← Quay lại trang sách

Chương 11 Tôi Đã Về Đây! 3.

Kể từ khi vợ bị lạc, cứ mỗi khi nghĩ đến chuyện mình luôn đi quá nhanh,

ngực ông lại như muốn nổ tung...

Cả đời ông lúc nào cũng đi trước vợ. Có những khi ông rẽ sang đường mà

không hề quay đầu lại. Khi vợ ông gọi với theo từ phía sau, thế nào ông

cũng càu nhàu, “Sao bà đi chậm thế.” Vậy mà năm mươi năm đã trôi qua.

Mỗi khi ông dừng lại đợi, bà sẽ tiến lại chỗ ông, hai má đỏ bừng, vừa

cười vừa nói, “Nếu ông đi chậm một chút nữa thì tốt biết mấy.” Ông cứ

nghĩ phần đời còn lại của mình sẽ tiếp tục diễn ra như vậy. Thế nhưng kể

từ cái hôm ở ga Seoul khi ông lên chuyến tàu điện ngầm, cái ngày mà vợ

ông chỉ ở phía sau ông có mấy bước chân, bà vẫn chưa đến bên ông.

Vừa nhìn lũ trẻ ăn ngấu nghiến bát cơm dở sống dở chín với thức ăn chỉ

là đĩa kim chi, ông nhấc cái chân trái đã từng phải phẫu thuật khớp

xương đặt lên trên sàn nhà. Sau khi phẫu thuật, chân ông không còn đau

hay tê cứng nữa, nhưng nó thành ra không gập được.

“Để tôi chườm nóng cho ông nhé?”

Ông tưởng chừng như có thể nghe thấy tiếng vợ vẳng bên tai. Dù ông không

trả lời thì đôi bàn tay đồi mồi của vợ ông vẫn thoăn thoắt đặt xoong

nước lên bếp ga đun rồi nhúng khăn vào nước nóng, vắt kiệt rồi đắp lên

đầu gối cho ông. Mỗi lần nhìn đôi bàn tay chai sần của vợ ấn chiếc khăn

lên đầu gối ông, ông lại mong rằng bà sẽ sống lâu hơn mình dù chỉ một

ngày. Để sau khi ông chết, chính bàn tay của vợ ông sẽ vuốt mắt cho ông

lần cuối cùng, sẽ lau rửa cơ thể đã lạnh ngắt của ông trước mặt các con,

và cũng chính bàn tay ấy sẽ đặt tấm vải liệm cho ông.

“Mấy đứa lại đi đâu rồi?” ông hét lên gọi lũ trẻ. Sau khi ăn xong, lũ

trẻ đã chạy biến đi, chỉ còn lại mình ông ngồi duỗi chân trên sàn nhà,

người đàn ông lạc mất vợ, người đàn ông cô độc trong ngôi nhà trống

trải. Ông hét lên, cố gắng kìm nén không bật khóc thổn thức khi mà cơn

nghẹn cứ chực sẵn nơi cổ họng kể từ khi vợ ông bị mất tích. Ông chẳng

thể gào thét hay rơi lệ trước mặt con trai hay con gái hoặc con dâu,

nhưng giờ đây vì cơn giận dữ hay vì cái gì đó, nước mắt ông cứ tràn ra

không sao kìm lại được. Nước mắt đã không hề rơi khi những người hàng

xóm chôn cất bố mẹ ông trên núi, bố mẹ ông mất cách nhau có hai ngày khi

dịch tả tràn qua làng. Ông không thể khóc cho dù rất muốn. Chôn cất bố

mẹ xong, ông đi xuống núi trong cảm giác run rẩy vì lạnh và vì sợ. Nước

mắt cũng không hề rơi trên mặt ông trong suốt cả thời kỳ chiến tranh.

