Chương 15 Lưỡng Phân
Anh thức dậy không phải vì no giấc hay tỉnh táo hoàn toàn, mà bởi vì thức dậy xem ra sẽ tốt hơn là chìm lại vào một giấc mơ chẳng đọng lại trong anh bất kỳ chi tiết nào ngoại trừ một cảm giác tù túng rõ rệt. Cảm giác đó giống như dư vị của những trận nhậu nhẹt bí tỉ mà anh từng tham gia thời còn ở trường đại học.
Anh ép mình đi vào nhà tắm, ở đây tâm trạng anh được cải thiện một chút, sau đó anh mặc quần áo vào rồi đi ra bếp. Anh nhẹ nhõm khi thấy Madeleine đã pha đủ cà phê cho hai người. Cô đang ngồi ở bàn điểm tâm, mắt suy tư nhìn ra bên ngoài qua cánh cửa kiểu Pháp và cầm chiếc tách lớn hình cầu bốc hơi nóng nghi ngút bằng cả hai tay như để sưởi ấm. Anh rót một tách cà phê cho mình rồi ngồi đối diện cô.
“Chào,” anh nói.
Cô mỉm cười đáp lại bằng một nụ cười mơ hồ ngắn ngủi.
Anh dõi theo ánh mắt của cô đang lướt qua khu vườn bên ngoài đến sườn đồi rậm rạp nằm chỗ mép bãi cỏ đằng xa. Một cơn gió giận dữ đang giật đi những chiếc lá ít ỏi còn sót lại trên cây. Gió mạnh thường làm Madeleine căng thẳng – kể từ hôm một cây sồi khổng lồ đổ ầm xuống chắn ngang con đường trước xe cộ vào cái ngày họ dọn tới sống ở Walnut Crossing – nhưng sáng nay dường như cô đang bận tâm chuyện gì nên không để ý.
Sau một hai phút, cô quay sang anh, nét mặt sắc lại như thể quần áo hay thái độ của anh có điều gì đó vừa đập vào mắt cô.
“Anh định đi đâu?” cô hỏi.
Anh ngập ngừng. “Đến Peony. Đến viện.”
“Tại sao lại đến đó?”
“Tại sao ư?” Giọng anh gắt lên vì cáu kỉnh, “Vì Mellery vẫn không chịu trình báo vấn đề của mình với cảnh sát địa phương, còn anh thì muốn thúc hắn ta một chút nữa theo hướng đó.”
“Anh nói qua điện thoại cũng được mà.”
“Không hay bằng mặt đối mặt. Vả lại anh muốn lấy bản chép tay của tất cả những lá thư và bản ghi âm cuộc gọi tối qua.”
“Chẳng phải đấy là chuyện của Pedex sao?”
Anh nhìn cô trân trân. “Anh đi đến viện thì có vấn đề gì chứ?”
“Vấn đề không phải là anh đi đâu, mà là tại sao anh lại đi?”
“Để thuyết phục hắn đi gặp cảnh sát này? Để lấy mấy lá thư đó này?”
“Có thật anh nghĩ đó là lý do anh chạy tận đến Peony không?”
“Còn lý do khỉ gió nào khác nữa?”
Cô ném cho anh một cái nhìn lâu, gần như thương hại, rồi trả lời. “Anh đi,” cô nói nhỏ, “là vì anh đã bám víu vào chuyện này và không buông ra được. Anh đi bởi vì anh không thể ở ngoài cuộc.” Rồi cô chầm chậm nhắm mắt lại. Tựa như cảnh mờ dần cuối phim.
Anh không biết nói gì. Madeleine rất hay kết thúc tranh luận bằng cách này – nói hoặc làm điều gì đó như nhảy cóc qua dòng suy nghĩ của anh khiến anh phải câm lặng.
Lần này anh nghĩ anh biết lý do tại sao lại có sự tác động như vậy đối với mình, hoặc ít ra cũng là phần nào lý do. Trong giọng cô, anh nghe vọng về những lời cô đã nói với nhà trị liệu, những lời anh đã nhớ lại rất sống động vài giờ trước đó. Anh cảm thấy sự trùng hợp này làm anh rối trí. Như thể Madeleine hiện tại và Madeleine quá khứ đang cấu kết với nhau chống lại anh, người này thì thầm vào tai người kia.
Anh im lặng một lúc lâu.
Cuối cùng cô mang mấy tách cà phê bỏ vào chậu rửa rồi rửa sạch. Sau đó, thay vì đặt lên chạn cho ráo nước như thường lệ, cô lau khô tách rồi cất vào ngăn bên trên tủ búp phê Mắt vẫn nhìn vào tủ, như thế đã quên béng tại sao mình lại đứng đó, cô hỏi, “Mấy giờ anh đi?”
Anh nhún vai, nhìn quanh phòng như thể manh mối cho câu trả lời đúng có lẽ nằm trên một trong những bức tường. Ánh mắt anh chợt bị thu hút bởi một vật nằm trên bàn trà đặt trước lò sưởi ở cuối phòng. Đó là một hộp bìa cứng, có kích thước và hình dáng giống loại mua ở tiệm rượu. Nhưng điều bắt mắt và làm anh chú ý là dải băng trắng quấn quanh hộp và được cột trên nắp bằng một chiếc nơ trắng đơn giản.
Chúa ạ. Đó là thứ mà cô ấy mang lên từ tầng hầm.
Mặc dù chiếc hộp trông nhỏ hơn so với chiếc hộp anh nhớ cách đây nhiều năm trước và bìa cứng bên ngoài có màu nâu sẫm hơn, nhưng dải băng thì không thể nhầm lẫn được, không thể quên được. Người Hindu nhất định đã nghĩ đúng: trắng, không phải đen, là màu tự nhiên của tang tóc.
