← Quay lại trang sách

Chương 3

Trước đây, quận chúa Danuta, ông Maćko và Zbyszko đã có lần đến Tyniec, nhưng trong đoàn tùy tùng của quận chúa nhiều kẻ lần đầu mới được trông thấy nơi đây, họ kinh ngạc ngước mắt ngắm nhìn đan viện tuyệt vời này, ngắm những bức tường đỉnh răng cưa lởm chởm chạy dọc theo bờ đá trên các sườn dốc dựng đứng, ngắm những tòa nhà đủ kiểu, cái đứng cheo leo lưng chừng núi, cái xây bên trong tường thành phòng thủ, tầng tầng lớp lớp chen chúc nhau, vươn lên cao, rực rỡ trong ánh vàng của vầng thái dương vừa mọc. Chỉ cần thoáng trông những bức tường thành, những tòa ngang dãy dọc, những công trình xây dựng phục vụ cho các loại mục đích khác nhau, những vườn cây ăn quả nằm dưới chân núi và những cánh đồng được chăm bón công phu trải dài đến hút tầm mắt người đứng trên cao nhìn xuống - cũng đã có thể nhận ngay ra sự giàu có được tích tụ từ bao đời, không sao lường hết, sự sung túc mà những cư dân miền Mazowsze nghèo khổ chưa từng biết đến, khiến họ phải bàng hoàng kinh ngạc.

Thực ra, ở những miền khác của đất nước cũng có những đan viện dòng Benedyktyn cổ xưa, tỷ như tại thành Lubus trên sông Odra [62] , tại Plock, tại Mogilna, tại vùng Wielkopolska và tại nhiều nơi khác nữa, nhưng không một đan viện nào sánh nổi với đan viện Tyniec nơi đây, với điền sản trội vượt hơn khá nhiều ngay cả những công quốc riêng lẻ, còn về thu nhập có thể khiến nhiều vị vua chúa đương thời phải ghen tị.

Vì thế, niềm thán phục trào dâng trong đám quần thần tùy tùng, một số kẻ thậm chí không dám tin vào mắt mình nữa. Muốn làm quãng đường ngắn lại và làm vui đám thị tỳ, quận chúa bèn yêu cầu một đan sĩ kể lại câu chuyện cổ xưa khủng khiếp về chàng Walgier Tuấn Tú, mà có lần ở kinh thành Kraków bà đã được người ta kể sơ qua cho nghe.

Các thị nữ liền xúm xít lại thành một đám chen chúc quanh nữ chúa, cùng thong thả leo lên dốc núi. Trong những tia nắng sớm mai, trông họ hệt như những đóa hoa đi động.

- Chuyện về Walgier xin để cha đồng đạo Hidulf đây kể, bởi một đêm kia chính mắt cha đồng đạo đã trông thấy hồn chàng hiện về. - Một đan sĩ vừa nói vừa đưa mắt sang vị đan sĩ thứ hai, một người đã khá tuổi tác, đang đi bên cạnh hiệp sĩ Mikołaj xứ Dlugolas với dáng hơi còng.

- Có phải chính cha, thưa cha thánh thiện, đã tận mắt trông thấy hồn chàng? - Quận chúa hỏi ông.

- Thưa, chính tôi đã thấy. - Vị đan sĩ u ẩn đáp. - Đã có những hoàn cảnh đặc biệt, mà theo ý Chúa, linh hồn ấy được phép rời chốn địa ngục thâm u để hiện ra cho người đời được thấy.

- Chuyện xảy ra bao giờ?

Đan sĩ nhìn hai vị kia và nín bặt, bởi lẽ đã có lời đồn rằng hồn ma chàng Walgier hiện ra khi kỷ cương của dòng tu bị hư hoại, khi các đan sĩ nghĩ đến sự giàu sang và lạc thú của thế gian nhiều hơn mức cần thiết, mà đó là điều chẳng ai muốn thừa nhận. Song, bởi lẽ người ta cũng đồn rằng hồn ma hiện lên để báo trước chiến tranh hay các thứ tai ương chướng họa khác, nên sau hồi lâu im lặng, cha đồng đạo Hidulf thốt lên:

- Hồn ma xuất hiện chẳng báo hiệu điều gì tốt lành.

