← Quay lại trang sách

Chương 16 Và Người Phụ Nữ Khác 4.

Tôi vẫn còn nhớ ngôi nhà chúng ta từng sống trước khi xây lại. Tôi thực

sự rất yêu ngôi nhà đó. Nói là yêu nhưng tôi nghĩ đó không chỉ là tình

yêu. Chúng ta đã sống bốn mươi năm trong một ngôi nhà mà giờ đây không

còn nữa. Khi đó lúc nào tôi cũng ở nhà. Luôn luôn. Cho dù ông có nhà hay

không cũng vậy. Tôi chẳng nhận được tin tức gì của ông, dường như ông sẽ

không bao giờ trở lại, nhưng rồi ông lại quay về. Có lẽ đó chính là lý

do. Giờ đây tôi vẫn có thể thấy ngôi nhà cũ đó hiển hiện trước mắt mình

như thể nó đang tỏa sáng. Tôi nhớ tất cả mọi thứ. Tất cả những chuyện đã

xảy ra trong ngôi nhà đó. Những việc xảy ra vào những năm bọn trẻ ra

đời, tôi đã chờ mong ông, quên ông, ghét bỏ ông rồi lại chờ đợi ông trở

về. Bây giờ ngôi nhà đã bị bỏ lại phía sau một mình. Không hề có dấu vết

của con người, chỉ có tuyết trắng bao phủ khắp sân.

Ngôi nhà là một thứ thật kỳ lạ. Tất cả mọi thứ đều hỏng hóc đi khi con

người tác động đến, đôi khi có thể cảm nhận được chất độc của con người

nếu ta tới gần người đó, nhưng nhà cửa lại không như vậy. Cho dù một

ngôi nhà bền đẹp bao nhiêu mà không có người qua lại thì chẳng mấy chốc

cũng sẽ bị phá hủy. Một ngôi nhà chỉ tồn tại khi có người sống trong đó,

quét dọn lau chùi, chăm sóc nó. Hãy xem chính ngôi nhà này. Một bên mái

nhà đã sụp xuống vì tuyết phủ. Sang xuân ông sẽ phải gọi người đến sửa

lại mái nhà thôi. Có tờ quảng cáo ghi đầy đủ tên và số điện thoại của

một đội thợ sửa mái nhà dán trên cái tủ đặt vô tuyến trong phòng khách

đấy, nhưng tôi không rõ liệu ông có biết chuyện đó hay không. Nếu ông

gọi đám thợ, họ sẽ đến sửa sang lại mái nhà. Ông không thể bỏ trống ngôi

nhà trong suốt mùa đông như thế này được. Cho dù không có người sống

trong nhà thì thỉnh thoảng ông cũng phải ghé qua bật lò sưởi lên một

chút chứ.

Ông đi Seoul rồi à? Ông đang tìm tôi trên đó hay sao?

Căn phòng cất những quyển sách Chi-hon gửi khi đi Nhật Bản cũng thật

lạnh lẽo. Những cuốn sách dường như cũng đã đóng băng. Từ sau khi

Chi-hon gửi sách xuống đây, căn phòng này trở thành nơi tôi yêu thích

nhất trong nhà. Khi cảm nhận thấy cơn đau đầu sắp hành hạ mình, tôi sẽ

đi vào trong căn phòng này nằm nghỉ. Dạo đầu, dường như điều đó giúp tôi

thấy khá hơn. Tôi không thích nói cho ông biết chuyện tôi bị đau đầu.

Sáng mai chưa bảnh mắt là cơn đau đã ào đến và tôi thậm chí không thể

nấu bữa sáng cho ông, nhưng tôi không thích trở thành một người bệnh

trước mặt ông. Bao lần như thế khiến tôi cảm thấy cô đơn. Những lúc ấy

tôi thường đi vào căn phòng cất sách của Chi-hon để nằm nghỉ. Có lần, ôm

lấy cái đầu đau như búa bổ của mình, tôi tự hứa rằng tôi sẽ đọc ít nhất

một cuốn truyện do Chi-hon viết trước khi nó từ Nhật Bản trở về. Thế là

tay ôm chặt lấy đầu, tôi đi học đọc. Nhưng kế hoạch đó không thực hiện

được. Khi tôi cố học đọc, tình trạng nhanh chóng trở nên tồi tệ hơn. Cố

học chữ mà lại không thể nói với ông nên tôi thấy cô đơn vô cùng. Nói ra

những điều như vậy khiến tôi cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Khi

học đọc, ngoài đọc sách của con gái bằng chính đôi mắt của mình, tôi còn

muốn làm một việc nữa. Viết thư từ biệt từng thành viên trong gia đình,

trước khi tôi thành ra thế này.