Anh cảm thấy một sự trống rỗng đang ghì kéo trong phổi, như thể trọng lực đang kéo lê hơi thở của anh, linh hồn của anh, vào trong lòng đất. Danny. Những bức vẽ của Danny. Đứa con trai Danny bé bỏng của tôi. Anh nuốt nước bọt và quay mặt đi, quay mặt để né tránh một mất mát quá lớn. Anh cảm thấy yếu ớt không thể cử động được. Anh nhìn ra ngoài qua cánh của kiểu Pháp, ho hắng, cố thay những ký ức mới bị khuấy động bằng những cảm giác ngay đây, cố chuyển hướng tâm trí bằng cách nói một điều gì đó, nghe giọng của chính mình, phá tan sự im lặng đáng sợ.
“Chắc anh không về trễ đâu,” anh nói. Phải dùng cả sức lực của mình, cả ý chí của mình anh mới có thể nâng người ra khỏi ghế. “Anh sẽ về nhà kịp bữa tối,” anh nói bồi vào một cách vô nghĩa, nói mà hầu như không biết đang nói gì.
Madeleine nhìn theo anh không nói gì, chỉ nở một nụ cười yếu ớt, không hẳn là một nụ cười theo cái nghĩa thông thường.
“Phải đi thôi,” anh nói. “Phải đến đúng giờ để lo chuyện này.”
Mắt nhắm trong tư thế loạng choạng muốn ngã, anh hôn lên má cô rồi đi ra ngoài xe, quên mất chiếc áo khoác.
Cảnh vật sáng hôm ấy rất khác, tựa cảnh mùa đông, khi hầu hết những sắc thu từ cây cối đã biến mất. Nhưng anh chỉ mù mờ cảm nhận dược. Anh đang lái xe một cách vô thức, gần như thẫn thờ, vì tâm trí đã bị choán chỗ bởi hình ảnh chiếc hộp, bởi những thứ bên trong nó mà anh vừa hồi tưởng lại với ý nghĩa của việc nó xuất hiện trên bàn.
Tại sao? Tại sao lại là bây giờ, sau chừng ấy năm? Vì mục đích gì kia? Cô ấy đang nghĩ gì thế? Anh đã đi qua Dillweed, qua cửa hiệu Abelard mà không hề hay biết. Anh cảm thấy nôn nao. Anh cần phải tập trung vào một cái gì đó, cần phải kiểm soát cảm xúc của mình.
Tập trung vào nơi mày đang đến, lý do mày đến đó nào. Anh cố ép tâm trí đi theo hướng gọi của những thông điệp ấy, của những bài thơ ấy, của con số mười chín ấy. Mellery nghĩ đến con số mười chín. Rồi tìm thấy số đó trong thư. Làm sao có thể làm được chuyện như vậy? Đây là lần thứ hai Arybdis hay Charybdis – hay bất luận tên nào khác của hắn – đã thực hiện được kỳ công bất khả thi này. Có những khác biệt nhất định giữa hai lần, nhưng lần thứ hai cũng rối rắm như lần thứ nhất.
Hình ảnh chiếc hộp trên bàn trà đè liên hồi lên ngưỡng tập trung của anh – rồi đến lượt những thứ chứa trong cái hộp ấy, khi anh nhớ lại cảnh chúng bị cất đi cách đây đã rất lâu. Những bức vẽ nguệch ngoạc bằng bút sáp của Danny. Ôi, Chúa ơi. Tờ giấy vẽ những thứ cam cam nho nhỏ mà Madeleine khăng khăng là những bông cúc vạn thọ. Và cái bức tranh nho nhỏ ngộ nghĩnh ấy xem chừng vẽ một quá bóng xanh lá, hoặc có lẽ là cái cây, hoặc là cây kẹo que. Ôi, Chúa ơi.
Anh tấp vào khu vực đậu xe rải sỏi tươm tất của viện được một lúc rồi sực tỉnh, lối ô tô chạy hầu như không lọt vào được ý thức của anh. Anh nhìn quang cảnh xung quanh, cố gắng tập trung, cố gắng vật lộn với tâm trí, đưa nó về cùng vị trí với thân thể.
Dần dà anh thả lỏng, cảm thấy như uể oải, thứ cảm giác trống trải thường tiếp nối cảm xúc cao độ. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Không hiểu sao anh đã đến đúng giờ. Rõ ràng cái phần ấy trong anh vẫn hoạt động mà không cần sự can thiệp có ý thức, như hệ thần kinh thực vật của anh vậy. Tự hỏi có phải không khí lạnh buốt đã dồn những diễn viên bất đắc dĩ ấy vào trong hay không, anh khóa xe rồi men theo con đường ngoằn ngoèo dẫn đến căn nhà. Cũng như lần ghé thăm trước, anh chưa kịp gõ thì Mellery đã mở cửa.
Gurney bước vào nhà tránh gió. “Có tiến triển gì mới không?”
Mellery lắc đầu rồi đóng cánh cửa cổ xưa nặng trịch lại, kịp lúc vài chiếc lá úa lướt nhẹ chỗ ngưỡng cửa.
“Trở lại phòng khách nào,” y nói. “Có cà phê, nước ép…”
“Cà phê được rồi,” Gurney nói.
Một lần nữa, họ lại chọn chiếc ghế bành lưng cao gần đống lửa. Trên chiếc bàn thấp chũn giữa hai người là một phong bì hồ sơ lớn. Mellery ra hiệu cho anh hướng vẻ phía nó, “Bản phô tô những bức thông điệp viết tay và đoạn băng ghi âm cuộc gọi. Tất cả đã sẵn sàng cho anh trong đó.”
Gurney lấy chiếc phong bì rồi đặt nó lên đùi.
Mellery nhìn anh một cách trông đợi.