- Ta cũng chẳng muốn trông thấy hồn đâu. - Quận chúa vừa nói vừa làm dấu thánh. - Nhưng tại sao hồn lại phải lưu đày địa ngục, một khi như ta nghe nói, chàng chỉ trả thù bao điều xúc phạm ghê gớm đến chính bản thân chàng mà thôi?

- Dẫu suốt đời y có phẩm hạnh đến đâu đi nữa thì y vẫn bị rủa nguyền, - đan sĩ nói bằng giọng khắc nghiệt, - bởi y đã sống vào thời ngoại đạo, không hề được rửa sạch những tội lỗi nguyên sơ bằng một lễ rửa tội thiêng liêng.

Nghe những lời ấy, lông mày quận chúa chau lại đau đớn, bởi bà chợt nghĩ rằng phụ thân vĩ đại của bà - người mà bà yêu thương và kính trọng bằng tất cả tấm lòng - cũng đã chết với những lỗi lầm ngoại đạo và sẽ bị thiêu đốt trong ngọn lửa vĩnh hằng của địa ngục.

- Bọn ta chờ nghe cha kể đây. - Sau giây lâu im lặng, bà thốt lên.

Cha đồng đạo Hidulf bắt đầu kể:

- Vào thời ngoại đạo mông muội, có một quý ngài giàu có được người đời mệnh danh là chàng Walgier Tuấn Tú, bởi chàng có sắc đẹp mê hồn. Cả một vùng đất mênh mông trải rộng đến hút tầm mắt thuộc về chàng. Mỗi khi lên đường chinh chiến, ngoài dám bộ binh, chàng còn dắt theo hơn một trăm hiệp sĩ thiết kỵ trường thương [63] , bởi lẽ toàn bộ các hiệp sĩ lang thang [64] trong cả miền nằm giữa Opole ở phía tây sang tận Sandomierz ở phía đông đều là chư hầu thuộc hạ của chàng Walgier. Đàn súc vật của chàng đông không ai đếm xuể. Ngay tại Tyniec này, chàng cho xây cả một ngọn tháp chứa đầy tiền vàng, nhiều như số vàng bạc mà quân Thánh chiến bây giờ đang tích giữ ở thành Malborg [65] vậy.

- Ta biết, chúng có đấy! - Quận chúa Danuta chen vào.

- Chàng Walgier là một người có tầm vóc khổng lồ, - đan sĩ kể tiếp, - chàng có thể nhổ tróc cả gốc những cây sồi cổ thụ. Còn về sắc đẹp, tài chơi đàn luýt, tài ca hát thì không một ai trên đời có thể sánh nổi chàng. Một lần, khi chàng đến chơi ở cung vua Pháp, công chúa Helgunda - người mà vua Pháp đã định dâng cho dòng tu làm tặng vật hiến lên Chúa - đã phải lòng chàng và bỏ trốn theo chàng về Tyniec để sống với nhau trong sự vô sỉ ghê gớm, bởi không một cha cố nào dám làm phép cưới Ki-tô giáo cho họ. Hồi đó, tại Wislica có gã Wislaw Điển Trai, thuộc dòng dõi vua Popiel. Trong những lúc chàng Walgier Tuấn Tú vắng nhà, gã đã từng cướp bóc Tyniec. Chàng Walgier đã đánh thắng gã, mang về Tyniec làm tù binh, mà đâu có ngờ rằng một khi đã trông thấy gã, bất cứ thiếu nữ nào cũng đều sẵn sàng từ bỏ cả cha mẹ chồng con, chỉ cốt được cùng gã thỏa lòng khao khát. Chuyện ấy cũng đã xảy ra với công chúa Helgunda.

Công chúa bèn nghĩ cách trói chàng Walgier, trói chặt đến nỗi tuy là người khổng lồ có thể nhổ bật gốc sồi nhưng chàng vẫn không tài nào giằng ra nổi. Và công chúa đem chàng nộp cho Wislaw, gã liền mang chàng về Wiślica giam hãm. Nhưng ở đó, khi nghe tiếng hát của Walgier vang lên từ dưới hầm giam, nàng Rynga em gái của Wislaw đã đem lòng yêu chàng, và giải thoát cho chàng khỏi nơi tù ngục. Chàng bèn dùng gươm đâm chết cả Wislaw lẫn Helgunda, vứt thây cho quạ rỉa, rồi cùng nàng Rynga quay về Tyniec.

