Chương 5
Hôm sau, cả hai hiệp sĩ trang Bogdaniec cùng hiệp sĩ Powała tới nhà thờ dự giờ kinh sáng, phần để cầu nguyện, phần để được ngắm nghía đám tân khách và triều thần tụ tập nhau trước khi vào cung. Dọc đường, hiệp sĩ Powała gặp khá nhiều người quen, trong đó có những trang hiệp sĩ lẫy lừng danh tiếng khắp trong và ngoài nước, Zbyszko tròn mắt ngắm họ, lòng thầm hứa nếu chuyện đụng độ với Lichtenstein được xuôi chèo mát mái thì thế nào chàng cũng quyết vươn lên sánh bằng họ về sự uy dũng và các phẩm hạnh hiệp sĩ khác mới cam. Hiệp sĩ Toporczyk [86] , một người có họ với viên trấn thành Kraków [87] , kể lại chuyện cha Wojciech Jastrzębiec [88] vừa từ Roma trở về sau khi mang tín thư của đức vua sang gặp Giáo hoàng Roma Bonifacy IX mời Đức Giáo hoàng sang dự lễ rửa tội. Đức Giáo hoàng đã nhận lời mời, tuy cũng bày tỏ nỗi e ngại không hiểu có đích thân sang dự được không. Người đã ủy thác cho một thánh sứ nhân danh Giáo hoàng đến và lưu lại kinh thành Kraków cho đến lúc làm lễ rửa tội cho ấu chúa sắp chào đời, đồng thời người cũng đề nghị cho ấu chúa được mang tên thánh là Bonifacy hay Bonifacja, để minh chứng cho tình yêu mến đặc biệt của người đối với đức vua và hoàng hậu.
Người ta kháo nhau về chuyến viếng thăm sắp tới của vua Hungary Zygmunt, họ tin chắc thể nào cũng được gặp nhà vua lần này, bởi lẽ dầu có được mời hay không thì vua Zygmunt bao giờ cũng có mặt mỗi khi có dịp được thăm viếng, tiệc tùng hay hội võ - những cuộc vui mà nhà vua rất thích tham dự, bởi ngài khao khát được nức tiếng thế gian là một vị quân vương kiêm ca sĩ và hiệp sĩ uy vũ hàng đầu. Các hiệp sĩ Powała, Zawisza xứ Garbów, Dobko xứ Oleśnica, Naszan và những trang hiệp khách tầm cỡ khác đều cười khi nhắc lại chuyện hồi nào vì có mặt vua Zygmunt mà đức vua Władysław đã phải nhắc khẽ họ là khi thi đấu chớ có quá mạnh tay mà phải nương nhẹ cho “vị thượng khách người Hung”, người nổi tiếng vì tính hiếu thắng phù phiếm, đến mức nếu thua kém là ứa nước mắt khóc liền.
Nhưng việc khiến giới hiệp sĩ quan tâm nhất là chuyện đại quận công Witold. Người ta đồn đại biết bao điều kỳ diệu về sự tuyệt vời của chiếc nôi đúc bằng bạc ròng - tặng vật mà các hiệp khách và tráng sĩ Litva mang về đây tặng ấu chúa thay mặt cho đại quận công Witold và nàng Anna vợ ông [89] . Những người tụ tập như thường lệ trước giờ kinh sáng kể cho nhau nghe biết bao chuyện mới mẻ. Trong đám người ấy, khi nghe bàn tán về chiếc nôi, ông Maćko cũng lên tiếng tham gia, mô tả tỉ mỉ sự quý giá của món quà tặng ấy. Nhưng ông nói nhiều hơn về cuộc viễn chinh mà đại quận công Witold dự định tiến hành để chống bọn rợ Tatar khi được người ta hỏi về chuyện ấy. Cuộc viễn chinh hầu như đã được chuẩn bị sẵn sàng cả rồi, những đạo quân đông đảo đã lên đường tiến sang miền Đông Nga.