Gió thổi mạnh khủng khiếp. Tuyết ngoài sân cuốn tung theo từng cơn gió.

Những đêm hè, khi chúng ta mang bếp ra ngoài trời để hấp bánh, là thời

gian vui nhất của chúng ta trong cái sân này. Trong khi Hyong-chol còn

đang đi hót phân gà và nhóm lửa để xua muỗi cho cả nhà thì những đứa em

đã nhanh nhảu chạy đến ngồi lên phản đợi bánh đang hấp trong cái nồi đặt

trên bếp than mau chín để ăn. Khi tôi lấy bánh trong cái nồi đầy vèn ra

đặt lên khay mây là lũ trẻ sẽ tay nọ tay kia nhặt từng chiếc bánh cho

đến khi hết sạch. Lũ trẻ ăn hết chỗ bánh đó còn nhanh hơn thời gian tôi

hấp bánh. Trong khi cho thêm củi vào bếp lò để hấp thêm một nồi bánh

nữa, cứ nhìn các con nằm bên nhau chờ đợi trên tấm phản gỗ, tôi lại

thoáng thấy lo sợ. Bọn trẻ ăn khỏe quá! Mặc dù đã nhóm lửa để xua muỗi

nhưng đàn muỗi vẫn bu đầy tay chân tôi để hút máu, và khi đêm về khuya,

ăn hết mấy lượt bánh rồi, bọn trẻ lại nằm đợi tôi hấp thêm. Có những đêm

hè bọn trẻ nằm song song bên nhau như thế, hết đứa này tới đứa kia ngủ

thiếp đi, chờ bánh chín. Trong lúc lũ trẻ ngủ, tôi hấp xong những chiếc

bánh còn lại, để ra rổ, đậy lại rồi đặt lên phản và đi ngủ, khi ấy sương

đêm sẽ làm vỏ những chiếc bánh hấp hơi se cứng. Sáng ra vừa bảnh mắt,

bọn trẻ lại kéo cái rổ về phía mình để ăn tiếp. Đó là lý do tại sao bọn

trẻ vẫn thích những chiếc bánh hấp đã nguội lạnh, vỏ hơi se cứng. Có

những đêm hè như thế đấy. Những đêm hè khi sao trên trời như trút xuống

đầy sân nhà. Khi lang thang khắp các con đường, mặc dù đầu óc mông lung

chẳng nhớ nổi điều gì, tôi vẫn rất nhớ nơi ấy. Ông không biết tôi nhớ

nơi ấy đến mức nào đâu, nào là cái sân, cái thềm nhà, nào là vườn hoa,

cái giếng. Sau một thời gian đi lang thang, tôi ngồi bệt xuống lề đường

và vẽ những gì xuất hiện trong đầu mình. Đó chính là ngôi nhà ấy. Tôi vẽ

cánh cổng, tôi vẽ vườn hoa, tôi vẽ những chum tương và vẽ cái thềm nhà.