- Chàng làm thế chẳng phải lẽ lắm sao? - Quận chúa hỏi.

Đan sĩ Hidulf đáp:

- Giá như chàng được rửa tội và chịu hiến Tyniec cho các đan sĩ dòng Benedyktyn thì có lẽ Chúa đã thứ lỗi cho chàng, nhưng chàng không làm điều đó, vì vậy đã bị đất đen nuốt chửng.

- Chẳng lẽ hồi ấy các đan sĩ dòng Benedyktyn đã có mặt ở vương quốc này rồi sao?

- Vương quốc này hồi ấy chưa có các đan sĩ dòng Benedyktyn, mà dân ngoại đạo vẫn còn sinh sống ở đây.

- Thế thì làm sao Walgier có thể chịu lễ rửa tội hoặc dâng hiến đất Tyniec này được?

- Chàng đã không thể, và chính vì vậy mà bị lưu đày địa ngục để chịu cực hình vĩnh viễn. - Vị đan sĩ trang nghiêm đáp lời bà.

- Phải! Ngài nói phải lắm! - Vài giọng tán đồng vang lên.

Lúc ấy, họ đã lên đến gần cổng chính đan viện, nơi đan viện phụ dẫn đầu một đoàn đông đảo các đan sĩ và trang chủ quý tộc đã đứng sẵn đợi quận chúa. Những vị quan chức - các lý trưởng, lục sự, chưởng bạ - cùng các chức sắc đủ loại của dòng tu, bao giờ cũng có mặt rất đông trong đan viện. Nhiều trang chủ, thậm chí cả những hiệp sĩ quý tộc giàu có, cai quản những vùng đất bạt ngàn không tài nào đo hết của đan viện này, bị ràng buộc với đan viện theo luật chư hầu khá đặc thù ở Ba Lan thời ấy, và với tư cách “chư hầu”, họ thích lui tới cung đình của “chính quốc”, nơi bên bàn thờ Chúa họ rất hay nhận được những quà tặng, những khoản miễn giảm, cùng bao lợi lộc ấm thân khác, mà nhiều khi chỉ tùy thuộc vào một việc làm nhỏ nhặt, một lời nói khéo léo, hoặc một thoáng vui vẻ của đan viện phụ hùng mạnh mà thôi. Vả lại, các lễ lạt đang được sửa soạn tại kinh kỳ cũng thu hút nhiều vị chư hầu như vậy từ cả những miền xa xôi về đây. Những kẻ không tìm được chốn tá túc tại Kraków do quá đông người, cũng tìm về trú chân ở Tyniec. Vì thế, ngài abbas centum villarum [66] có thể dẫn theo cả một đoàn tùy tùng đông đúc hơn lệ thường rất nhiều để đón chào quận chúa.

Đan viện phụ là một người cao dong đỏng, vẻ mặt khổ hạnh, thông tuệ, với cái đầu cạo trọc trên chóp chẩm, còn bên dưới có vành tóc óng ánh bạc bao quanh chạy phía trên tai. Trán ông có sẹo của một vết thương mà hẳn ông đã nhận từ thuở còn là một hiệp sĩ trẻ trung. Đôi mắt tinh anh dưới hàng lông mày đen toát ra vẻ cao ngạo. Ông mặc áo chùng habit như các đan sĩ khác, nhưng bên ngoài là chiếc áo khoác thâm viền tía, trên cổ đeo sợi đây chuyền vàng có chiếc thánh giá cũng bằng vàng cẩn đá ngọc quý - biểu trưng của quyền hành đan viện phụ. Cả thân hình ông mang dáng vẻ một người đầy tự hào, giàu tự tin, quen với việc ban phát mệnh lệnh cho kẻ khác.