Nếu cuộc chiến này thành công, thì miền đất do đức vua Jagiełło trị vì sẽ trải dài cả nửa phần thế giới, đến những miền đất bí ẩn chưa từng được biết đến ở Á châu, đến tận biên giới Ba Tư và bờ biển Aran [90] . Ông Maćko là người từng thân cận, nắm được những ý định của Witold, lại biết thuật chính xác và hấp dẫn đến nỗi trước khi nhà thờ thỉnh chuông gọi giờ kinh sớm, bên những bậc thềm của nhà thờ đã có một đám đông háo hức vây quanh ông.
- Đây là một cuộc thập tự chinh vì danh Chúa. - Ông nói. - Đại quận công Witold, dẫu được người đời ngợi ca là một vị quân vương vĩ đại, thực ra cũng chỉ là người cai quản đất Litva theo lệnh đức vua Jagiełło, chỉ là một vị vương thừa hành ý chỉ của đức vua ta mà thôi. Cho nên công tích chính vẫn là của đức vua. Sẽ hiển vinh biết bao cho đại công quốc Litva vừa được rửa tội, cho sự hùng cường của Ba Lan, nếu liên quân hai nước dựng được thánh giá tại những miền mà từ trước đến nay nếu người ta có nhắc đến tên Chúa Cứu Thế thì chỉ là để phỉ nguyền, những miền mà cho tới nay chưa hề có bàn chân người Ba Lan hay Litva nào đặt tới. Vua Tochtamysz [91] bị xua đuổi nếu được liên quân Ba Lan và Litva đưa trở lại ngai vàng Kipczak [92] sẽ tự nguyện thừa nhận là “thần tử” của đức vua Władysław và hứa rằng sẽ cùng toàn thể chúng dân Trại Vàng chịu quy phục thánh giá.
Người ta lắng nghe lời ông nói, nhưng đa số thực ra không hiểu thật rõ sự tình là thế nào, đại quận công Witold phải giúp ai, ngài đấy quân chống lại ai. Vì vậy, một số người cất tiếng hỏi lại ông:
- Xin ngài hãy nói rõ hơn xem đánh nhau với ai vậy?
- Với ai ư? Với chính Tymur Thọt [93] đấy! - Ông Maćko đáp.
Im lặng bao trùm. Quả thực, dẫu đã bao lần những cái tên vương quốc Trại Vàng, Trại Xám, Trại Azop và đủ mọi thứ vương quốc Nguyên Mông khác vang đến tai giới hiệp sĩ phương Tây, nhưng họ không thạo chuyện dân Tatar và những cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn giữa các vương quốc ấy với nhau. Song khắp châu Âu có lẽ sẽ không tìm nổi một kẻ nào không biết danh tiếng Tymur Thọt, tức Tamerlan Bạo Chúa, cái tên mà mỗi khi nghe đến, người ta cảm thấy hãi hùng không kém tên tuổi của bạo chúa Attyla [94] xưa kia. Đó quả là vị “chúa tể” của thế gian, “chủ nhân” của mọi thời đại, kẻ thống trị hai mươi bảy vương quốc đã bị hắn chinh phục, chúa tể của vùng đất Nga thuộc Moskva, chúa tể vùng Sibir, cả Trung Hoa, Ấn Độ, lẫn Bagdad, Ispahan, Aleppu, Damaszk, kẻ mà bóng đen trùm lên cả vùng cát trắng của sa mạc Ả Rập, che phủ kín đất Ai Cập và vượt qua eo biển Bosphor de dọa cả vương quốc Hy Lạp, một kẻ tận diệt loài người, một con quỷ chuyên dựng nên những kim tự tháp bằng xương sọ người, kẻ đã thắng mọi cuộc chiến tranh, vị “chúa tể cả linh hồn lẫn thể xác” của người đời, chưa từng biết thế nào là thua trận.
Tochtamysz được hắn đặt lên ngai vàng của vương quốc Trại Vàng và Trại Xám, và được gọi là “thần tử”. Nhưng khi vùng đất do y cai quản đã trải dài từ biển Aran đến tận Krym, đã rộng hơn đất của toàn bộ phần châu Âu còn lại, kẻ “thần tử” lại muốn trở thành một vị chúa tể độc lập - ý tưởng mà chỉ cần dùng một ngón tay, người “cha” khủng khiếp kia đã khiến cho y bay mất ngai vàng, phải chạy sang nhờ đại quận công xứ Litva cứu giúp. Chính y là người đại quận công Witold định đưa về nước. Nhưng muốn thế, trước tiên phải đọ sức với vị chúa tể Thọt của thế gian đã.