“Anh nên báo cảnh sát đi,” Gurney nói.
“Chúng ta đã bàn qua chuyện đó rồi mà.”
“Chúng ta cần bàn lại lần nữa.”
Mellery nhắm mắt rồi xoa bóp trán như thể trán đang nhức. Khi mở mắt ra, trông y như đã có quyết định.
“Đến dự buổi thuyết giảng sáng nay của tôi đi. Chỉ có cách ấy anh mới hiểu được.” Y nói nhanh, như để đón đầu không cho anh phản đối. “Những gì diễn ra ở đây đều rất mỏng manh, dễ vỡ. Chúng tôi giảng dạy cho khách về lương tâm, an lạc, sáng suốt. Có được lòng tin của họ là chuyện cực kỳ hệ trọng. Chúng tôi đang đặt họ vào một môi trường có thể làm thay đổi cuộc đời họ. Nhưng giống như vẽ chữ trên trời bằng máy bay vậy. Bầu trời tĩnh lặng thì anh đọc được những gì mình vẽ. Có gió một chút là tất cả trở thành rác rưởi. Anh có hiểu tôi nói gì không?”
“Tôi không chắc có hiểu không nữa.”
“Cứ đến buổi thuyết giảng đi nào,” Mellery nài nỉ.
Đúng mười giờ sáng, Gurney theo y vào một khán phòng lớn ở tầng trệt tòa nhà chính. Căn phòng trông như phòng khách của một nhà trọ miền quê đắt tiền. Mười hai chiếc ghế bành và sáu chiếc sô pha được đặt hướng về một chiếc lò sưởi lớn. Hầu hết hai mươi khách tham dự đã an tọa. Một số còn lảng vảng chỗ tủ búp phê có một lư cà phê màu bạc và một khay bánh sừng bò trên nóc.
Mellery đi thong thả đến một chỗ trước lò sưởi và hướng mặt về phía khán giả. Những người còn ở chỗ tủ búp phê hấp tấp ngồi vào ghế, và mọi người đều im bặt trông đợi. Mellery ra hiệu cho Gurney ngồi vào một chiếc ghế bành gần lò sưởi.
“Đây là David,” Mellery thông báo kèm một nụ cười về phía Gurney. “Anh ấy muốn tìm hiểu thêm về cung cách hoạt động của chúng ta, nên tôi đã mời anh ấy tham dự buổi gặp gỡ của chúng ta sáng hôm nay.”
Nhiều giọng nói khác nhau chào hỏi anh niềm nở, và tất cả các khuôn mặt đều nở nụ cười, đa số đều trông rất thật lòng. Anh bắt gặp ánh mắt của người phụ nữ lanh lợi đã bắt chuyện một cách tục tằn với anh ngày hôm kia. Cô ta trông bẽn lẽn, thậm chí mặt còn hơi ửng đỏ.
“Những vai trò chi phối cuộc sống của chúng ta,” Mellery mở màn mà không mào đầu, “là những vai trò ta không nhận thức được. Những nhu cầu thúc đẩy chúng ta nhiều nhất là những nhu cầu ít khi nào chúng ta ý thức được. Để hạnh phúc và tự tại, chúng ta phải thấy rõ bản chất của những vai chúng ta đóng, và mang những nhu cầu tiềm tàng của chúng ta ra ánh sáng ban ngày.”
Y đang nói bình thản và thẳng thắn, thu hút được sự chú ý của toàn bộ khán giả.
“Chướng ngại đầu tiên trong cuộc tìm kiếm của chúng ta chính là giả định rằng chúng ta hiểu bản thân mình rồi, rằng chúng ta hiểu động cơ của mình, rằng chúng ta biết tại sao mình lại có cảm giác như thế đối với các tình huống và con người xung quanh. Để tiến bộ, chúng ta cần phải cởi mở hơn. Để tìm ra chân lý về bản thân, tôi không được tiếp tục khăng khăng cho rằng mình đã biết được chân lý ấy. Tôi sẽ không tài nào gỡ bỏ được tảng đá lớn cản đường nếu không thấy được bản chất thật của nó.”
Gurney vừa nghĩ lời nhận xét cuối này đang mở rộng ra lớp sương mù của Thời Đại Mới thì giọng của Mellery đột ngột cất lên cao.
“Quý vị có biết tảng đá lớn đó là gì không? Tảng đá ấy là hình ảnh của chính bản thân quý vị, là con người của quý vị theo cách hình dung của mình. Con người mà quý vị tưởng là bản thân mình ấy đang giam cầm con người thật của quý vị không cho tiếp xúc với ánh sáng, thức ăn, hay bè bạn. Con người mà quý vị tưởng là bản thân mình ấy đã nhiều lần muốn sát hại con người thật của quý vị trong thời gian hai con người ấy cùng tồn tại.”
Mellery ngừng nói, vẻ như bị một cảm xúc tuyệt vọng nào đó chế ngự. Y nhìn trân trân khán giả, họ như đang nín thở. Khi y nói tiếp, giọng y hạ xuống âm lượng đàm thoại thông thường nhưng vẫn đầy xúc cảm.
“Con người mà tôi tưởng là tôi ấy khiếp sợ con người thật của tôi, khiếp sợ những gì người khác nghĩ về con người ấy. Họ sẽ làm gì tôi nếu biết con người thật của tôi? Tốt hơn hết là chọn phương án an toàn! Tốt hơn hết là giấu đi con người thật, cho con người thật chết đói, chôn con người thật ấy!”
Một lần nữa y ngừng nói, để ngọn lửa thất thường trong mắt y dịu xuống.