Song ông chào hỏi quân chúa rất lịch thiệp, thậm chí hơi có phần nhún nhường, bởi ông biết chồng bà thuộc dòng dõi các quận công miền Mazowsze, những người đã sản sinh ra các vị vua Władysław [67] và Kazimierz [68] , còn nếu tính theo họ ngoại thì cả hoàng hậu đương triều [69] nữa - vị nữ chúa của một trong những quốc gia vĩ đại nhất thế gian. Vì vậy, ông ra đón tận bên ngoài cổng đan viện, cúi đầu thật thấp, rồi sau khi dùng chiếc hộp nhỏ bằng vàng mà ông cầm trong những ngón tay phải làm dấu thánh ban phước cho quận chúa Anna Danuta cùng đám quần thần của bà, ông lên tiếng:

- Xin kính chào lệnh bà tôn nghiêm trên ngưỡng cửa nghèo hèn của dòng tu chúng tôi. Cầu Thánh Benedykt xứ Nursja [70] , Thánh Morus, Thánh Bonfiacy, Thánh Benedykt xứ Aniane cũng như Thánh Jan xứ Tolomej, các vị tổ của dòng tu chúng tôi hằng sống trong ánh sáng cực lạc, ban cho quận chúa sức khỏe, hạnh phúc, mang ơn lành đến cho bà bảy lần mỗi ngày trong suốt cả cuộc đời.

Quận chúa niềm nở nói:

- Họa có là người điếc mới không nghe thấu lời cầu nguyện của một đan viện phụ vĩ đại nhường này, nhất là khi chúng tôi đến đan viện của cha để dự lễ misa, để dâng mình cho sự chở che của chính các vị thánh hiển linh ấy.

Nói đoạn, quận chúa chìa một tay cho đan viện phụ, ông quỳ một gối cung kính hôn tay bà theo phong thái của giới hiệp sĩ, rồi sau đó cả hai cùng bước qua cổng vào đan viện. Hẳn đã từ lâu người ta đang đợi lễ misa bắt đầu, nên đúng lúc ấy các chuông lớn nhỏ đều nhất loạt gióng lên, những người thổi kèn đứng bên cửa nhà thờ rúc lên vang động hiệu kèn chào đón quận chúa, những người khác thẳng tay đập dùi vào các trống đại, tang bằng đồng đỏ bịt da thú, khiến chúng phát ra những tiếng trầm hùng vang động. Đối với một người vốn không phải sinh ra trên mảnh đất Ki-tô giáo như quận chúa, các nhà thờ bao giờ cũng gây ấn tượng mạnh, nhưng giáo đường Tyniec này gây cho bà ấn tượng đặc biệt hơn nhiều, bởi khó nhà thờ nào có thể sánh ngang nó về vẻ đẹp. Lúc ấy bóng tối vẫn bao phủ giáo đường, chỉ riêng bên cạnh bàn thờ cực lớn là lung linh một dải ánh sáng nhiều màu, hòa trộn với ánh nến soi tỏ những chỗ thếp vàng óng ánh của các pho tượng. Một vị đan sĩ mặc áo lễ bước ra cúi chào quận chúa, rồi bắt đầu lễ dâng hương. Khói hương thơm tỏa nghi ngút, che khuất cả cha hành lễ lẫn bàn thờ, xoáy thành những cuộn khoan thai bốc lên cao, càng tăng vẻ thâm u thần bí của nhà thờ. Quận chúa Anna Danuta ngả đầu về phía sau, hai tay để ngửa cao ngang mặt, khẩn thiết nguyện cầu. Tiếng đại phong cầm - hồi ấy thứ đàn này vẫn là của hiếm trong các nhà thờ - vang lên, những thanh âm trầm hùng tuyệt diệu làm rung động cả phòng nguyện, lúc thì thầm những giọng thiên sứ ngọt ngào, lúc lại thánh thót như khúc hót họa mi. Mắt quận chúa hướng lên vòm cao. Trên vẻ mặt bà, xen lẫn với lòng mộ đạo và kính sợ là một niềm sung sướng vô biên. Ngắm nhìn bà lúc này, ai cũng cảm thấy như đó là một nữ thánh đang say ngắm lòng trời rộng mở trong thị kiến thiêng liêng.

Người con gái của Kiejstut, vốn sinh ra ở một đất nước ngoại đạo, đã cầu nguyện như thế! Dẫu thường ngày bà vẫn nhắc tên Chúa thân mật như tất thảy những cư dân chất phác thời ấy, nhưng khi ở trong ngôi nhà của Chúa, bà lại ngẩng mặt cầu nguyện thế lực bí ẩn vô biên kia với lòng kính sợ và niềm sùng mộ trẻ thơ.

