời đầu

tiên của mẹ là, Hyong-chol yêu thương. Cô liền viết, Hyong-chol yêu

thương. Mẹ không bảo cô đánh dấu chấm câu nhưng cô vẫn đặt dấu chấm câu

sau tên anh. Mẹ cô nói, Hyong-chol!, cô sẽ viết, Hyong-chol! Lúc mẹ

ngừng lại sau khi kêu tên anh cả cứ như mẹ quên mất phải nói điều gì, cô

lấy tay gạt mái tóc đang xõa xuống ra sau tai rồi lại cầm bút trên tay,

chăm chú nhìn vào lá thư, dỏng tai lên chờ mẹ nói tiếp để viết. Khi mẹ

nói, trời trở lạnh rồi đấy, cô cũng viết nguyên văn, trời trở lạnh rồi

đấy. Tiếp ngay sau câu Hyong-chol yêu thương, mẹ luôn nói về thời tiết.

Ở nhà hoa nở rộ cho thấy mùa xuân đang đến. Hè sang nên cánh đồng đang

bắt đầu khô nẻ. Vào mùa thu hoạch rồi, đậu tràn ngập bờ ruộng. Mẹ luôn

nói tiếng địa phương, trừ khi đọc để cô viết thư cho anh Hyong-chol. Con

đừng lo gì việc ở nhà, hãy chú ý giữ gìn sức khỏe. Đấy là điều duy nhất

mẹ mong muốn ở con. Những lá thư của mẹ luôn ngập tràn cảm động: Mẹ xin

lỗi vì không giúp được gì cho con. Khi cô nắn nót viết theo những lời

của mẹ, nước mắt đã rơi lã chã trên bàn tay mẹ. Câu nói cuối cùng của mẹ

luôn luôn là: Con hãy ăn uống đầy đủ con nhé! Mẹ.

Là con thứ ba trong gia đình, cô đã chứng kiến nỗi lo lắng, đau khổ,

buồn rầu của mẹ khi từng người anh của cô thoát ly. Sau khi anh cả xa

nhà, sáng sớm nào mẹ cũng ra sân sau lau chùi mấy chum tương. Bởi vì

giếng nước ở sân trước nên thật vất vả mới mang được nước ra sân sau,

nhưng mẹ vẫn lau chùi cẩn thận từng cái chum một. Mẹ còn lau sạch cả

trong lẫn ngoài những chiếc nắp chum cho đến khi chúng sáng bóng lên.

Vừa làm mẹ vừa khe khẽ hát theo lời một bài hát nào đó, Nếu giữa đôi ta

không có biển ngăn cách, sẽ không có lời ly biệt đớn đau... Mẹ nhúng giẻ

lau vào trong chậu nước lạnh buốt rồi vớt ra, vắt khô rồi lại lau những

chiếc chum và tiếp tục hát, Tôi hy vọng một ngày nào đó người sẽ không

xa rời tôi. Nếu lúc ấy cô gọi, mẹ sẽ quay lại với đôi mắt ngấn lệ.

Cách mẹ yêu thương quan tâm chăm sóc anh cả được thể hiện qua việc mẹ

nấu mì ỗi mình anh những khi anh đi học thêm buổi tối về. Sau này, nếu

có lúc cô nhắc đến chuyện ấy với bạn trai, anh lại nói rằng đó chỉ là

món mì thôi, có gì ghê gớm đâu? Chỉ là món mì thôi sao? Vào thời điểm đó

chẳng phải mì là món ngon nhất sao? Thậm chí khi ăn còn phải giấu giếm

không cho ai. Dù cô có giải thích về sự tuyệt vời của món mì thế nào đi

nữa thì anh ấy, một người thành phố, vẫn nghĩ là nó quá thường tình.

Hồi đó, món mì vừa mới xuất hiện có hương vị ngon hơn mọi món mẹ làm. Mẹ

mua mì và giấu trong chiếc chum rỗng ngoài sân, mẹ chỉ muốn nấu cho anh

cả ăn vào ban đêm. Dù đã khuya muộn nhưng mấy anh em cô đều bị đánh thức

bởi mùi mì thơm ngào ngạt. Khi mẹ nghiêm khắc yêu cầu anh em cô vào đi

ngủ, cả mấy anh em cô cứ đứng thèm thuồng nhìn anh cả ăn. Cảm thấy có

lỗi, anh Hyong-chol chỉ ăn một miếng, nhưng mẹ bảo anh cứ ăn hết bát mì,

rồi mẹ đổ đầy nước vào nồi, nấu thêm một gói mì nữa để chia cho anh em

cô. Lúc đấy sao mà mấy anh em cô thấy sung sướng thế, đứa nào đứa nấy

háo hức đón lấy cái bát nước nhiều hơn mì.