“Khi nào mọi chuyện sẽ bắt đầu đây? Khi nào thì chúng ta trở thành cặp song sinh rối loạn chức năng này đây – con người hư ảo trong đầu ta và con người thật sự đang bị giam cầm và chết mòn? Tôi tin chắc chuyện đó sẽ đến sớm thôi. Tôi biết trong trường hợp của mình, cặp song sinh này đã tồn tại từ lâu, mỗi đứa ở mỗi nơi riêng chẳng thoải mái gì, khi tôi 9 tuổi. Tôi sẽ kể cho quý vị nghe một câu chuyện. Những ai đã nghe kể rồi thì xin thứ lỗi nhé.”
Gurney liếc nhìn quanh phòng, để ý thấy trong số khán giả đang chăm chú có vài người mỉm cười thừa nhận đã nghe rồi. Cái viễn cảnh phải nghe lại một trong những câu chuyện của Mellery lần thứ hai hay lần thứ ba dường như chỉ càng làm tăng thêm sự mong đợi nơi khán giả thay vì làm họ chán nản hay bực dọc. Giống như phản ứng của một đứa bé trước lời hứa kể lại một câu chuyện cổ tích ưa thích của nó.
“Ngày nọ khi tôi đang sửa soạn đi học thì mẹ tôi đưa cho tôi một tờ hai mươi đô-la nhờ mua một ít thức ăn trên đường về nhà trưa hôm đó – một lít sữa và một ổ bánh mì. Tan học lúc 3 giờ, tôi dừng lại một cửa hiệu thức ăn nhỏ cạnh sân trường để mua một lon Coca trước khi đến tiệm tạp hóa. Đây là nơi mà mấy đứa nhỏ đến chơi sau giờ học. Tôi đặt tờ hai mươi đô-la lên quầy để trả tiền lon Coca, nhưng ông chủ tiệm chưa kịp lấy tiền rồi thối lại thì một thằng nhóc đến và thấy tờ tiền. ‘Ê, Mellery, nó nói, ‘mày lấy đâu ra hai mươi đô thế hở?’ Thằng nhóc này lại đầu gấu nhất khối lớp bốn mà tôi đang học. Lúc đó tôi chín tuổi, nó thì mười một tuổi. Nó ở lại lớp hai lần rồi, và là một thằng nhóc đáng sợ – đến nói chuyện tôi còn không dám, huống hồ là chơi chung. Nó đánh lộn nhiều lần, và nhiều người nói trước đây nó đã từng đột nhập vào nhà người ta ăn cắp đồ. Khi nó hỏi tôi lấy tiền ở đâu ra, tôi toan nói mẹ tôi đưa cho tôi để mua sữa và bánh mì, nhưng tôi lại sợ nó cười nhạo mình, gọi tôi là cục cưng của mẹ, và tôi cũng muốn nói cái gì đó gây ấn tượng với nó, nên tôi nói tôi ăn cắp số tiền ấy. Nó trông thích thú, làm tôi thấy hài lòng. Rồi nó hỏi tôi lấy cắp tiền của ai, tôi nói ra người mình nghĩ đầu tiên. Tôi nói là ăn cắp tiền của mẹ. Nó gật đầu rồi mỉm cười bước đi. Lúc đó tôi giống như vừa nhẹ nhõm vừa không thoải mái vậy. Ngày hôm sau, tôi quên béng chuyện này. Nhưng một tuần sau nó đến gặp tôi dưới sân trường nói, ‘Ê, Mellery, mày có ăn cắp thêm tiền của mẹ mày không?’ Tôi nói không, tao chưa lấy. Rồi nó nói, ‘Sao mày không xoáy thêm hai mươi đô nữa nào?’ Tôi không biết phải nói gì cả. Tôi chỉ nhìn nó trân trân. Rồi nó nở một nụ cười ranh mãnh nói, ‘Mày ăn cắp thêm hai mươi đô nữa đưa cho tao, không thôi tao mách mẹ mày chuyện mày lấy cắp hai mươi đô tuần rồi’. Tôi thấy máu trong người đang rỉ ra.”
“Chúa ơi,” một người phụ nữ mặt ngựa ngồi trong một chiếc ghế bành đỏ sẫm bên phía xa chỗ lò sưởi nói, trong khi nhiều tiếng xì xào giận dữ vì thương cảm lan tỏa khắp phòng.
“Đúng là khốn nạn!” một người đàn ông có thân hình chắc nịch gào lên, mắt đầy sát khí.
“Tôi rơi vào tình trạng hoảng loạn. Tôi hình dung ra cảnh nó đi nói với mẹ tôi rằng tôi đã lấy cắp hai mươi đô-la của bà. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến cái sự vô lý ấy, chưa bao giờ nghĩ đến việc thằng nhãi găng tơ này lại đi mách mẹ tôi chuyện gì. Đầu óc tôi đầy rẫy sợ sệt – sợ nó sẽ nói cho mẹ biết và mẹ tôi sẽ tin nó.
“Tôi không có một chút tin tưởng nào về sự thật cả. Vì vậy, trong tình trạng hoảng loạn vô tri này, tôi đã đi đến một quyết định sai lầm nhất trên đời. Tôi lấy cắp hai mươi đô-la từ ví mẹ đêm hôm đó rồi đưa cho nó ngày hôm sau. Dĩ nhiên, tuần kế tiếp nó lại yêu sách như cũ. Rồi tuần sau đó nữa. Cứ thế suốt 6 tuần, cho đến khi tôi bị bố bắt quả tang – bắt quả tang khi đang đóng ngăn tủ quần áo trên cùng của mẹ, trong tay nắm chặt tờ hai mươi đô-la. Tôi thú tội. Tôi kể cho bố mẹ nghe toàn bộ câu chuyện khủng khiếp, đáng xấu hổ ấy. Nhưng chuyện lại tệ hơn. Họ gọi mục sư của tôi đến, Cha Reardon, rồi dẫn tôi đến nhà chung để kể đi kể lại câu chuyện đó. Đêm hôm sau, Cha bảo tôi quay lại và ngồi xuống cùng thằng nhóc tống tiền và bố mẹ nó, và tôi lại phải kể lại câu chuyện đó một lần nữa. Nhưng như vậy vẫn chưa xong. Bố mẹ tôi cắt tiền tiêu vặt của tôi trong một năm để trừ đi số tiền tôi lấy cắp. Chuyện đó đã thay đổi cách nhìn của bố mẹ về tôi. Thằng tống tiền bịa ra một phiên bản khác để kể cho mọi người trong trường nghe, nó được khắc họa như Robin Hood còn tôi chỉ là đồ chuột mách lẻo. Rồi thỉnh thoảng, nó ném cho tôi một cái cười nhếch mép lạnh băng như muốn nói một ngày không xa tôi sẽ bị hất ra khỏi mái một khu nhà chung cư.”