Và đình thần cũng cầu nguyện với lồng mộ đạo nhiệt thành như bà, dẫu ít kính sợ hơn. Zbyszko quỳ trước hàng lan can có những con tiện chắn ngang để hành lễ, giữa đám dân vùng Mazury, chỉ riêng các thị nữ được cùng quận chúa quỳ bên kia hàng lan can. Chàng cũng dâng mình cho sự chở che của Chúa. Thỉnh thoảng, chàng lại liếc nhìn Danusia đang quỳ bên quận chúa mà nghĩ rằng được làm hiệp sĩ cho nàng quả là một vinh hạnh, và dẫu có thế nào chàng nữa, việc tuyên thệ với nàng vẫn không thể là điều vớ vẩn. Giờ đây, khi men bia và rượu nho vừa uống trong tửu quán đã hả, chàng mới thấy lo, không hiểu sẽ thực hiện lời thề nguyện ra sao. Đang là thời bình, đâu phải buổi chiến chinh - tuy ở vùng biên cương hỗn loạn chẳng khó đụng độ một tên Đức có vũ trang để dần nát xương cốt nó hoặc chịu điều ngược lại, chẳng phải chàng đã nói thế với ông Maćko đó sao? Nhưng đâu phải thằng Đức nào cũng được mang ngù lông công hay lông đà điểu trên mũ. Trong đám khách của Giáo đoàn, chỉ các vị bá tước [71] mới mang ngù lông công, còn các hiệp sĩ Thánh chiến từ chức lãnh binh trở lên mới có ngù lông trên mũ. Nếu chiến tranh không bùng nổ, biết bao giờ chàng mới có cơ hội đoạt nổi ba ngù lông công? Chàng lại vừa nhận ra thêm một điều bất lợi nữa: là kẻ cho đến nay chưa được phong tước hiệu hiệp sĩ, chàng chỉ có thể thách đấu với những kẻ cũng chưa có tước hiệu mà thôi. Đành rằng chàng vẫn có hy vọng được nhận đai hiệp sĩ từ chính tay đức vua trong các trận đua tài đã loan báo sẽ được tổ chức nhân dịp lễ đặt tên cho ấu chúa, nhưng sau đó thì sao? Sau đó, chàng sẽ đến chỗ hiệp sĩ Jurand trang Spychow giúp ông đánh giết bọn bộ quân Đức, nhưng cũng chỉ có thể giáp mặt bọn ấy thôi, mà lũ bộ quân Thánh chiến đâu phải là những trang hiệp sĩ được quyền mang ngù lông công trên mũ?

Lòng đầy băn khoăn, nghĩ rằng nếu không được Chúa ban cho niềm ưu ái đặc biệt thì chẳng thể làm nên cơm cháo gì. Zbyszko khẩn thiết cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy cho con được đánh nhau với lũ Thánh chiến hay bọn Đức, những kẻ thù truyền kiếp của vương quốc này cũng như của tất thảy các dân tộc hàng ngưỡng mộ tên gọi thiêng liêng của Người, có cùng tiếng nói giống chúng con. Xin Chúa hãy ban ơn lành cho chúng con, quét sạch bọn chuyên thờ phụng ma vương địa ngục hơn là phụng sự Người. Chúng mang trong tim niềm thù hận ghê gớm chống chúng con, chúng hằn học bởi lẽ bằng cách cải đạo của Litva, đức vua và hoàng hậu của chúng con đã chặn được lưỡi gươm chúng đang bổ xuống đầu những bầy tôi Ki-tô. Xin Chúa hãy trừng phạt chúng vì niềm thù hận ấy. Còn riêng con, kẻ bầy tôi hèn mọn đầy tội lỗi là Zbyszko, dập đầu ăn năn cầu xin cứu rỗi trên năm vết thương nơi mình Chúa, xin Người hãy gửi tới cho con ba tên giặc Đức giàu có mang ngù lông công trên mũ. Và xin Chúa nhân từ hãy cho phép con được giết chúng, bởi con đã thề danh dự sẽ cướp những ngù lông đó dâng cho tiểu thư Danusia, con gái yêu của hiệp sĩ Jurand, một kẻ bầy tôi trung thành của Chúa.

Những gì thu được bên xác chúng, con xin thành thực dâng nộp theo thuế thập phân cho nhà thờ thiêng liêng của Chúa, để nhờ Chúa Giêsu ngọt ngào của con, con được hưởng chút lợi lộc và niềm ngưỡng mộ, để Người thấy rằng con thành thật chứ chẳng hứa suông. Xin Chúa hãy cho con đạt được niềm mong ước ấy, amen!”