Tên của Tymur Thọt đã gây cho mọi người ấn tượng rất mạnh. Sau hồi lâu im lặng, một trong những vị hiệp sĩ tuổi tác nhất, ông Wojciech xứ Jaglowo, lên tiếng:
- Việc này động đến một kẻ chẳng vừa đâu.
- Mà lại dính đến một chuyện quá ư vớ vẩn. - Hiệp sĩ Mikołaj xứ Dlugolas sáng suốt lên tiếng. - Đã ở cách xa ta mười tổng, thì dù gã Tochtamysz hay một thằng Kutluk [95] cha căng chú kiết nào đó cai trị lũ con cháu của quỷ dữ chăng nữa, cũng có can hệ gì đến chúng ta?
- Tochtamysz có thể sẽ chịu quy thuận đạo Ki-tô. - Ông Maćko đáp.
- Có thể quy thuận mà cũng có thể không. Sao ta lại có thể tin lời lũ chó vô đạo đã không chịu tôn thờ Đức Chúa Ki-tô kia chứ?
- Nhưng vì sự nghiệp sáng danh của Ki-tô thì thà có chết cũng cam lòng! - Hiệp sĩ Powała lên tiếng.
- Vì danh dự hiệp sĩ nữa chứ! - Hiệp sĩ Toporczyk, một người có họ với viên trấn thành, nói thêm. - Trong đám chúng ta đây, nào thiếu gì những người sẵn sàng ra đi vì nghĩa lớn. Hiệp sĩ Spytko xứ Melsztyn tuy có người vợ trẻ rất yêu chiều, nhưng cũng đã đến với đại quận công Witold rồi đấy.
- Bởi cũng chẳng có gì lạ, - hiệp sĩ Jaśko xứ Naszan cắt ngang, - dầu linh hồn anh có mang trọng tội nặng nề nhất đi nữa, thì sau cuộc chiến tranh này, chắc chắn anh vẫn được giải tội để siêu thoát kia mà. [96]
- Và còn được sáng danh đời đời nữa chứ. - Hiệp sĩ Powała xứ Taczew lại nói tiếp. - Chiến tranh nào chẳng là chiến tranh. Được đánh nhau với những tay không vừa lại càng hay chứ sao. Tymur đã đánh chiếm cả thế gian, hắn có cả thảy hai mươi bảy vương quốc chư hầu dưới tay. Sẽ vinh quang biết bao cho dân tộc ta nếu đánh được hắn.
- Sao lại không thắng? - Hiệp sĩ Toporczyk tiếp lời. - Dẫu hắn có trong tay cả trăm vương quốc đi nữa, dẫu ai sợ hắn mặc lòng, chứ chúng ta thì không! Ông nói phải lắm! Hãy kêu gọi chừng mười ngàn tay thiết kỵ trường thương giỏi giang, chúng ta sẽ băng qua khắp thế gian cho xem!