Mellery ngừng nói để nhớ lại câu chuyện của mình và lấy lòng bàn tay xoa mặt, như muốn làm bớt căng những bắp thịt bị hồi ức làm co lại.
Người đàn ông lực lưỡng lắc đầu một cách nghiêm nghị và lặp lại, “Đúng là khốn nạn!”
“Tôi cũng đã nghĩ hệt như vậy,” Mellery nói. “Đúng là một thằng nhãi khốn nạn thích điều khiển người khác! Mỗi khi cái mớ bòng bong ấy hiện lên trong tâm trí, suy nghĩ tiếp theo trong đầu tôi lúc nào cũng là, ‘Đúng là đồ khốn nạn’. Tôi chỉ suy nghĩ được chừng ấy.”
“Anh nói đúng,” người đàn ông lực lưỡng nói bằng một giọng nghe như quen được người khác lắng nghe. “Cái thằng ấy chính là như vậy!”
“Cái thằng ấy chính là như vậy,” Mellery đồng ý bằng một giọng cất cao, “hắn đúng là như vậy. Nhưng tôi chẳng bao giờ nghĩ quá được chuyện hắn là gì, để tự hỏi bản thân mình là gì. Chuyện hắn là gì hiển nhiên đến nỗi tôi chẳng bao giờ tự hỏi tôi là gì. Cái đứa nhỏ chín tuổi này là đứa quái quỷ nào đây, và tại sao nó lại làm những gì nó đã làm? Nói nó sợ nên mới làm vậy là chưa đủ. Sợ gì mới được? Và nó nghĩ nó là ai?”
Gurney cảm thấy bị cuốn hút vào câu chuyện một cách kỳ lạ. Mellery đã thu hút được toàn bộ sự chú ý của anh cũng như bất kỳ ai khác trong phòng. Gurney đã chuyển từ vai trò dự thính sang vai trò tham gia vào cuộc tìm kiếm ý nghĩa, động cơ, bản thể đột ngột này. Mellery vừa nói vừa nhịp chân qua lại trước nền lò sưởi khổng lồ, tựa như đang bị ký ức và câu hỏi khiến cho không thể đứng yên. Những lời của y tuôn ra tự nhiên.
“Cứ nghĩ đến đứa bé đó – bản thân tôi lúc chín tuổi – là tôi lại nghĩ đến nó như một nạn nhân, nạn nhân của một vụ tống tiền, nạn nhân của chính niềm khao khát ngây thơ được yêu thương, được ngưỡng mộ, được chấp nhận. Nó chỉ muốn thằng nhóc to con thích nó thôi mà. Nó là nạn nhân của một thế giới nghiệt ngã. Đứa bé đáng thương, chú cừu đáng thương trước miệng cọp.”
Mellery thôi nhịp chân và xoay người về phía khán giả. Giờ thì y nói nhỏ nhẹ. “Nhưng đứa bé ấy cũng không chỉ có thế. Nó vừa là kẻ dối trá vừa là kẻ cắp.”
Khán giả bất đồng quan điểm với nhau, một nhóm dường như muốn phản đối và một nhóm gật gù tán thành.
“Nó nói dối khi được hỏi lấy hai mươi đô-la ở đâu ra. Nó tự nhận mình là kẻ cắp để lòe một đứa mà nó cho là kẻ cắp. Rồi sau đó, đối mặt với lời dọa dẫm là mẹ nó sẽ biết nó ăn cắp, nó trở thành kẻ cắp thật sự thay vì chỉ khiến mẹ nghĩ là nó là kẻ cắp. Điều mà nó quan tâm nhất chính là phải kiểm soát suy nghĩ của người khác về nó. So với những gì mà họ nghĩ thì chuyện nó có thật sự nói dối hay ăn cắp hay không, hay hành vi của nó có tác động như thế nào đối với những người nó nói dối và ăn cắp, đối với nó cũng không quan trọng lắm. Để tôi nói như thế này cho dễ hiểu: chuyện không đủ quan trọng để khiến nó thôi nói dối hay ăn cắp. Chuyện chỉ đủ quan trọng để ăn mòn lòng tự trọng của nó như axit khi nó nói dối và ăn cắp thật sự. Chuyện chỉ vừa đủ quan trọng để nó tự ghét bỏ mình và ước được chết.”