Song không hiểu sao càng cầu nguyện, niềm mộ đạo trong tim chàng càng nhạt đi. Chàng bèn hứa thêm một điều nữa: sau khi chuộc lại trang Bogdaniec, chàng xin hiến nhà thờ toàn bộ sáp ong thu được trong cả năm. Chàng mong là ông Maćko sẽ không phản đối, và Chúa Giêsu hẳn sẽ vui mừng khi có sáp làm nến thắp dâng Người. Mà muốn chóng có nến thì xin Chúa hãy giúp chàng thật nhanh. Chàng thấy suy nghĩ ấy quả là sòng phẳng, và lòng chàng tràn đầy vui sướng. Chàng vững tin rằng lời cầu nguyện kia sẽ được Chúa nghe thấu, và cuộc chiến chẳng bao lâu nữa nhất định sẽ bùng nổ, còn nếu không, chàng vẫn có cách chứng minh sức mạnh của chàng. Tay chân chàng ngứa ngáy quá, lúc này đây chàng sẵn sàng một mình một ngựa lao vào đánh cả một chiến đoàn [72] . Và rồi chàng nghĩ: nếu đã hứa thêm với Chúa, cũng nên hứa thêm với Danusia hai thằng Đức nữa! Lòng nhiệt tình hừng hực của tuổi trẻ suýt khiến chàng hứa thêm như thế, nhưng may thay, lần này sự chín chắn thận trọng đã thắng thế: chàng sợ rằng đòi hỏi quá mức có thể xúc phạm lòng nhẫn nại của Chúa chăng!

Sau lễ misa và một khoảng nghỉ khá lâu, niềm tin của chàng càng tăng thêm khi trong bữa sáng, chàng nghe được câu chuyện giữa đan viện phụ với quận chúa Anna Danuta.

Thời ấy, do lòng mộ đạo và những món quà tặng hậu hĩnh mà các lãnh binh và đại thống lĩnh của Giáo đoàn Thánh chiến không tiếc dâng hiến, phu nhân của các vị quận công và vua chúa tỏ ra rất thân thiện với các hiệp sĩ của Giáo đoàn. Khi nào hoàng hậu Jadwiga thánh thiện còn đó, bà vẫn thường kìm giữ cánh tay vị phu quân đầy quyền uy những khi ông định chống lại Giáo đoàn. Chỉ mỗi mình quận chúa Anna Danuta - người bị chúng gây bao điều xúc phạm ghê gớm cho gia đình - là căm thù chúng. Vì vậy, khi đan viện phụ hỏi thăm về tình hình vùng Mazowsze, bà liền cay đắng lên án Giáo đoàn:

- Làm gì có chuyện tốt đẹp dành cho vương quốc khi có những vị láng giềng như vậy, thưa cha? Bây giờ vẫn là thời bình đấy, các sứ đoàn mang thông điệp vẫn thường xuyên được trao đi đổi lại, nhưng chẳng giờ nào ngày nào được sống an toàn, yên ổn. Nơi vùng biên ải, chúng tôi ban đêm ngả lưng ngủ mà không dám tin ngày mai tỉnh dậy sẽ không bị cùm trói, sẽ không có mũi kiếm nào gí vào cổ, sẽ không có một vòm lửa rừng rực trên đầu… Những lời thề nguyện, các thứ ấn triện lẫn văn thư ghi trên giấy da cừu đều chẳng thể bảo đảm cho người ta không bị phản bội. Thì chuyện ở thành Zlotoryja đó, ngay giữa thời buổi yên bình mà bọn chúng vẫn ngang nhiên bắt giam quận công chúng tôi. Bọn Thánh chiến bảo rằng tòa thành ấy có thể gây nguy hiểm cho chúng. Nhưng người ta củng cố thành trì là để tự vệ chứ đâu phải để tấn công? Và chẳng lẽ các quận công không có quyền xây dựng hoặc sửa chữa thành trì trên chính đất đai của mình nữa sao? Cả kẻ yếu lẫn người mạnh đều không làm Giáo đoàn vừa ý. Kẻ yếu thì chúng khinh thường, người mạnh thì chúng đố kỵ, cố làm cho suy sụp. Ai làm điều thiện với chúng, chúng đáp trả bằng điều ác. Trên thế gian này, liệu có giáo đoàn nào được hưởng những quyền lợi như chúng được hưởng nhờ ân huệ của các quận công Ba Lan hay chăng? Thế mà chúng đã đền đáp bằng cái gì? Bằng lòng thù hận, bằng những cuộc chiến tranh và bằng sự phản bội. Ta chỉ phí công kêu ca, chỉ phí công lên án chúng, ngay tại nơi thủ đô của các sứ đồ, bởi vốn quen với lạc thú và sự ngang ngược, bọn chúng chẳng thèm vâng lời một ai kể cả Giáo hoàng Roma. Bây giờ, tuy ngoài mặt chúng vẫn cử sứ đoàn đến dự lễ đặt tên cho ấu chúa, nhưng trong lòng chúng chỉ ngấm ngầm mong vua ta nguôi cơn giận trước những gì chúng đã gây ra tại Litva đó thôi. Tận trong đáy lòng, chúng chỉ nghĩ tìm cách tiêu diệt vương quốc chúng ta cùng toàn thể các bộ tộc Ba Lan mà thôi.