- Dân tộc nào sẽ chinh phục nổi thằng Thọt nếu không phải là dân tộc ta?…
Các vị hiệp sĩ cứ thế bàn nhau, khiến Zbyszko đâm ngạc nhiên tự hỏi tại sao từ trước, chưa bao giờ chàng khao khát được cùng đại quận công Witold tiến quân vào những miền thảo nguyên hoang đã kia… Hồi ở thành Wilno, chàng chỉ muốn được đến kinh thành Kraków, được thấy triều đình, được đua tài trong các cuộc đấu, còn bây giờ chàng nghĩ rằng nơi đây chỉ có thể mang lại cho chàng niềm tủi hổ và bản án, trong khi nơi kia nếu tồi tệ nhất cũng mang đến cho chàng cái chết đầy vinh quang và ngợi ca…
Nhưng Wojciech, vị hiệp sĩ trăm tuổi xứ Jaglowo, cổ đã run rẩy vì tuổi tác, nhưng trí óc thì vẫn rất minh mẫn, xứng đáng với tuổi thọ của mình - đã giội một gáo nước lạnh vào niềm hăng say của đám hiệp sĩ:
- Các anh dốt lắm! - Cụ bảo. - Thế ra trong các anh không ai nghe nói đến chuyện chính hình Đức Chúa Ki-tô trên bàn thờ đã cất lời trò chuyện với hoàng hậu của ta hay sao [97] ? Và một khi Đấng Cứu Thế đã thân mật với bà như thế thì lẽ đâu Đức Chúa Thánh Thần, ngôi thứ ba trong ba ngôi, lại kém phần ưu ái bà cho được? Cũng vì thế, hoàng hậu đã nhìn thấu suốt bao việc tương lai, như thể chúng diễn ra ngay trước mắt bà vậy, bà nói thế này…
Đến đây, cụ ngừng lời hồi lâu, đầu lúc lắc, mãi sau mới nói:
- Ta quên mất điều hoàng hậu nói rồi, nhưng chỉ lát nữa ta sẽ nhớ ra thôi.
Vị lão trượng cố căng óc nhớ lại, các hiệp sĩ chăm chú chờ, bởi lẽ người ta đồn rằng hoàng hậu là người thấy trước những điều hậu vận.
- A! - Mãi sau cụ mới thốt lên. - Ta nhớ ra rồi! Hoàng hậu bảo rằng giá như cả giới hiệp sĩ chốn đây cùng lên đường với đại quận công Witold đi đánh gã Thọt, thì bọn ngoại đạo sẽ bị tan tành. Nhưng không thể làm điều đó vì tính gian ngoan của các vua chúa theo Ki-tô giáo. Chúng ta còn phải canh giữ biên cương, đề phòng cả bọn Séc, bọn Hung lẫn bọn Thánh chiến, không thể tin được bất kỳ ai. Mà nếu như chỉ có một nhúm người Ba Lan đi với đại quận công Witold thì Tymur Thọt hoặc các viên thống đốc của y với hàng hà sa số quan hắc ám sẽ đánh bại họ ngay…
- Bây giờ đang buổi thanh bình, - hiệp sĩ Toporczyk thốt lên, - ngay cả quân Giáo đoàn hình như cũng đang đánh giúp cho đại quận công Witold kia mà. Vả lại, bọn Thánh chiến cũng không thể làm khác thế, dẫu chỉ vì hổ thẹn trước Đức Giáo hoàng, bởi chúng muốn tỏ cho ngài rằng chúng sẵn sàng đánh nhau chống lại bọn ngoại đạo. Nhiều vị triều thần bảo rằng gã Kuno Lichtenstein đến đây không chỉ để dự lễ hội mà còn để tham nghị cùng đức vua ta nữa đấy…
- Chính hắn kia kìa! - Ông Maćko ngạc nhiên kêu lên.
- Phải rồi! - Hiệp sĩ Powała ngoái nhìn rồi nói. - Lạy Chúa, chính hắn đấy! Hắn lưu lại chỗ đan viện phụ mới ngắn chứ! Chắc hắn rời Tyniec từ đêm qua.
- Hắn có vẻ vội vàng lắm hay sao ấy. - Ông Maćko rầu rĩ nói.
Kuno Lichtenstein lướt qua ngay cạnh họ. Ông Maćko nhận ra hắn qua hình thánh giá khâu bên ngoài áo choàng, còn hắn không nhận ra ông và Zbyszko vì hôm qua hắn chỉ thấy họ lúc họ đang đội mũ trụ, mà khi hiệp sĩ đang đội mũ chiến thì dầu có bỏ tấm che mặt đi, người ngoài cũng chỉ có thể nhìn thấy một phần nhỏ khuôn mặt mà thôi. Đi ngang qua, hắn gật đầu chào hiệp sĩ Powała xứ Taczew và hiệp sĩ Toporczyk, rồi cùng đám tùy tùng đặt chân bước lên những bậc thềm dẫn vào nhà thờ chánh xứ với những bước trang nghiêm, đường bệ.