Mellery im bặt một vài giây, để những lời bình phẩm của y được ngấm vào, rồi nói tiếp, “Tôi muốn quý vị làm như vầy. Lập ra một danh sách những người quý vị không chịu nổi, những người quý vị giận dữ, những người có lỗi với quý vị – rồi tự hỏi mình, ‘Tôi đã lâm vào tình cảnh đó như thế nào? Tôi đã lâm vào mối quan hệ đó như thế nào? Động cơ của tôi là gì? Hành động của tôi trong tình huống ấy sẽ như thế nào trong mắt một người quan sát khách quan?’ Đừng – tôi lặp lại, đừng – đừng tập trung vào những thứ tệ hại mà người kia đã gây ra. Lúc này chúng ta không phải tìm người để đổ lỗi. Chúng ta đã đổ lỗi suốt cuộc đời mình rồi, và làm vậy chẳng đưa chúng ta đến đâu cả. Chúng ta chỉ biết lập một danh sách dài ngoằng, vô bổ chứa tên những người để đổ lỗi nếu có việc gì không hay xảy ra. Một danh sách dài ngoằng, vô bổ! Câu hỏi thật sự, câu hỏi quan trọng duy nhất là ‘Tôi đã ở đâu trong tất cả những chuyện này? Tôi đã mở cánh cửa dẫn đến căn phòng ấy như thế nào?’ Khi tôi 9 tuổi, tôi đã mở cánh cửa ấy bằng cách nói dối để có được sự ngưỡng mộ. Quý vị đã mở cánh cửa ấy như thế nào?”
Người phụ nữ nhỏ nhắn trước đó đã văng tục với Gurney trông càng lúc càng bối rối. Cô ta ngập ngừng giơ tay lên hỏi, “Chẳng phải đôi khi người xấu làm chuyện khủng khiếp với người vô tội đấy sao, như đột nhập vào nhà rồi cướp bóc chẳng hạn? Vậy đâu phải lỗi ở người vô tội đúng không?”
Mellery mỉm cười. “Chuyện xấu xảy đến với người tốt là chuyện bình thường. Nhưng sau đó những người tốt này không dành cả quãng đời còn lại để nghiến răng rồi chiếu đi chiếu lại trong tâm trí đoạn băng đầy hằn học thu cảnh mình bị trộm. Những va chạm cá nhân làm chúng ta lao đao nhiều nhất, những va chạm mà chúng ta cảm thấy bất lực không thể buông xả, là những va chạm trong đó chúng ta đóng một vai mà mình không chịu nhìn nhận. Đó là lý do tại sao nỗi đau đó kéo dài – bởi vì chúng ta không chịu nhìn vào gốc rễ của nó. Chúng ta không thể tháo gỡ nó, bởi lẽ chúng ta không chịu nhìn vào chính cái mối nối ấy.”
Mellery nhắm mắt lại, vẻ như đang tập trung sức mạnh để tiếp tục. “Nỗi đau khốn cùng nhất trong đời ta đến từ những lỗi lầm ta không chịu nhìn nhận – những thứ ta làm lạc điệu với cái bản thể mà ta không dám nhìn vào. Ta trở thành hai con người trong một lớp da, hai con người tương khắc nhau. Kẻ thì giả trá, người thì khinh bỉ sự giả trá. Kẻ thì trộm cắp, người thì khinh bỉ trộm cắp. Không có nỗi đau nào sánh bằng nỗi đau của cuộc đối đầu ấy, diễn ra ác liệt dưới ngưỡng nhận thức. Ta trốn nó, nhưng nó lại chạy theo ta. Ta chạy đến đâu thì mang cuộc chiến ấy theo đến đó.”
Mellery nhịp chân qua lại trước lò sưởi.
“Hãy làm những gì tôi nói. Lập ra một danh sách những người mà quý vị quy trách nhiệm về những phiền muộn trong đời mình. Người nào khiến quý vị càng giận dữ thì càng tốt. Ghi tên họ ra. Quý vị càng tin chắc mình không phải là người chịu trách nhiệm thì càng tốt. Ghi ra giấy họ đã làm gì và quý vị đã bị tổn thương như thế nào. Sau đó tự hỏi mình rằng quý vị đã mở cánh cửa ấy bằng cách nào. Nếu ý nghĩ đầu tiên của quý vị là bài tập này vớ vẩn, thì tự hỏi mình tại sao lại háo hức bác bỏ nó đến vậy. Hãy nhớ, đây không phải chuyện miễn trách nhiệm cho người khác. Quý vị không có sức mạnh để miễn trách nhiệm cho họ. Đó là chuyện của Chúa, không phải của quý vị. Chuyện của quý vị tựu trung lại là câu hỏi này: ‘Tôi đã mở cánh cửa ấy bằng cách nào?’”
Y ngừng nói rồi nhìn quanh phòng, cố gắng tiếp xúc bằng mắt với càng nhiều khách càng tốt.
“‘Tôi đã mở cánh cửa ấy bằng cách nào?’ Hạnh phúc trong quãng đời còn lại của quý vị sẽ phụ thuộc vào mức độ thành thật của mình khi trả lời câu hỏi này.”
Y ngừng nói, ra chiều đã kiệt quệ, rồi thông báo giải lao ‘để dùng cà phê, trà, hít thở không khí trong lành, đi vệ sinh, vân vân’. Khi mọi người đứng dậy khỏi ghế và xô pha rồi tản đi khắp hướng làm nhiều chuyện khác nhau, Mellery nhìn Gurney một cách dò xét. Anh vẫn yên vị trong ghế.
“Có giúp ích chút xíu nào không?” y hỏi.
“Rất ấn tượng.”
“Về mặt nào?”
“Anh thuyết giảng hay lắm.”
Mellery gật đầu – không khiêm tốn mà cũng không tự kiêu.
“Anh thấy chuyện này mỏng manh như thế nào chưa?”
“Anh muốn nói đến mối giao hảo mà anh đã thiết lập với khách ư?”
“Tôi nghĩ giao hảo hay từ gì thì cũng như nhau cả, miễn là nó bao hàm ý nghĩa một sự kết hợp giữa tin cậy, đồng cảm, nối kết, cởi mở, tin tưởng, hy vọng, thương yêu – và miễn là anh hiểu những bông hoa ấy mỏng manh như thế nào là được, nhất là khi chúng mới ra hoa lần đầu.”