Đan viện phụ chăm chú lắng nghe, đầu gật gật, rồi nói:

- Tôi có biết, lãnh binh Lichtenstein dẫn đầu đoàn sứ giả đã tới Kraków. Đó là một đồng đạo rất được tín nhiệm trong Giáo đoàn Thánh chiến, vì dòng dõi cao sang, vì lòng can trường và sự quảng trí. Thưa lệnh bà, rất có thể không bao lâu nữa lệnh bà sẽ giáp mặt ông ta tại đây, bởi hôm qua ông ta đã gửi tin báo cho tôi hay là sẽ ghé thăm Tyniec để được cầu nguyện trước các thánh tích của chúng tôi.

Nghe thấy thế, quận chúa bèn tiếp tục ta thán:

- Người ta bảo - mà cũng có thể đúng vậy - rằng sắp nổ ra một cuộc chiến tranh lớn, một bên là vương quốc Ba Lan cùng tất cả những dân tộc có tiếng nói giống chúng ta, còn bên kia là bọn Đức và Giáo đoàn. Hình như đã từng có lời tiên tri của một vị thánh nữ nào đó về cuộc chiến này thì phải…

- Dạ, đó là Thánh nữ Brygida [73] . - Đan viện phụ thông tuệ cắt ngang. - Tám năm trước đây, bà được liệt vào hàng các thánh. Các nhà Piotr xứ Alwaster và Maciej xứ Linkoping đã từng ghi lại những lần mặc khải của bà. Trong những lần ấy, bà quả có tiên báo một cuộc đại chiến sắp xảy đến.

Zbyszko rùng mình vì vui sướng khi nghe những lời đan viện phụ nói. Không kìm nổi lòng mình, chàng bật lên hỏi:

- Thế đã sắp chưa ạ?

Nhưng đan viện phụ đang quá mải mê trò chuyện nên không nghe thấy, hoặc ông vờ như không nghe câu hỏi của chàng.

Quận chúa nói tiếp:

- Các hiệp sĩ trẻ tuổi của chúng tôi rất vui mừng đón chào cuộc chiến tranh ấy. Những người có tuổi chín chắn hơn thì bảo: “Chúng tôi chẳng sợ gì bọn Đức, dẫu thế lực và lòng kiêu hãnh của chúng thật ghê gớm, cũng chẳng kinh sợ giáo gươm của chúng, nhưng chỉ e các thánh tích chúng có được mà thôi, bởi không sức người nào có thể chống lại những thánh tích ấy.”

Nói đến đây, quận chúa Anna Danuta đưa mắt e sợ nhìn đan viện phụ, rồi bà hỏi, giọng khẽ hẳn xuống:

- Hình như bọn chúng có được cả một thanh gỗ đích thực của cây thánh giá thiêng liêng thì phải. Làm sao ta có thể địch nổi chúng kia chứ?

- Chính vua Pháp đã gửi vật đó đến cho chúng. - Đan viện phụ đáp.

Một hồi lâu im lặng bao trùm, sau đó ông Mikołaj xứ Dlugolas biệt hiệu Lưỡi Việt Phủ, một người từng trải và dày dạn kinh nghiệm, lên tiếng:

- Tôi đã từng bị giam ở bên chỗ bọn Thánh chiến, đã thấy những buổi lễ rước thánh tích vĩ đại ấy. Ngoài thứ đó ra, tại tu viện ở Oliwa còn nhiều thứ thánh tích thiêng liêng vô cùng nữa, không có những thứ đó chắc Giáo đoàn không tài nào có thể hùng mạnh nhường kia.