Hồi đó, nhà ông có một con bò. Ban ngày, khi quân đội quốc gia còn ở

trong làng, ông thường dắt bò ra đồng cày ruộng. Thời ấy cứ đêm đến là

quân lính Bắc Triều Tiên lại từ trên núi mò xuống làng bắt người và gia

súc. Khi mặt trời lặn, ông sẽ dắt con bò vào thị trấn, buộc gần đồn cảnh

sát rồi tựa vào bụng nó mà ngủ. Sáng ra, ông lại dắt con bò về làng để

đi cày ruộng. Vào đúng cái đêm ông không dắt con bò đến đồn cảnh sát vì

nghĩ rằng quân đội Bắc Triều Tiên đã rút khỏi khu vực này, chúng đã kéo

vào làng. Chúng ra sức bắt con bò đi. Ông nhất định không chịu thả con

bò ra cho dù bị chúng đấm đá thùm thụp. Ông chạy theo để giằng lại con

bò, ông gạt sang bên bà chị gái đang cố ngăn ông lại, và ngay cả khi bị

chúng đánh bằng báng súng, ông cũng không hề khóc. Ông vốn không rơi một

giọt nước mắt khi bị nhốt trong thùng nước gạo cùng với nhiều người khác

trong làng do bị quy kết là phần tử phản động vì có người chú làm cảnh

sát, ông cũng chẳng hề khóc khi bị cái xiên tre chọc vào cổ, nhưng giờ

đây ông đang gào lên nức nở. Cho đến tận bây giờ ông mới nhận ra rằng,

mong muốn cho người vợ được sống lâu hơn mình của ông mới ích kỷ biết

bao. Chính sự ích kỷ đã khiến ông lờ đi sự thực là vợ ông đã mắc bệnh

nặng. Ông cũng biết rằng vợ ông thường ngủ như chết trong những lần ông

về nhà vào ban đêm, mắt nhắm nghiền vì cơn đau đầu dữ dội. Chỉ có điều

ông không chịu chấp nhận thực tế đó. Ông cũng biết có những lúc vợ ông

bảo mang cơm cho chó nhưng không đi tới chuồng chó mà lại ra ngoài sân

giếng, hay những khi bà ra khỏi nhà để đi đâu đó nhưng lại đứng ngẩn ngơ

trước cổng, không nhớ nổi mình định đi đâu, rồi cuối cùng bà bỏ cuộc và

quay vào nhà. Những việc như thế diễn ra thường xuyên. Ông chỉ biết đứng

nhìn khi vợ ông lết vào phòng, khó lắm mới tìm được cái gối để ngả lưng,

nỗi khắc khổ hằn trên khuôn mặt. Ông lúc nào cũng đóng vai người đau ốm,

còn vợ ông là người chăm sóc. Nếu vợ ông có kêu đau bụng, thì ông sẽ nói

mình cũng đang đau thắt lưng. Mỗi khi ông đau ốm, vợ ông thường bóp

trán, xoa bụng cho ông, rồi ra hiệu mua thuốc và nấu cháo đậu xanh cho

ông. Vậy mà khi bà ốm, ông chỉ nói, “Bà uống thuốc đi.”

Cũng phải đến tận bây giờ ông mới nhận ra rằng, ngay cả khi vợ ông bị

bệnh tiêu chảy, không ăn uống gì được trong mấy ngày liền, ông cũng

không mang nổi cho bà một cốc nước ấm.

Chuyện đó xảy ra khi ông còn đang lang thang khắp đất nước, đắm mình

trong tiếng trống cổ truyền. Nửa tháng sau ông về nhà thì vợ đã sinh một

cô con gái. Bà chị gái của ông, người đã đỡ đứa bé, bảo với ông là mẹ

tròn con vuông, nhưng vợ ông đang mắc tiêu chảy. Vợ ông cứ ăn gì vào

bụng là ra ngoài hết, da mặt bà khô khốc, gò má hốc hác, nhăn nheo,

chẳng hề có dáng một người phụ nữ vừa sinh con. Tình trạng sức khỏe của

vợ ông không hề tiến triển. Ông nghĩ nếu cứ để thế thì có lẽ bà không

qua khỏi. Ông đã đưa tiền cho chị gái mình đi mua thuốc Bắc về sắc cho

vợ ông uống.

Ông ngồi trên nền ngôi nhà trống trải khóc nức nở, tiếng khóc ngày càng to.

Đến bây giờ ông mới nghĩ ra đó là lần duy nhất ông bỏ tiền mua thuốc cho

vợ mình. Chị cả của ông đã cắt ba thang thuốc về sắc cho vợ ông uống.

Sau này, mỗi khi bụng có vấn đề, vợ ông thường rên rỉ, “Hồi đó nếu tôi

được uống thêm hai thang thuốc Bắc nữa thì bệnh đã khỏi hẳn!”