Đúng lúc ấy, tiếng chuông vang lên báo hiệu giờ kinh sáng sắp bắt đầu, khiến những đàn quạ nhỏ và bồ câu làm tổ trong tháp chuông giật mình hoảng sợ. Ông Maćko cùng Zbyszko và mọi người bước vào nhà thờ, lòng thầm lo lắng bởi sự xuất hiện quá sớm của Lichtenstein. Vị hiệp sĩ lớn tuổi có phần lo lắng nhiều hơn, bởi lẽ tâm trí chàng hiệp sĩ trẻ lúc này đang bị cuốn hút bởi cảnh tượng các đình thần. Trong đời, chưa bao giờ Zbyszko được thấy tận mắt một thứ gì tuyệt vời như ngôi nhà thờ chánh xứ này cùng đám người tụ tập trong đó. Vây quanh chàng, cả bên trái lẫn bên phải đều là những con người danh tiếng nhất của vương quốc, lừng danh trong thương thuyết hay trong chiến trận. Tuy nhiều người đã qua đời trong số những bậc thông thái đã tác thành cuộc nhân duyên giữa đại quận công Litva với nữ vương xinh đẹp và trẻ trung của Ba Lan, nhưng nhiều vị vẫn còn sống, được mọi người ngưỡng mộ với lòng tôn kính khác thường. Chàng hiệp sĩ trẻ tuổi ngắm không chán mắt dung mạo tuyệt vời của hiệp sĩ Jaśko xứ Tęczyn, vị trấn thành Kraków, cái dung mạo hài hòa giữa vẻ khắc khổ và sự trang nghiêm đường bệ. Chàng thầm thán phục những vẻ mặt thông tuệ và bình tĩnh của các ủy viên hội đồng thành phố cùng vẻ tráng kiệt lẫm liệt uy nghi của các vị hiệp sĩ, với mái tóc trước trán thường được xén bằng bên trên hàng lông mày, hai bên đầu và sau lưng lại rủ thành những cuộn buông dài. Một vài người mang mao mạng trên tóc, số khác chỉ buộc những dải vải cho gọn. Khách khứa ngoại quốc, các sứ thần của hoàng đế Thánh chế La Mã, Séc, Hung và Áo cùng đoàn tùy tùng làm người ta ngạc nhiên bởi vẻ trang trọng khác vời của phục trang. Các quận công và tráng sĩ Litva trong đoàn ngự vệ - để cho thêm phần long trọng - vẫn khoác nguyên những chiếc áo dài lót lông thú quý, mặc dù bấy giờ đang giữa tiết hè nóng nực. Các quận công Nga, trong những chiếc áo dài cứng dơ, rộng xòe xoẹt, nổi bật trên nền các bức tường và những thứ đồ dát vàng choáng lộn của nhà thờ, nom hệt như những bức tranh Byzantine [98] . Song Zbyszko háo hức đón chờ nhất lúc đức vua và hoàng hậu xuất hiện. Chàng cố len để có thể đến thật gần hàng ghế đầu, phía trước đó, gần bàn thờ, có đặt hai chiếc gối bằng nhung đỏ, nơi vua và hoàng hậu thường quỳ khi nghe đọc kinh lễ misa. Chàng không phải đợi lâu: đức vua vào trước theo cửa ra vào phía phòng áo lễ. Trong lúc đức vua tiến lại phía bàn thờ, chàng có thể ngắm ngài rất rõ. Tóc ngài đen, hơi rối, đã thưa thớt phía trên trán, đằng sau xõa dài, hai bên thái dương được giắt vào sau vành tai. Mặt ngài ngăm ngăm, râu ria cạo nhẵn, sống mũi gồ, khá nhọn, bên mép có những nếp nhăn li ti, với đôi mắt đen, nhỏ, rất sáng, ánh mắt nhìn khắp mọi phía như thể ngài đang muốn điểm mặt những người đang ở trong nhà thờ trước khi đến quỳ trước bàn thờ Chúa, vẻ mặt ngài nhân hậu nhưng đầy cảnh giác, đó là vẻ mặt của một người gặp thời được đưa lên chỗ cao sang, vượt xa những điều mơ tưởng, buộc phải thường xuyên giữ gìn cho hành vi tương xứng với cương vị; vẻ mặt một người luôn luôn lo ngại đề phòng những lời chỉ trích ác ý. Cũng vì thế, nét mặt và cử chỉ của đức vua như luôn toát ra vẻ nóng nảy, sốt ruột. Dễ đoán được rằng những cơn nóng giận của ngài thường bùng ra đột ngột và khủng khiếp. Đức vua vẫn là vị đại quận công xưa kia, đã có lúc vì quá bực mình trước những hành động đểu giả của bọn Thánh chiến mà phải quát mắng đám sứ thần của Giáo đoàn: “Các ngươi mang thư viết trên giấy da cừu đến gặp ta, còn ta sẽ cầm giáo sang gặp các ngươi đấy!”