Nghe ông nói, các đan sĩ dòng Benedyktyn đều vươn cổ về phía ông, hỏi tới tấp, vẻ rất tò mò:

- Xin ngài hãy kể xem đó là những gì vậy?

- Đó là một dải vải lấy từ chính áo choàng của Đức Mẹ Đồng Trinh Tối Linh, - vị trang chủ xứ Dlugolas đáp, - đó là một chiếc răng hàm của chính Thánh nữ Maria Magdalena, một mẩu củi cháy dở rút từ chính đám lửa nơi Đức Chúa Cha hiện hình cho Mojzesz được thấy, là bàn tay của Thánh Liberiusz, còn các xương cốt của những vị thánh khác thì dẫu có đếm hết các đốt ngón tay ngón chân cũng không thể tính xuể…

- Thế thì làm sao địch nổi chúng đây? - Quận chúa thở dài lặp lại.

Đan viện phụ nhăn vầng trán cao vòi vọi, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi thong thả thốt lên:

- Đánh nhau với chúng quả là khó, vì dẫu sao chúng cũng là những kẻ tu hành mang dấu thánh giá trên áo choàng. Nhưng nếu chúng sa đà trong tội lỗi, những thánh tích kia sẽ thấy hổ thẹn khi phải ở bên chúng. Khi ấy, không những không tiếp sức cho chúng, các thánh tích ấy sẽ tước bớt sức lực chúng đi, để được chuyển sang những bàn tay mộ đạo thánh thiện hơn. Xin Chúa hãy chở che cho dòng máu Ki-tô, nhưng nếu chiến tranh nổ ra thì ở vương quốc chúng ta đây cũng có những thánh tích thiêng liêng sẽ vì chúng ta mà tham gia chiến trận. Giọng nói thánh linh lên tiếng trong mặc khải của Thánh nữ Brygida có nói rằng: “Ta đã để cho chúng làm những con ong hữu ích, ta đã dùng chúng để củng cố bờ cõi của nước Chúa. Nhưng giờ chúng chống lại ta, chúng chẳng hề chăm chút linh hồn, chẳng thương tiếc thân xác những kẻ từ bỏ lầm lỗi trở về với lòng tin Ki-tô, về với ta. Chúng biến họ thành nô lệ, không chịu dạy bảo họ những lời phán truyền của Đức Chúa Cha, tước đi của họ lễ rửa tội thiêng liêng, đày họ vào những cực hình hỏa ngục khốn khổ hơn cả khi họ còn theo tà giáo. Chúng gây chiến để thỏa lòng tham khôn cùng. Vì vậy sẽ đến ngày nanh vuốt chúng bị bẻ gãy, tay phải chúng bị chặt lìa, chân phải chúng bị thọt hẫng, để chúng nhận thấy tội lỗi đã phạm.”

- Cầu Chúa ban cho được thế! - Zbyszko thốt lên.

Những hiệp sĩ và đan sĩ khác cũng rất phấn chấn khi nghe lời tiên báo. Đan viện phụ quay sang phía quận chúa, nói:

- Vì vậy, xin lệnh bà cứ vững tin nơi Chúa, bởi những ngày sống của chúng sẽ chóng được tính sổ hơn những ngày sống của lệnh bà. Và bây giờ, lệnh bà hãy làm ơn nhận chiếc hộp có một ngón chân của Thánh Ptolomeusz này, một trong các thánh bổn mạng hằng che chở cho đan viện chúng tôi.

Quận chúa chìa đôi tay run run vì sung sướng, quỳ xuống đón nhận chiếc hộp thiêng, rồi đưa lên môi hôn. Đám cung nhân và thị nữ cũng chia sẻ cùng niềm vui với quận chúa, bởi không một ai dám nghi ngờ những ân phước và điều lành mà món quà tặng kia sẽ mang lại cho tất thảy mọi người, cho toàn công quốc. Lòng Zbyszko sung sướng lâng lâng, bởi chàng cảm thấy chiến tranh sắp bùng nổ, ngay sau những ngày lễ trọng thể tại Kraków mà thôi.