Họ hàng nhà ông đều rất quý vợ ông. Dù khi họ tới thăm, ông chỉ biết nói

“Bác đến chơi ạ!” và lúc họ về thì chào “Bác lại nhà ạ!” nhưng rất nhiều

họ hàng nhà ông vẫn đến chơi vì có vợ ông. Mọi người đều bảo những món

ăn do bà làm luôn đong đầy tình cảm trong đó. Dù tất cả những gì vợ ông

làm là ra vườn cắt ít cẩm quỳ vào nấu canh và nhổ một cây cải thảo để

làm món rau cải muối đơn giản, mọi người đều ăn rất ngon miệng. Họ không

ngớt lời khen canh và cải thảo muối thật tuyệt. Vào dịp nghỉ hè, mấy đứa

cháu về quê chơi với ông bà. Khi trở lại thành phố, chúng cứ phàn nàn là

chúng tăng cân đến mức không thể cài khuy áo đồng phục được nữa. Mọi

người đều bảo cơm do vợ ông nấu có khả năng vỗ béo người ta. Vào vụ cấy,

khi ông và những người hàng xóm làm hộ đang gieo mạ trên thửa ruộng nhà

ông, vợ ông thường mang cơm trưa có canh cá bao kiếm hầm khoai tây mới

dỡ, mọi người sẽ dừng tay và tranh nhau ăn lấy ăn để. Ngay cả những

người vô tình đi ngang qua cũng dừng lại ăn chực. Dân làng cứ tranh nhau

đến làm việc cho nhà ông. Họ bảo nếu ăn cơm trưa do vợ ông nấu thì phải

làm được gấp đôi số việc so với bình thường mới lại thấy đói. Nếu có

người bán dưa bở hay bán quần áo nào đó cứ đảo qua đảo lại trước cổng

nhà vào đúng giờ ăn trưa của gia đình ông, thế nào bà cũng bảo họ để

hàng hóa vào một góc rồi mời cơm mời nước. Vợ ông có thể ăn uống vui vẻ

với người lạ nhưng lại không tài nào hòa hợp được với chị gái ông.

“Khi đó, tôi chỉ cần uống thêm hai thang thuốc Bắc nữa là sẽ khỏi hết

bệnh... Ngay đến cả người vô tâm như ông cũng nói với người vợ vừa qua

kỳ sinh nở là nên uống thêm hai thang thuốc nữa cho bệnh khỏi hẳn, thế

mà bà chị gái của ông lại lườm nguýt và nói rằng, uống thêm hai thang

làm cái gì, thế là đủ rồi, không phải sắc siếc gì nữa. Chị ấy đã không

mua thêm thuốc cho tôi. Lúc đó mà uống thêm hai thang nữa thì có phải

bây giờ đỡ khổ rồi không!” Cứ mỗi khi đau đớn vì căn bệnh đường ruột, bà

lại than thở như thể câu chuyện khó chịu ấy vừa mới xảy ra ngày hôm qua,

cho dù ông không hề nhớ gì về chuyện đó cả. Và, mặc dù bà nhắc đi nhắc

lại chuyện này bao nhiêu lần, ông không bao giờ mua thuốc Bắc về sắc cho

vợ khi bà bị tả lị.

“Phải uống thuốc từ lúc ấy, chứ bây giờ mới uống thì có ích gì đâu!” Mỗi

khi bị bệnh tả, vợ ông chẳng ăn bất cứ thứ gì. Ông chẳng hiểu làm sao

người ta có thể không ăn gì trong nhiều ngày liền. Hồi còn trẻ thì ông

cứ mặc kệ, phải đến khi đã già ông mới hỏi vợ được một câu, “Bà cũng

phải ăn cái gì vào chứ.” Những lúc như vậy, vợ ông sẽ trả lời với điệu

bộ thật đáng thương, “Tôi thấy loài cầm thú cũng thế đấy thôi. Đến như

con bò hay con lợn... nếu chúng mà ốm đau thì cũng bỏ ăn ngay. Ngay cả

con gà cũng vậy. Con chó nhà ta cũng thế, nó mà sinh bệnh thì có thiết

ăn uống gì đâu! Nó mà bị ốm là nó bỏ ăn, cho dù tôi có cho cơm ngon đến

thế nào nó cũng không thèm ngó ngàng, nó chỉ bới một cái hố trước chuồng

rồi đặt bụng xuống nằm im ở đấy thôi. Nó cứ nằm như thế mấy ngày rồi tự

khỏe dậy. Lúc đấy nó mới ăn cơm. Người cũng có khác gì đâu ông, bụng dạ

đang lục cục lên thế này mà ăn thứ gì thì dù có ngon đến mấy cũng thành

ra độc đấy ông ạ.”