Tôi không thể nhớ được gì ngoài ngôi nhà ấy, ngôi nhà có trước ngôi nhà

này, ngôi nhà đã biến mất từ lâu lắm, ngôi nhà có gian bếp kiểu truyền

thống và khoảnh sân sau râm mát dưới bóng tán cây đại hoàng cổ thụ và

gian kho nối liền chuồng lợn. Cái cổng bằng tôn có hai cánh với lớp sơn

xanh đã bong tróc cả. Cái cổng của ngôi nhà ấy, với ô cửa nhỏ ở cánh

trái và thùng thư bên cánh phải. Chỉ có dăm ba lần cả hai cánh cổng phải

mở ra cùng một lúc, nhưng ô cửa nhỏ với tay cầm bằng gỗ thì lúc nào cũng

mở hướng ra đường làng. Chúng ta không bao giờ khóa cổng. Dù chúng ta

không có nhà, trẻ con trong làng vẫn chui qua ô cửa nhỏ trên cánh cổng

màu xanh ấy vào nhà chúng ta để chơi đùa cho đến tận khi trời tối. Trong

những ngày mùa bận rộn, mỗi khi đi học về sớm mà thấy ngôi nhà vắng tanh

vì mọi người còn ở ngoài đồng thì cô con gái thứ lại leo lên cái xe đạp

dựng dưới gốc cây hồng rồi nhấn nhấn pê đan. Khi tôi về, cô con gái thứ

đang ngồi ở đầu hè sẽ lao vào lòng tôi và reo lên, “Mẹ ơi!” Khi đứa con

trai thứ hai bỏ nhà đi, tôi để phần cơm cho nó ở gần lò sưởi và lúc nào

cũng để cổng mở toang cả hai cánh. Nếu ai đó đá phải làm bát cơm chuệch

choạc đi, tôi đặt nó lại chỗ cũ cho ngay ngắn. Ban đêm nếu giật mình

tỉnh giấc vì tiếng gió thổi, tôi sẽ đi ra ngoài lấy mấy hòn đá nặng chèn

cổng vì sợ gió thổi sập hai cánh lại. Mắt và tai tôi đã được luyện cho

quen thuộc với từng âm thanh nhỏ từ cánh cổng.

Tủ quần áo cũng đã đóng băng.

Cửa tủ thậm chí không mở được. Nhưng chắc trong tủ cũng chẳng còn thứ

gì. Khi bệnh đau đầu bắt đầu nặng lên, tôi muốn đến với người đàn ông

ấy, người mà tôi đã không gặp lâu nay. Tôi nghĩ có lẽ sẽ tốt hơn nếu tôi

làm như vậy. Nhưng tôi đã không đi. Dằn lòng lại, tôi ở nhà để dọn dẹp

đồ đạc. Tôi có thể cảm thấy ngày đó đang đến, cái ngày mà tôi lẫn đến độ

không thể nhận ra điều gì nữa. Tôi muốn lo liệu mọi thứ thuộc về mình

trong khi đầu óc còn sáng tỏ. Tôi gom những bộ quần áo vẫn treo trong tủ

mà không thể vứt đi đâu được bọc vào một tấm vải mang ra đốt ở ngoài

đồng. Những bộ quần áo mặc trong còn nguyên mác mà Hyong-chol mua cho

tôi khi nhận được tháng lương đầu tiên vẫn ở nguyên trong tủ mấy chục

năm nay. Ngay cả trong lúc đốt những thứ đó, đầu tôi cũng đau như muốn

nổ tung. Những cái có thể đốt được là tôi đốt hết. Chỉ để lại chăn gối

cho con cháu dùng khi chúng về nhà nhân dịp lễ tết. Tôi đốt cả cái chăn

bông mẹ tôi dệt cho khi tôi đi lấy chồng. Tôi lôi hết những thứ đã theo

tôi bao lâu nay ra ngắm lại một lần nữa.

Cả những thứ chưa hề dùng đến vì tôi cứ để dành, những chiếc đĩa tôi gom

góp để tặng con gái lớn khi nó lập gia đình. Thế mà giờ Chi-hon vẫn chưa

kết hôn. Nếu biết trước rằng ngay cả khi em gái nó đã lấy chồng và có ba

đứa con mà nó vẫn chưa lập gia đình thì tôi đã cho em gái nó mấy cái đĩa

ấy rồi. Tôi thật ngốc khi cứ nghĩ phải tặng mấy cái đĩa ấy cho Chi-hon

vì đó là món quà tôi dành cho nó. Tôi lưỡng lự hồi lâu, rồi cầm mấy cái

đĩa đó ra ngoài đập vỡ hết. Tôi biết. Rằng một ngày nào đó tôi sẽ không

thể nhớ được bất cứ điều gì nữa. Và trước khi ngày ấy đến, tôi muốn lo

liệu mọi thứ tôi từng dùng. Tôi không muốn bỏ chúng lại phía sau. Mọi

đáy chạn cũng đều trống rỗng. Tôi đập vỡ mọi thứ đồ dễ vỡ rồi chôn hết

xuống đất.