Nhưng lúc này, tính nóng nảy bẩm sinh bị lòng mộ đạo lớn lao và chân thành kiềm chế. Không riêng các quận công Litva vừa được cải đạo, ngay những vị vương hầu mộ đạo từ thời cụ kị ông bà cũng thêm kiên tín khi thấy đức vua cầu nguyện trong nhà thờ Chúa. Đức vua thường dẹp bỏ gối kê chân, quỳ ngay xuống sàn đá trần trụi để tăng thêm phần hành xác. Khi cầu nguyện, tay ngài thường giơ cao lên trời và cứ giữ nguyên như thế cho đến khi chúng tự đổ xuống vì quá mỏi. Ngày ngày, đức vua lắng nghe không dưới ba buổi lễ misa, chăm chú nuốt từng lời. Thời điểm mở li thánh tửu và tiếng chuông trầm bổng lúc thăng thiên bao giờ cũng khiến tâm hồn đức vua tràn ngập những cảm giác phấn hứng, thán phục, ngưỡng mộ và kính sợ sâu xa. Khi lễ misa kết thúc, đức vua bước ra khỏi nhà thờ như vừa tỉnh một giấc mơ êm ái hiền hòa, và đã từ lâu đám đình thần biết rằng đó là lúc dễ cầu xin ngài tha tội hoặc ân thưởng nhất.
Hoàng hậu Jadwiga cũng bước vào nhà thờ qua cửa phía phòng áo lễ. Trông thấy hoàng hậu, những vị hiệp sĩ đứng gần hàng ghế đầu hơn cả lập tức quỳ xuống, mặc dù lễ misa chưa bắt đầu, bất giác họ chào đón hoàng hậu như đón chào một nữ thánh. Zbyszko cũng vậy. Trong cả đám người tụ tập nơi đây, không có ai nghi ngờ rằng trước mặt họ không phải là một vị nữ thánh, mà về sau này, cùng với thời gian, hình ảnh của bà sẽ được dùng để tô điểm thêm cho bàn thờ Chúa. Nhất là từ vài năm gần đây, cuộc sống khổ hạnh chay tịnh theo kiểu hành xác khắc khổ của hoàng hậu Jadwiga đã khiến cho ngoài lòng tôn kính sẵn có đối với một vị đương kim hoàng hậu, người ta còn dành cho bà lòng sùng mộ gần như tôn giáo. Đám quan lại và chúng dân truyền tụng về những phép mầu mà hoàng hậu đã thực hiện. Người ta dồn rằng chỉ cần bà chạm tay vào người là chữa khỏi bệnh cho kẻ ốm, những ai teo liệt chân tay lại khỏe mạnh như thường sau khi khoác những tấm áo cũ của hoàng hậu. Nhiều nhân chứng đáng tin cam đoan rằng chính tai họ đã được nghe có lần Đức Chúa Ki-tô từ trên bàn thờ đã cất tiếng nói với hoàng hậu.