Nếu căn bệnh tả không cầm được, vợ ông sẽ giã quả hồng khô rồi ăn một

thìa. Bà nhất quyết không đi khám. Cho dù ông có nói, “Hồng khô thì sao

có thể làm bà khỏi bệnh được, phải đi viện xem người ta chẩn đoán thế

nào rồi mua thuốc về mà uống mới đỡ chứ,” thì vợ ông cũng không nghe.

Nếu ông cứ nói đi nói lại, vợ ông sẽ cáu lên, “Tôi đã bảo với ông là sẽ

không đi viện rồi còn gì!” và không cho ông nhắc lại chuyện đó nữa. Có

một năm, ông bỏ nhà ra đi vào mùa hè và trở về nhà vào mùa đông, ông

thấy bên ngực trái của vợ nổi lên một khối u. Ông nói với bà rằng điều

đó thật khác thường, nhưng vợ ông chẳng quan tâm. Chỉ đến khi núm vú của

bà lõm xuống và có chất dịch rỉ ra, ông mới dẫn vợ đến bệnh viện trong

thị trấn để khám, bà vẫn đội cái khăn thấm đẫm mồ hôi ở trên đầu. Người

ta không thể ngay lập tức cho ông biết chính xác vợ ông mắc bệnh gì. Họ

kiểm tra rồi bảo phải mười ngày sau mới có kết quả. Nghe thấy thế, vợ

ông thở dài thườn thượt. Chuyện gì đã xảy ra trong mười ngày ấy? Khi đó,

ông đã mải mê với việc gì quan trọng đến mức không đi lấy kết quả cho vợ

mình? Sao ông lại chần chừ không quay lại lấy để xem có điều gì không ổn

với bà? Cuối cùng, khi núm vú của vợ ông mưng mủ, ông mới dẫn vợ trở lại

bệnh viện. Bác sĩ nói rằng bà bị ung thư vú.

“Bác sĩ bảo tôi bị ung thư vú sao?” Vợ ông nói rằng không thể như thế

được. Rằng bà không có thời gian để nằm trên giường vì đau ốm. Rằng bà

có quá nhiều việc phải làm. Bác sĩ giải thích rằng vợ ông không thuộc

nhóm có nguy cơ ắc bệnh ung thư vú. Bà sinh nở sớm, cả năm đứa con đều

bú mẹ, bà không hề có kinh sớm vì kỳ kinh nguyệt đầu tiên xuất hiện vào

năm lấy ông, và bà cũng không thích ăn thịt, hay nói đúng hơn là không

có điều kiện để ăn. Vậy mà tế bào ung thư lại đang phát triển ở bên ngực

trái của bà. Nếu ông quay trở lại bệnh viện lấy kết quả ngay lần đầu đi

khám thì có lẽ bà đã không phải cắt đi ngực trái. Sau khi phẫu thuật,

ngực vẫn còn quấn băng, vợ ông đã ra đồng để trồng khoai tây. Vừa trồng

khoai tây trên mảnh ruộng mà ông đã phải bán cho người ta để lấy tiền

phẫu thuật, bà vừa tuyên bố, “Kiếp này tôi sẽ không bao giờ đi bệnh viện

nữa!” Không chỉ từ chối không đi bệnh viện mà vợ ông còn không để ông

lại gần mình.

Đợt ông sắp lên Seoul để các con tổ chức sinh nhật ình, vợ ông đã rất

khổ sở với căn bệnh đường ruột. Ông lo lắng không biết bà có lên Seoul

cùng mình được không trong lúc đang đau ốm thế này, nhưng bà nhờ ông vào

thị trấn mua ấy quả chuối vì đã nghe được phương thuốc gì đó. Trước khi

ông lên Seoul, vợ ông trộn hai quả hồng sấy khô với nửa quả chuối để ăn

trong ba bữa liền. Ngay cả hồi sinh mấy đứa con, vợ ông cũng chưa bao

giờ nằm nghỉ trong phòng quá một tuần, vậy mà bà đã phải nằm liệt giường

cả mười ngày vì đau bụng. Và vợ ông bắt đầu quên cả những ngày giỗ chạp.