Ngay cả trong cái tủ đã đông cứng kia, thứ đồ mùa đông duy nhất còn lại

cũng chỉ là chiếc áo lông chồn màu đen cô con gái thứ mua cho tôi. Khi

bước sang tuổi năm lăm, tôi chẳng thiết ăn uống mà cũng không muốn đi

đâu ra ngoài. Ngày tháng trôi qua, tôi chìm sâu trong mệt mỏi khó chịu,

cảm giác giống như bị con gì đốt khắp mặt mày. Khi há miệng, tôi thấy

như có mùi khó chịu từ trong cơ thể bay ra. Tôi chẳng nói chẳng rằng

suốt mười ngày trời. Tôi cố gắng tống những suy nghĩ bi quan ra khỏi

đầu, nhưng mỗi ngày lại thêm một nỗi buồn len vào trái tim tôi. Mặc dù

đang giữa mùa đông, tôi cứ liên tục ngâm tay vào nước lạnh cóng để rửa

đi rửa lại. Rồi một hôm tôi tới nhà thờ. Tôi dừng lại trong sân nhà thờ.

Tôi quỳ xuống dưới chân tượng Đức Mẹ đang ôm thi thể người con trai. Tôi

định cầu xin Đức Mẹ giúp tôi rũ bỏ sự chán nản này, tôi không thể chịu

đựng nó lâu hơn được nữa, cầu xin Đức Mẹ rủ lòng thương xót tôi.

Nhưng tôi dừng lại, tự hỏi liệu mình còn có thể xin thêm được gì từ một

người mẹ đang ôm đứa con trai đã chết. Trong lúc xem làm thánh lễ Misa,

tôi nhìn thấy người phụ nữ ngồi trước tôi khoác trên người một chiếc áo

lông chồn đen. Bị mê hoặc bởi sự mềm mại của nó, tôi từ từ ghé mặt vào

nó lúc nào không hay. Chiếc áo lông chồn như cơn gió mùa xuân dịu dàng

ôm lấy khuôn mặt già nua của tôi. Những giọt nước mắt tôi đang kìm nén

bỗng trào ra. Người phụ nữ nọ nhẹ nhàng tránh sang bên cạnh khi tôi cứ

cố gắng tựa đầu vào chiếc áo. Lúc về nhà tôi đã gọi điện cho đứa con gái

thứ để bảo nó mua ột chiếc áo lông chồn. Đó là lần đầu tiên tôi mở miệng

trong suốt mười ngày.

“Áo lông chồn hả mẹ?”

“Ừ, áo lông chồn.”

Cô con gái thứ chỉ im lặng.

“Con sẽ mua ẹ chứ? Hay là không?”

“Trời đang ấm áp mà mẹ. Mẹ đi đâu mà phải mặc áo lông chồn à?”

“Ừ.”

“Mẹ định đi đâu à?”

“Không.”

Cô con gái cười vang trước những câu trả lời nhát gừng của tôi. “Thế mẹ

lên Seoul đi. Con sẽ cùng mẹ đi mua.”

Khi chúng tôi bước vào trong bách hóa và đứng trước quầy áo lông chồn,

cô con gái cứ nhìn tôi chằm chằm mà không nói gì. Tôi không hề biết cái

áo lông chồn của mình, ngắn hơn một chút so với cái áo tôi đã vùi mặt

vào của người phụ nữ trong nhà thờ hôm nọ mặc, lại có giá đắt đến như

vậy. Cô con gái đã không nói cho tôi biết. Khi hai mẹ con mang cái áo

lông chồn về nhà, cô con dâu cũng tròn mắt ngạc nhiên. “Áo lông chồn cơ

hả mẹ!”

Tôi không nói gì.

“Mẹ thật may mắn. Được con gái mua cho cái áo đắt như vậy. Con còn không

thể mua nổi ẹ con một chiếc khăn lông cáo. Người ta nói rằng lông chồn

được truyền cho thế hệ sau đấy. Khi nào mẹ không dùng nữa thì để lại cho

con nhé.”

“Đây là lần đầu tiên mẹ bảo em mua thứ gì đó ẹ đấy! Chị đừng có nói như

thế!”