Gurney không biết nên kết luận như thế nào về Mark Mellery. Nếu là tay bịp bợm thì y hẳn là tay bịp bợm giỏi nhất anh từng chạm trán.
Mellery giơ tay lên gọi một người phụ nữ trẻ đứng gần chỗ bình cà phê. “À, Keira này, cô có thể giúp tôi một chuyện lớn lao này không, kêu Justin đến hộ tôi nhé?”
“Nhất định rồi!” cô ta trả lời không do dự, xoay tròn người như diễn viên múa ba lê, rồi bắt đầu cuộc săn tìm.
“Justin là ai vậy?” Gurney hỏi.
“Một cậu thanh niên mà càng lúc tôi càng không thể thiếu. Ban đầu cậu ta đến đây với tư cách là một vị khách mới hai mươi mốt tuổi thôi – đó là độ tuổi nhỏ nhất mà chúng tôi tiếp nhận. Cậu ta quay lại ba lần, và lần thứ ba thì không bao giờ rời khỏi chỗ này nữa.”
“Cậu ta làm gì?”
“Tôi nghĩ có thể nói cậu ta làm những gì tôi làm.”
Gurney ném cho Mellery một cái nhìn ngơ ngác.
“Ngay từ lần viếng thăm đầu tiên Justin đã cho thấy cậu ta rất hợp ý tôi, tôi nói gì cậu ta cùng hiểu ngay, chuyện nhỏ nhặt lẫn lớn lao. Một anh chàng sắc sảo, đóng góp rất nhiều cho mọi việc chúng tôi làm. Thông điệp của viện được tạo ra cho cậu ấy, và cậu ta được sinh ra cho thông điệp của viện. Nếu muốn thì cậu ta rất có tương lai ở đây.”
“Mark con,” Gurney nói, gần như lầm bầm.
“Sao cơ?”
“Nghe như một cậu con trai lý tưởng vậy. Anh làm gì cậu ta cũng tiếp thu và đánh giá cao cả.”
Một cậu thanh niên mảnh khảnh, mặt mũi sáng sủa vào phòng và đi về phía họ.
“Justin, tôi muốn cậu gặp người bạn cũ của tôi, Dave Gurney.”
Người thanh niên chìa tay ra một cách nồng hậu xen lẫn ngại ngùng.
Hai người bắt tay xong, Mellery kéo Justin sang một bên nói nhỏ. “Tôi muốn cậu phụ trách nửa tiếng tiếp theo, cho ví dụ về những lưỡng phân nội tại nhé.”
“Được thôi,” người thanh niên nói.
Gurney chờ Justin đi đến chỗ tủ búp phê lấy cà phê rồi nói với Mellery, “Nếu anh có thời gian, tôi muốn anh gọi điện thoại cho một người trước khi tôi đi.”
“Ta trở vào nhà nào.” Rõ ràng Mellery muốn đặt một khoảng cách giữa khách và tất cả những chuyện có liên quan đến khó khăn hiện tại của y.
Trên đường đi, Gurney giải thích rằng anh muốn y gọi cho Gregory Dermott để hỏi thêm thông tin về lịch sử hộp thư và độ bảo mật của nó, cùng bất kỳ chuyện nào khác mà anh ta nhớ lại được có liên quan đến chuyện nhận tờ séc 289,87 đô gửi tới X. Arybdis mà anh ta đã gửi trả lại Mellery. Cụ thể thì có ai khác trong công ty của Dermott được ủy quyền mở hộp thư không? Chìa khóa hộp thư có luôn nằm trong tay Dermott không? Có chìa khóa thứ hai không? Anh ta thuê hộp thư đã bao lâu? Trước đây anh ta có bao giờ nhận được thư đề sai địa chỉ không? Anh ta có bao giờ nhận được tấm séc nào không kèm thư giải thích không? Mấy cái tên Arybdis, Charybdis, hay Mark Mellery có ý nghĩa gì với anh ta không? Có ai từng nói gì với anh ta về Viện Đổi mới Tâm linh không?
Ngay khi Mellery bắt đầu ra chiều choáng ngợp, Gurney lôi một tấm thẻ nhỏ trong túi ra trao cho y. “Những câu hỏi đó đều ở đây cả. Ông Dermott có thể không muốn trả lời hết tất cả câu hỏi, nhưng cũng đáng thử mà.”
Khi họ tiếp tục bước đi, giữa những luống hoa tàn úa, Mellery dường như đang chìm sâu hơn vào nỗi lo. Khi hai người đến sân hiên đằng sau ngôi nhà khang trang, y dừng bước và nói bằng cái giọng thì thào của một kẻ sợ những cặp tai soi mói.
“Tối qua tôi không chợp mắt được. Cái vụ ‘số mười chín’ dạo này làm tôi mất trí hoàn toàn.”
“Anh không thấy nó có liên quan đến bất kỳ thứ gì ư? Nó không có một ý nghĩa nào sao?”
“Không có gì cả. Toàn mấy thứ vớ vẩn cả. Một bác sĩ trị liệu có lần cho tôi làm một bài kiểm tra gồm hai mươi câu hỏi để xem tôi có vấn đề về rượu không, và tôi làm được 19 điểm. Người vợ đầu kết hôn với tôi khi cô ta mới 19 tuổi. Đại khái như vậy – những liên tưởng ngẫu nhiên thôi, tôi nghĩ đến chuyện gì không ai có thể đoán được, cho dù họ có biết rõ tôi đến đâu đi nữa.”
“Nhưng họ lại đoán được đấy thôi.”