Những khi muối kim chi, bà cũng hay ngừng tay ngồi ngẩn ngơ nhìn vào

không trung. Khi ông hỏi xem có vấn đề gì không, bà sẽ lẩm bẩm vẻ mệt

mỏi, “Để xem nào... tôi không nhớ là đã cho tỏi vào hay chưa.” Có khi vợ

ông còn dùng tay không để nhấc cả nồi canh đậu xanh đang sôi sùng sục

khiến tay bị bỏng. Những lúc như thế, ông chỉ nghĩ, Vợ mình không còn

trẻ nữa. Ông chỉ nghĩ, Đến cả mình giờ cũng bao nhiêu ngày tháng có nhớ

nhung gì đến tiếng trống cổ truyền nữa đâu, trong khi ngày xưa đam mê là

thế. Ở cái tuổi này, tình trạng sức khỏe đâu còn như trước nữa, kiểu gì

chẳng có bệnh này bệnh nọ. Ông cho rằng, đến tuổi này, con người ta phải

chấp nhận làm bạn với bệnh tật, vợ ông cũng đang ở trong giai đoạn đó mà

thôi, có gì nghiêm trọng đâu.

“Cậu ở nhà đấy à?”

Ông choàng mở mắt khi nghe thấy tiếng bà chị gái. Trong một thoáng ông

tưởng như nghe thấy tiếng vợ mình, mặc dù ông biết rất rõ rằng sáng sớm

tinh mơ thế này đã tìm đến nhà ông thì chỉ có bà chị của ông thôi.

“Tôi vào nhé!”

Vừa nói, bà chị gái ông vừa mở cửa bước vào. Chị ông bê một cái mâm có

một bát cơm và mấy bát thức ăn đậy miếng vải trắng. Chị đặt cái mâm vào

một góc phòng rồi nhìn ông. Chị sống chung với ông trong ngôi nhà này

cho đến bốn mươi năm trước, khi chị xây nhà bên cạnh con đường mới, và

kể từ đó, chị luôn thức dậy từ sáng sớm, hút một điếu thuốc, chải đầu và

kẹp tóc, rồi đứng dậy đi sang bên nhà ông. Chị sẽ đi một vòng quanh nhà

ông trong ánh bình minh rồi mới trở về nhà. Vợ ông luôn nhận ra tiếng

bước chân của chị, lặng lẽ dạo quanh ngôi nhà từ sân trước sang sân bên

ra sân sau. Với vợ ông, riêng bước chân của chị gái ông chính là tiếng

đồng hồ báo thức. Vợ ông sẽ trở mình và càu nhàu, “Lại đến rồi đấy,” rồi

lồm cồm ngồi dậy. Chị ông chỉ đi một vòng xung quanh nhà ông rồi trở về

nhà, có lẽ chị ấy kiểm tra để cho yên tâm rằng nó vẫn nguyên vẹn qua một

đêm. Ngày xưa, chị gái ông đã mất hai người anh cùng một lúc, rồi mất cả

bố lẫn mẹ chỉ trong hai ngày, và trong cuộc chiến tranh, suýt nữa chị

mất nốt cả ông. Chồng chị không phải người làng này, sau khi cưới, anh

rể ông đến đây sinh sống chứ chị ông không sang ở bên làng của nhà

chồng, nhưng rồi, anh ấy chết trong một vụ cháy nhà. Nỗi đau mất chồng

đã đâm rễ sâu trong lòng chị gái ông và trở thành một cây đại thụ. Một

cây đại thụ không tài nào đốn được.

“Sao cậu ngủ mà không buồn đắp chăn thế?” Đôi mắt vốn đầy vẻ dữ tợn và

khắc nghiệt từ khi là một góa phụ trẻ không có con của chị giờ đây chùng

xuống. Mái tóc bạc như cước, được chải và kẹp gọn gàng. Dù chị ông nhiều

hơn ông tám tuổi, nhưng dáng dấp chị trông vẫn ngay ngắn hơn ông. Chị

đến ngồi bên cạnh ông, lấy một điếu thuốc ra đưa lên miệng.

“Chẳng phải chị cai thuốc rồi à?”