Các quận công ngoại quốc cũng phải quỳ xuống ngưỡng mộ bà, thậm chí các hiệp sĩ của Giáo đoàn Thánh chiến cứng lòng là thế cũng phải tôn kính, không hề dám xúc phạm hoàng hậu. Giáo hoàng Bonfinacy gọi bà là thánh hậu và là con gái yêu của Giáo hội. Cả thế gian luôn dõi theo mọi hành động của bà và luôn nhớ rằng bà là con đẻ của cả dòng họ Andegawenski [99] lẫn dòng họ Piast [100] của Ba Lan, rằng bà là con gái của vua Ludwik hùng cường [101] , đứa trẻ yêu quý của chốn cung đình cao sang nhất, và sau rốt - bà là nàng công chúa xinh đẹp nhất trong số các trinh nữ trên trái đất đã dám khước từ hạnh phúc riêng tư, khước từ tình yêu trinh nữ đầu tiên [102] của mình để trở thành hoàng hậu của một vị quận công “man di” xứ Litva, cùng với ông đưa dân tộc ngoại đạo cuối cùng của châu Âu quỳ xuống dưới chân thánh giá. Điều mà sức mạnh của cả dân Đức, thế lực của Giáo đoàn Thánh chiến, những cuộc thập tự chinh và cả biển máu đã đổ ra không làm được, thì chỉ cần một lời nói của bà là xong. Chưa bao giờ vinh quang của bậc sứ đồ lại soi sáng một vầng trán trẻ trung và xinh đẹp nhường ấy, chưa bao giờ sứ mệnh của thánh tông đồ gắn liền với sự hy sinh lớn lao nhường ấy, chưa bao giờ vẻ đẹp trinh nữ lại chói ngời rực rỡ bởi một tấm lòng nhân hậu thiên thần cùng một nỗi u hoài hiền dịu nhường kia. Bao ca công lang thang từng cất tiếng hát ngợi ca hoàng hậu khắp các triều đình châu Âu. Bao hiệp sĩ từ những miền đất xa xôi nhất tụ hội về kinh thành Kraków để được thấy mặt vị hoàng hậu của dân tộc Ba Lan. Dân tộc đã sản sinh ra hoàng hậu yêu quý nâng niu bà như giữ gìn con ngươi mắt, bởi thông qua mối lương duyên với vua Jagiełło, hoàng hậu đã nhân lên gấp bao lần sự hùng mạnh và áng vinh quang của dân tộc ấy. Duy chỉ có một điều lo âu lớn đè nặng lên hoàng hậu và toàn dân - đó là việc suốt nhiều tháng năm dài, Đức Chúa vẫn chưa chịu ban cho đứa con yêu quý của Người niềm hạnh phúc được có kẻ nối dõi.
Nhưng rốt cuộc, khi nỗi bất hạnh kia qua đi thì tin vui về ơn Thiên Chúa đã như tia chớp lan nhanh khắp từ biển Baltic đến Biển Đen, lan sang tận bên kia dãy Carpat, làm hởi lòng hởi dạ toàn thể thần dân của quốc gia khổng lồ này. Trừ kinh đô của Giáo đoàn Thánh chiến ra, còn hầu khắp các triều đình ngoại quốc đều vui mừng, ở Roma, người ta hát bài kinh đầu Te Deum [103] mừng bà. Trên đất Ba Lan này, mọi người đều tin chắc một điều là nếu như thánh hậu đã cầu xin Đức Chúa điều gì thì điều đó nhất định sẽ xảy đến, không thể khác được.
Vì vậy, người ta thường xin vào bệ kiến hoàng hậu để cầu xin bà ban cho sức khỏe. Tín sứ từ các tổng và trấn [104] xa xôi đến gặp bà để xin bà cầu nguyện Chúa ban cho mưa, cho nắng, an hòa cho mùa màng, cầu mùa ngũ cốc bội thu, cho mùa mật ong tràn trề, cho cá đầy hồ, cho thú đầy rừng. Những trang hiệp sĩ lục lâm hung bạo từ các đồn và thành quách miền biên ải từng học theo phong tục của bọn Đức làm nghề lạc thảo, hoặc thường xuyên khởi chiến lẫn nhau, cũng chịu tuân theo lời nhắn nhủ của hoàng hậu mà đút kiếm vào bao, thả tù binh không cần đòi tiền chuộc mạng, hoàn lại những đàn súc vật đã cướp được rồi chìa tay cho nhau cùng cam kết sống thuận hòa. Mọi niềm bất hạnh tai ương, mọi nỗi nghèo hèn khốn khó đều chen nhau tìm đến cổng cung điện Kraków. Linh hồn thanh khiết của bà thấm sâu vào tâm can con người, làm dịu bớt kiếp đời nô lệ, bớt đi lòng kiêu hãnh của các ông chủ và sự hà khắc của đám quan tòa; nó dâng lên như ánh bình minh hạnh phúc, như thiên sứ của công lý và an bình trên khắp đất nước.