“Chính vì thế mà tôi đang điên lên đây! Anh xem các dữ kiện đi. Ai đó để một phong bì niêm phong trong hộp thư của tôi. Tôi nhận được điện thoại nói nó ở đó rồi kêu tôi nghĩ đến một con số bất kỳ. Tôi nghĩ đến số 19. Tôi đi đến hộp thư lấy chiếc phong bì, và lá thư trong phong bì đề cập đến con số 19. Đúng con số mà tôi đã nghĩ đến. Tôi nghĩ đến con số 72.951 cũng được vậy. Nhưng tôi lại nghĩ đến số 19, và đó chính là con số trong thư. Anh nói chuyện năng lực ngoại cảm là tào lao mà, nhưng nếu không như vậy thì anh giải thích sao đây?”
Mellery kích động bao nhiêu thì Gurney đáp lại bằng giọng điềm đạm bấy nhiêu. “Có cái gì đó khiếm khuyết trong khái niệm của chúng ta về những chuyện đã xảy ra. Chúng ta đang xem xét vấn đề theo cách nào đó khiến chúng ta đặt sai câu hỏi.”
“Câu hỏi đúng là gì cơ?”
“Khi tôi nghĩ ra được thì anh sẽ là người đầu tiên biết. Nhưng tôi đảm bảo với anh là không có liên quan gì tới ngoại cảm cả.”
Mellery lắc đầu, điệu bộ giống run rẩy hơn là thể hiện cảm xúc. Rồi y ngước lên nhìn sau lưng căn nhà, đoạn đưa mắt nhìn xuống hàng hiên đang đứng. Vẻ mặt ngây dại của y nói rằng y không hiểu sao mình lại đứng đây.
“Ta đi vào trong được không?” Gurney đề nghị.
Mellery định thần trở lại và như sực nhớ ra điều gì. “Tôi quên mất – tôi xin lỗi – trưa nay Caddy ở nhà. Tôi không thể… Ý tôi là, có thể sẽ tốt hơn nếu… tôi muốn nói, tôi không thể gọi cho Dermott ngay lúc này được. Tôi đành phải tùy cơ ứng biến vậy.”
“Nhưng anh sẽ gọi ngày hôm nay chứ?”
“Vâng, có chứ, tất nhiên là ngày hôm nay. Tôi chỉ cần lựa chọn thời gian thích hợp để gọi thôi. Khi nào tôi nói chuyện với anh ta tôi sẽ gọi cho anh ngay mà.”
Gurney gật đầu. Nhìn vào cặp mắt của người bạn hữu, anh thấy trong đó ánh lên nỗi lo về một cuộc đời sắp sụp đổ.
“Câu hỏi này nữa trước khi tôi đi. Tồi nghe anh bảo Justin thuyết giảng về những ‘lưỡng phân nội tại’ gì đấy. Tôi tự hỏi chủ đề ấy nói đến cái gì.”
“Anh tinh ý đấy,” Mellery vừa nói vừa chau nhẹ mày. “‘Lưỡng phân’ nói đến sự phân cắt, tính nhị nguyên bên trong một thứ. Tôi dùng từ này đế mô tả những xung đột bên trong chúng ta.”
“Anh muốn nói đến mấy thứ kiểu như Jekyll và Hyde ư?”
“Phải, nhưng còn sâu xa hơn thế. Con người chất chứa bên trong nhiều xung đột. Những xung đột này hình thành các mối quan hệ của ta, tạo ra phiền muộn của ta, hủy hoại cuộc đời ta.”
“Cho tôi một ví dụ nào.”
“Tôi cho anh một trăm ví dụ cũng được. Xung đột đơn giản nhất là xung đột giữa cách chúng ta nhìn bản thân và cách chúng ta nhìn người khác. Chẳng hạn như, nếu chúng ta đang cãi nhau và anh hét vào mặt tôi, tôi sẽ thấy nguyên nhân chính là anh không thể kiềm chế được tính khí. Tuy nhiên, nếu tôi hét vào mặt anh, tôi sẽ thấy nguyên nhân không phải là do tính khí của tôi mà chính là do anh kích động tôi – việc tôi la hét là một phản ứng thích hợp đáp lại một thứ gì đó trong anh.”
“Hay đấy.”
“Ai trong chúng ta dường như cũng đều được lập trình sẵn để tin rằng tình cảnh của tôi gây ra vấn đề của tôi nhưng nhân cách của anh gây ra vấn đề của anh. Rắc rối phát sinh chỗ đó. Tôi khát khao có được mọi thứ theo cách của tôi thì có vẻ hợp lý, trong khi anh khát khao có được mọi thứ theo cách của anh lại có vẻ ấu trĩ. Một ngày tốt đẹp hơn là ngày mà tâm trạng tôi khá hơn còn hành vi của anh đúng mực hơn. Cách nhìn sự vật của anh đã bị động cơ của anh làm cho sai lệch.”
“Tôi hiểu rồi.”
“Đó mới chỉ là khởi đầu thôi, chưa chạm vào bề mặt của vấn đề nữa là. Trí óc ta là một mớ hỗn độn những mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta nói dối để được lòng tin của người khác. Chúng ta giấu đi cái tôi thật sự để mưu cầu sự gần gũi. Chúng ta lại theo đuổi hạnh phúc bằng những cách xua hạnh phúc đi. Khi chúng ta sai, chúng ta chiến đấu tới cùng để chứng minh là mình đúng.”
Đắm chìm vào nội dung chương trình của mình nên Mellery nói chuyện đầy sức sống, đậm chất hùng biện. Ngay cả trước tình trạng căng thẳng hiện tại, nó vẫn có sức mạnh giúp y tập trung tinh thần.
“Tôi có cảm tưởng,” Gurney nói, “anh đang nói tới nguồn gốc một nỗi đau cá nhân hơn là chỉ nói chung chung về con người.”
Mellery gật đầu chầm chậm. “Không có nỗi đau nào tệ hơn nỗi đau có hai cá thể sống trong cùng một cơ thể cả.”