Khi lau đến chiếc chum giấu mì ngày xưa, mẹ sẽ gọi to, Hyong-chol! rồi

ngồi bệt xuống đất, hai chân xoãi ra, và cô sẽ nhẹ nhàng đi đến, lấy

chiếc giẻ khỏi bàn tay mẹ, kéo tay mẹ lên quàng quanh vai cô. Mẹ sẽ bật

khóc thổn thức, không kìm nén được trước nỗi nhớ thương tuôn trào về đứa

con đầu lòng.

Mỗi khi các anh xa nhà, mẹ cô như chìm vào nỗi buồn vô tận. Khi ấy, tất

cả những gì cô có thể làm là đọc thư các anh gửi về ẹ nghe, sau đó nghe

mẹ đọc để viết thư cho anh rồi bỏ lá thư vào thùng thư trên đường tới

trường. Thậm chí lúc đó cô không biết một sự thật hiển nhiên là mẹ chưa

từng một lần bước chân vào thế giới của những bức thư. Tại sao cô lại

không nghĩ ra rằng mẹ không biết chữ, ngay cả lúc mẹ cậy dựa vào cô như

một đứa trẻ, ngay cả lúc cô đọc thư rồi viết thư giúp mẹ? Cô thực hiện

những đề nghị của mẹ chỉ như làm những việc vặt khác, cũng giống như

việc ra vườn hái mấy cây cẩm quỳ hay chạy ra cửa hàng mua ít dầu hỏa.

Nhưng sau khi cô xa nhà, mẹ không nhờ bất cứ ai làm việc đó. Chính vì

vậy cô không nhận được lá thư nào từ mẹ. Liệu có phải do cô không bao

giờ viết thư ẹ không? Có lẽ là do chiếc điện thoại. Vào thời điểm cô rời

khỏi thị trấn, người ta lắp một chiếc điện thoại công cộng ở nhà ông

trưởng thôn. Đây là cái điện thoại đầu tiên ở làng cô. Vào mỗi buổi

sáng, người trong làng lắng nghe ông trưởng thôn kiểm tra cái loa rồi

thông báo nhà này hay nhà khác đến nghe điện thoại từ Seoul gọi về. Các

anh cô thôi không viết thư nữa mà thường gọi điện về ẹ qua chiếc điện

thoại công cộng của làng. Từ khi làng có điện thoại, mọi người cho dù

đang ở ngoài đường hay trên đồng cũng đều chú ý lắng xem nghe tiếng loa

gọi tên nhà nào.

Mối quan hệ giữa mẹ và con gái sẽ thuộc một trong hai dạng, hoặc là biết

rất rõ về nhau hoặc là giống như người xa lạ.

Cho đến mùa thu năm trước cô vẫn nghĩ rằng cô rất hiểu mẹ. Từ việc mẹ

thích cái gì, khi mẹ giận phải làm gì để mẹ nguôi, cho đến việc mẹ muốn

nghe những lời như thế nào... Nếu có ai hỏi mẹ đang làm gì, cô có thể

trả lời ngay lập tức: mẹ đang phơi cây dương xỉ; hôm nay Chủ nhật nên mẹ

đến nhà thờ… Nhưng cũng chính vào mùa thu trước, những suy nghĩ ấy của

cô đã vỡ vụn. Một lần về thăm mẹ mà không báo trước, cô cảm nhận được

không khí xa lạ đang tồn tại giữa hai mẹ con giống như cô đã trở thành

một người khách lạ chứ không còn là con gái của mẹ. Hôm đó, mẹ nhặt

chiếc khăn rơi trên sàn nhà rồi treo lên, nếu thức ăn vãi xuống bàn mẹ

cũng vội vàng nhặt đi. Những khi cô về nhà mà không báo trước, mẹ thường

tỏ ra lúng túng, ngượng ngùng vì sân thềm bừa bãi, chăn màn lôi thôi. Mẹ

mở tủ lạnh ra xem còn thứ gì không, và cho dù cô cố ngăn, mẹ vẫn nhất

quyết ra chợ mua thứ gì đó. Trong mối quan hệ gia đình, người ta có thể

đi làm những việc khác sau bữa ăn mà không cần dọn bàn ngay. Thấy mẹ cứ

cố giấu giếm sự lộn xộn trong cuộc sống hằng ngày, cô cảm thấy mình thực

sự đã trở thành người xa lạ với mẹ.