Khi cô con gái thứ phản ứng mạnh với bà chị dâu như thể nó đang rất tức

giận, tôi mới nhận ra. Lý do cô con gái cứ xem đi xem lại cái hóa đơn,

Và lý do nó cứ nhìn tôi chằm chằm. Hồi đó nó vừa tốt nghiệp đại học và

xin vào làm việc tại khoa dược của một bệnh viện. Lúc trở về từ Seoul,

tôi cầm chiếc áo lông chồn ra bách hóa trong thị trấn để hỏi cô nhân

viên bán hàng trong quầy quần áo lông chồn xem giá của nó khoảng bao

nhiêu, và cứng đờ người. Ai mà biết được một mảnh áo mà lại đắt như vậy

chứ! Tôi gọi cho cô con gái và bảo, “Hay chúng ta quay lại đó trả lại

chiếc áo đi,” nhưng nó nói, “Chiếc áo đó rất mềm mại. Mẹ, mẹ hoàn toàn

xứng đáng được mặc chiếc áo đó. Mẹ hãy mặc nó.”

Ở khu vực này ngay cả trong mùa đông thời tiết cũng rất ấm áp, thế nên

rất hiếm ngày tôi có thể mặc áo lông chồn. Có khi ba năm liền tôi chẳng

mặc lấy một lần. Mỗi khi thấy phiền muộn tôi lại mở tủ quần áo ra và vùi

mặt vào chiếc áo lông chồn đó. Khi ấy tôi nghĩ lúc chết đi tôi sẽ để lại

chiếc áo này cho cô con gái thứ.

Mặc dù lúc này trời đang lạnh cóng, sang xuân vườn hoa sát tường rào sẽ

rộn ràng trở lại. Cây lê của nhà hàng xóm sẽ nở đầy hoa, hương thơm dìu

dịu lan xa. Cây hồng leo với bao nhiêu bông hoa màu hồng phớt sẽ uốn

cong những nhánh thân đầy gai reo vui trong gió. Đám cỏ dại dưới chân

tường rào sẽ mọc tốt um sau trận mưa xuân đầu tiên. Có lần, tôi mua một

đàn ba chục con vịt con ở dưới chân cầu trong thị trấn về thả trong sân

nhà, thế là đàn vịt con kéo nhau về phía vườn hoa và giẫm cả lên hoa.

Khi lũ vịt con hòa thành đàn chạy nhảy cùng lũ gà chiếp thì thật khó mà

nói đâu là vịt con đâu là gà chiếp. Dù sao đi nữa, trong những ngày xuân

khoảnh sân lúc nào cũng ồn ào bởi tiếng kêu của chúng. Cũng tại khoảnh

sân này, một hôm cô con gái lớn bảo nếu bón phân vào gốc cây thì cây sẽ

nở nhiều hoa hơn rồi mang cuốc ra xới đất dưới bụi hồng, đang cuốc thì

nhìn thấy một con giun bò ngoằn ngoèo trong lòng đất, thế là nó sợ quá

vứt vội cái cuốc sang bên rồi chạy ào vào trong nhà, cái cuốc rơi trúng

làm chết một chú gà con. Tôi vẫn nhớ mùi đất hăng nồng xông lên mũi khi

một cơn mưa mùa hè đột nhiên trút xuống khiến lũ chó và đàn gà vịt đang

chơi ngoài sân phải nháo nhác chạy tới núp phía dưới thềm nhà, trong

chuồng gà hoặc dưới chân tường rào. Tôi nhớ cả những hạt đất vo tròn

trong cơn mưa bất chợt. Còn vào những đêm cuối mùa thu lộng gió, lá của

cây hồng ở sân bên sẽ trút xuống và tung bay khắp nơi. Ban đêm có thể

nghe rõ tiếng lá rụng lăn hối hả qua sân. Trong những đêm đông đầy

tuyết, gió sẽ lùa tuyết vào tận thềm nhà.

Có ai đó đang mở cửa. A, bà bác!

Bác là bác của các con tôi và là chị dâu tôi, nhưng tôi đã không thể gọi

bác là chị dù chỉ một lần. Bởi vì bác giống như mẹ chồng tôi thì đúng

hơn. Tôi biết bác sang để xem nhà cửa thế nào vì tuyết rơi và gió lạnh.

Tôi cứ tưởng không có ai chăm sóc cho ngôi nhà này, quên bẵng mất là còn

có bác ở đây. Nhưng sao bác lại đi tập tễnh thế kia? Bác vốn luôn khỏe

mạnh cơ mà. Có lẽ bác đang ngày một già đi. Đường có tuyết trơn đấy. Hãy

cẩn thận.

“Có ai ở nhà không?”

Giọng của bác vẫn vậy, rất có uy.

“Không có ai trong nhà à?”