Chị ông không trả lời mà lôi ra chiếc bật lửa có khắc tên một nhà hàng

nào đó trong thị trấn rồi châm thuốc. “Con chó nhà cậu đang xích ở nhà

tôi. Cậu cứ dắt nó lên đây nếu muốn.”

“Chị cứ để nó ở đấy... Em nghĩ em phải lên lại Seoul.”

“Cậu sẽ làm cái gì trên đó?”

Ông không nói gì.

“Sao cậu về nhà có một mình? Cậu phải tìm vợ rồi đưa mợ ấy về chứ!”

“Em có cảm giác như vợ em đang đợi em ở đây.”

“Nếu mợ ấy mà ở đây thì tôi đã gọi cho cậu ngay rồi chứ?”

Ông im lặng.

“Sao cậu lại thành ra như thế chứ, cậu đúng thật là vô dụng! Chồng gì mà

lại để lạc mất vợ! Sao cậu có thể vác thân côi về nhà trong khi cái mợ

tội nghiệp ấy còn lang thang đâu đó ngoài đường chứ hả?”

Ông nhìn chằm chằm người chị mái tóc bạc trắng. Ông chưa bao giờ nghe

chị gái nói về vợ mình với giọng điệu này. Chị lúc nào cũng chặc lưỡi

lắc đầu ra vẻ thất vọng với vợ ông. Bà chị luôn mắng mỏ vợ ông vì vợ ông

không đậu thai trong suốt hai năm đầu làm dâu nhà này, nhưng khi có

Hyong-chol rồi thì chị ông lại bảo, “Chuyện đó thì có gì ghê gớm, người

ta cũng sinh đẻ cả đấy thôi.” Mặc dù sống cùng gia đình ông suốt những

năm tháng vợ ông phải giã thóc trong cối gỗ để lấy gạo cho từng bữa cơm,

chị ông chưa một lần giã gạo. Tuy thế, chị cũng đỡ đần vợ ông nhiều sau

những lần sinh nở.

“Tôi định là trước khi chết sẽ nói đôi điều với mợ ấy, nhưng mợ ấy không

có đây thì tôi nói với ai bây giờ?”

“Chị định nói về cái gì?”

“Đâu chỉ là một hai chuyện...”

“Chị sẽ nói về chuyện chị đã đối xử tệ với vợ em chứ?”

“Mợ ấy bảo với cậu là tôi đối xử tệ với mợ ấy à?”

Ông chỉ nhìn chị chằm chằm, thậm chí chẳng cười. Thế sao lúc nào chị

cũng bảo chị không như thế? Ở đây, không ai là không biết chuyện chị gái

ông đối xử với vợ ông như mẹ chồng chứ chẳng giống chị chồng. Tất cả mọi

người đều nghĩ như vậy. Chị gái ông rất ghét phải thừa nhận điều đó. Chị

thanh minh rằng phải làm thế vì trong nhà không có người lớn. Chẳng rõ

có thật vậy không.

Chị ông lại lấy một điếu nữa trong bao thuốc đang để trên sàn nhà đưa

lên miệng. Ông châm thuốc cho chị. Có vẻ như việc vợ ông mất tích đã

khiến chị ông hút thuốc trở lại. Ấy thế nhưng, thật ra cũng khó tưởng

tượng ra cảnh chị ông thôi không hút thuốc nữa. Việc đầu tiên chị ông

làm khi thức dậy vào buổi sáng là mò tìm bao thuốc, và suốt cả ngày, chị

luôn hút một điếu trước khi làm bất cứ điều gì, trước khi đi đâu đó,

trước khi ăn cơm, trước khi đi ngủ. Ông nghĩ chị hút quá nhiều nhưng ông

chưa một lần khuyên chị mình bỏ thuốc. Đúng ra là không thể nói được.

Khi ông nhìn thấy chị ngay sau khi anh rể ông chết cháy trong ngọn lửa,

chị ông đang vừa hút thuốc vừa nhìn ngôi nhà đã cháy rụi, Chị cứ ngồi

như thế, hút hết điếu này sang điếu khác, không khóc cũng chẳng cười.

Chị hút thuốc thay ăn, thay ngủ. Ba tháng sau khi ngôi nhà bị cháy, ông

có thể ngửi thấy mùi thuốc lá trên người chị từ xa, thuốc lá ám vào các

ngón tay chị.