Biết là không có ai ở nhà nhưng bác vẫn thử gọi. Không đợi câu trả lời,

bác bước đến ngồi xuống đầu hè. Sao bác lại ăn mặc phong phanh như vậy?

Cẩn thận kẻo bị cảm lạnh bây giờ. Bác nhìn chằm chằm vào đống tuyết

ngoài sân cứ như người mất hồn vậy. Bác đang nghĩ gì mà trầm tư thế?

“Cảm giác như có ai vừa đến đây...”

Một kẻ sắp thành ma đấy, bác ạ.

“Trời lạnh thế này mà đi lang thang ở đâu không biết.”

Bác đang nói đến tôi đấy à?

“Mùa hạ đi qua, mùa thu đi qua, mùa đông đã đến... Tôi không ngờ cô là

người vô tình đến vậy đấy. Cái nhà này sẽ thành cái gì nếu không có cô

đây? Chỉ là một cái xác không hồn. Khi ra đi cô còn mặc áo mùa hè, thế

mà đông sang rồi cô cũng chẳng về. Liệu có phải cô đã là người của thế

giới khác rồi không?”

Chưa đâu. Tôi vẫn đang phiêu bạt như thế này đây.

“Người đáng thương nhất trên thế gian này là người không được chết trong

ngôi nhà của chính mình... Hãy tỉnh táo mà quay trở về nhà đi.”

Bác đang khóc đấy sao?

Ngước lên nhìn bầu trời xám xịt, đôi mắt bác đã ngấn lệ. Giờ trông bác

thế này mới thấy đôi mắt của bác không đáng sợ chút nào. Tôi luôn sợ vẻ

nghiêm khắc trong ánh mắt ấy nên phải nói thật là tôi chẳng dám nhìn

thẳng vào mặt bác để không phải chạm mắt bác. Tôi nghĩ tôi thích thấy

bác khi bác cương nghị hơn. Nhìn bác ngồi mà hai vai rũ xuống thế này

thật chẳng giống bác chút nào. Khi còn sống tôi chưa một lần được nghe

một lời tốt đẹp từ bác, vậy sao giờ tôi lại phải chứng kiến bộ dạng rũ

rượi héo hon của bác chứ? Tôi không thích nhìn dáng vẻ yếu đuối thế này

của bác đâu. Tôi không chỉ đơn thuần thấy sợ bác. Nếu những việc khó

khăn xảy ra mà tôi không biết phải giải quyết thế nào, tôi lại nghĩ, bác

ấy sẽ xử lý thế nào nhỉ? rồi lựa chọn làm theo cách tôi nghĩ bác sẽ làm.

Thế nên bác cũng chính là hình mẫu của tôi đấy. Bác biết rằng tôi có

tính nóng nảy. Mọi mối quan hệ trên thế gian này đều là hai chiều chứ

không phải do một phía quyết định. Giờ bác sẽ phải chăm sóc bố của

Hyong-chol vì ông ấy chỉ còn lại một mình. Mặc dù trong lòng tôi không

thoải mái lắm, nhưng có bác ở bên cạnh bố của Hyong-chol thì tôi cũng an

tâm phần nào. Khi tôi còn sống, tôi biết rõ rằng bác hoàn toàn phụ thuộc

vào bố của Hyong-chol, bởi vì bác chỉ có một thân một mình, thế nên tôi

ít khi thấy tổn thương, bực bội hay thất vọng. Tôi chỉ coi bác như một

người lớn gặp hoàn cảnh không may trong gia đình thôi. Thế nên bác giống

như mẹ chúng tôi chứ không phải chị gái. Nhưng bác ạ! Tôi không muốn vào

phần mộ xây cho tôi mấy năm trước trong khu nghĩa trang tổ tiên đâu. Tôi

không muốn vào đó. Hồi còn sống ở đây, mỗi khi đầu óc thoát được tình

trạng u minh, tôi lại một mình đi lên sinh phần của mình. Làm thế để nếu

có ở trong đó sau khi chết thì tôi cũng sẽ cảm thấy thoải mái. Tôi thích

những tia nắng rực rỡ và những cây thông cao chót vót dù thân hơi cong,

nhưng quả thật là quá cay cực và nặng nề nếu tôi vẫn là một thành viên

của gia đình này ngay cả khi đã chết đi rồi. Để cố gắng thay đổi suy

nghĩ ấy của mình, tôi sẽ lẩm nhẩm hát hò, nhổ cỏ rồi ngồi ở đó cho đến

tận khi mặt trời lặn, nhưng không có gì ở đấy khiến tâm trạng tôi vui

lên được. Tôi đã sống trong ngôi nhà này hơn năm mươi năm rồi, giờ xin

hãy để tôi đi. Dạo chúng ta xây mộ, khi bác bảo phần mộ của tôi nên ở

ngay dưới phần mộ của bác, tôi đã liếc xéo bác mà nói, “Ô! Vậy thì dù đã

chết tôi vẫn có thể làm việc vặt cho bác nhỉ.” Đến nay tôi vẫn nhớ câu

nói đó. Bác đừng có phiền lòng về mấy lời ấy nhé. Tôi đã suy nghĩ chuyện

này rất lâu nhưng tôi nói thế không có ý xấu gì đâu. Giờ tôi chỉ muốn

trở về nhà và nghỉ ngơi ở đó.

Ô, cửa gian nhà kho vẫn mở.

Gió đập sầm sầm vào cửa nhà kho như thể sẽ xé tan cánh cửa thành từng

mảnh. Có một lớp băng mỏng trên tấm phản gỗ mà trước đây tôi vẫn thích

ngồi. Nếu không để ý mà ngồi lên đó thế nào cũng trượt ngã ngay. Hồi xưa

Chi-hon hay ngồi trong gian nhà kho này để đọc sách và bị bọ chét cắn.

Tôi biết Chi-hon thường mang theo một cuốn sách rón rén trốn vào đây,

giữa chuồng lợn và buồng đựng tro. Tôi đã không đi tìm nó. Nếu

Hyong-chol có hỏi tôi Chi- hon ở đâu thì tôi cũng bảo không biết. Vì tôi

thích thấy con bé đọc sách. Và tôi không muốn quấy rầy nó.

Có một đống rơm chất trên tấm ván che chuồng lợn. Đám gà mái sẽ chiếm

lấy một góc đống rơm ấy để ấp trứng. Không ai có thể tìm thấy Chi-hon

cuộn mình giữa đống rơm, vừa bôi nước bọt làm dịu những chỗ bị bọ chét

cắn vừa đọc sách, Chi-hon chắc phải lấy làm thú vị bao nhiêu khi nấp

trên đó đọc sách mà nghe anh trai nó mở tung hết các cửa phòng và chạy

cả vào nhà bếp để tìm nó. Đám gà mái cũng thật đặc biệt. Những con gà

mái đang ấp trứng trên đống rơm sẽ nhặng xị cả lên khi nghe tiếng giở

sách sột soạt của con bé. Lũ gà mái mẹ vốn không chịu ấp trứng nếu ta

không làm cho chúng những cái tổ ấm áp với đầy trứng làm mồi nhử, chúng

rất nhạy cảm với tiếng ồn của Chi-hon, có lần chúng quác quác ầm ĩ tới

mức anh trai con bé đã phát hiện ra nó.

Không biết Chi-hon đã đọc gì khi lặng lẽ trốn trong gian nhà kho với con

lợn ủn ỉn liên hồi bên cạnh, đàn gà cục tác không ngừng phía trên, đủ

thứ nông cụ như cuốc xẻng bừa cào và cả rơm rạ bao bọc xung quanh? Khi

mùa xuân đến, con chó gầm gừ luôn mồm, nằm bên cạnh đàn con mới đẻ của

nó ở phía dưới thềm nhà, giày mùa đông của cả nhà bị tha về khắp xung

quanh chúng. Ta còn nghe thấy tiếng mưa nhỏ xuống từ mái hiên. Con chó

vốn hiền lành là thế mà sao khi đẻ con lại trở nên hung dữ như vậy? Nếu

không phải là người nhà thì chẳng ai đến gần nó được. Vì vậy khi con chó

đẻ, Hyong-chol sẽ tô đậm lại dòng chữ “Chú ý nhà có chó” trên tấm biển

lúc nào cũng treo trên cánh cổng màu xanh. Một lần nhân lúc chó mẹ ăn

cơm tối xong rồi nằm ngủ, tôi bắt một con chó con dưới thềm nhà cho vào

thúng, phủ một miếng vải bên trên, lấy tay che mắt con chó, rồi mang

sang nhà bà bác.