“Tôi chẳng sống bao lâu nữa đâu,” chị ông hay làu bàu như thế từ khi

bước sang tuổi năm mươi. “Sống bao nhiêu năm qua, tôi nghĩ số phận của

mình trong cuộc đời này thật là buồn thảm. Tôi có cái gì chứ? Không con

cái, chẳng có gì hết. Khi các anh chúng ta chết, tôi đã muốn chết để cho

các anh ấy được sống. Nhưng sau khi đưa tiễn bố mẹ về thế giới bên kia,

dù khủng hoảng tinh thần ghê gớm nhưng tôi còn có thể thấy cậu và Kyun.

Dường như trên đời này chỉ còn lại có mấy chị em mình. Chồng tôi chết

cháy mà chưa được sống trong yêu thương cùng với tôi... thế nên cậu

không chỉ là em trai, mà còn là con, là chồng tôi nữa.”

Có lẽ đúng là như thế.

Nếu không phải vậy, hồi ông trúng gió bị cấm khẩu phải nằm liệt giường,

sao chị ông lại chẳng quản vất vả sáng nào cũng đi hứng sương mang về

cho ông uống trong một năm ròng, suốt từ mùa xuân sang mùa hạ đến mùa

thu, vì nghe bảo rằng phải uống một bát đầy sương sớm mỗi ngày thì ông

mới nói được. Để lấy được một bát sương sớm trước khi mặt trời mọc, chị

ông đã dậy từ nửa đêm ngồi đợi trời tờ mờ sáng. Từ dạo đó, vợ ông thôi

không kêu ca về chị ông nữa và bắt đầu đối xử tôn trọng với chị, dường

như vợ ông đã coi chị ông là mẹ chồng. Vợ ông, với vẻ mặt đầy kính nể,

vẫn bảo, “Tôi không nghĩ mình có thể làm được cho ông nhiều thế đâu.”

“Tôi đã muốn xin lỗi mợ ấy ba điều trước khi tôi chết,” chị ông nói tiếp.

“Chị đã muốn nói gì?”

“Tôi đã muốn xin lỗi về chuyện Kyun... và chuyện tôi to tiếng với mợ ấy

vì mợ ấy đã chặt cây mơ nhà mình... và chuyện tôi đã không sắc thêm

thuốc khi mợ ấy bị bệnh đường ruột...”

Kyun. Ông mím chặt miệng.

Chị ông đứng dậy chỉ vào cái mâm phủ tấm vải trắng, “Chị để mâm cơm ở

đây, khi nào đói thì cậu ăn đi. Cậu có muốn ăn bây giờ không?”

“Thôi chị cứ để đấy, vừa mới dậy nên em chẳng thiết cơm nước gì đâu.”

Ông cũng đứng dậy theo chị mình. Ông theo chị đi một vòng quanh ngôi

nhà. Ngôi nhà không có bàn tay chăm sóc của vợ ông nên đầy bụi bặm. Chị

ông phủi bụi bám trên các nắp chum khi ngang qua sân sau.

“Cậu có nghĩ Kyun lên thiên đường rồi không?”

“Sao chị lại lôi chuyện cậu ấy ra?”

“Hình như Kyun cũng đi tìm mẹ của Hyong-chol đấy. Tự dưng tôi mơ thấy

nó. Nếu còn sống, bây giờ nó sẽ thế nào nhỉ?”

“Chắc là cũng đã già như chị với em thôi... Chứ còn làm sao nữa!”

Khi vợ chồng ông lấy nhau, vợ ông mười bảy tuổi, ông hai mươi, còn Kyun

đang học lớp sáu. Trong đám bạn cùng trang lứa, Kyun là đứa trẻ thông

minh nổi bật. Kyun hiểu biết rộng, hòa đồng với mọi người, học hành giỏi

giang, mặt mày lại sáng sủa đẹp trai. Ai gặp Kyun lần đầu cũng phải mải

mê nhìn ngắm, tự hỏi không biết nhà nào may mắn thế khi có một cậu con

trai như vậy. Nhưng Kyun không thể học tiếp cấp hai vì hoàn cảnh gia

đình nhà ông lúc đó vô cùng khó khăn, thằng bé cứ suốt ngày bám lấy anh

chị gái xin được tiếp tục đi học. Đến tận bây giờ giọng thằng bé vẫn như

văng vẳng bên tai ông. Anh ơi, cho em đến trường đi. Chị ơi, cho em đến

trường đi...