Vì vậy, toàn thể dân chúng đều hồi hộp đón chờ ngày ơn trên giáng phúc lành.
Các hiệp sĩ chăm chú ngắm dáng vóc của hoàng hậu để đoán xem họ còn phải chờ đợi hoàng tử hay công chúa nối dõi ngai vàng chừng bao lâu nữa. Ngài Wysz, giám mục Kraków, đồng thời cũng là vị y sư thông thái nhất cả nước và nức tiếng cả ở nước ngoài, chưa dự báo ngày sinh hạ sắp kề, nhưng người ta vẫn tiến hành những việc chuẩn bị theo tinh thần của phong tục tự ngàn xưa: mọi thứ lễ lạt được tiến hành càng sớm càng hay, và họ cứ duy trì những lễ lạt ấy suốt nhiều tuần liền. Hình dáng của hoàng hậu - tuy đã hơi nhô về phía trước - vẫn giữ được dáng thon thả bẩm sinh. Trang phục của bà thật quá ư giản dị. Trước kia, được nuôi dạy trong triều đình cao quý nhất, lại là người xinh đẹp nhất trong các công chúa đương thời, hoàng hậu Jadwiga đã có hồi từng say mê những thứ tơ lụa đắt tiền, những dây chuyền vàng, những ngọc ngà châu báu, những vòng và nhẫn. Nhưng giờ đây, đã vài năm rồi, hoàng hậu không chỉ toàn mặc áo dài của tu nữ mà thậm chí còn che bớt dung nhan, bởi e sự ý thức về sắc đẹp của bản thân có thể làm dậy lại trong lòng bà những ham muốn đời phàm. Trong niềm phấn hứng cao độ khi được biết hoàng hậu đã có mang, đức vua Jagiełło đã ra lệnh trải vải dát vàng lên long sàng, lại phủ thêm thứ vải bisior cực kỳ quý giá cùng những ngọc ngà châu báu điểm tô thêm, nhưng bà không ưng thuận. Hoàng hậu bảo rằng đã từ lâu bà từ bỏ sự giàu sang phú quý, bà vẫn luôn nhớ rằng lúc sinh nở nhiều khi cũng đồng thời là buổi lâm chung, vì vậy không nên đón nhận ân huệ được Chúa ban cho trong ngọc ngà châu báu mà nên ẩn mình trong niềm nhẫn nhục lặng thầm. Còn bạc vàng châu báu thì nên để dành cho Viện đại học [105] hoặc để gửi những thanh niên Litva vừa được cải đạo đến các trường đại học ở ngoại quốc thì hơn. [106]
Kể từ khi niềm hy vọng được làm mẹ trở thành một điều hoàn toàn chắc chắn, hoàng hậu chỉ chấp nhận một thay đổi duy nhất về hình thức chay tịnh tu hành - đó là không che mặt nữa, bởi bà quan niệm rất đúng rằng từ lúc ấy trở đi, bộ áo nữ tu không còn hợp với bà…
Mọi ánh mắt chan chứa niềm kính yêu lúc này đều hội tụ ở nét mặt diễm kiều mà không một thứ vàng bạc hay đá quý nào có thể xứng đáng được làm đồ trang sức. Hoàng hậu thong thả đi từ cửa phòng áo lễ tới bàn thờ chính, mắt ngước nhìn lên, một tay cầm sách kinh, tay kia cầm tràng hạt. Zbyszko nhìn thấy một khuôn mặt như đóa huệ, đôi mắt thanh thiên, những đường nét thuần khiết vẻ thiên thần, đầy an bình, nhân hậu, từ thiện, và trái tim chàng chợt đập dồn dập. Chàng hiểu rất rõ rằng theo lời răn của Chúa, chàng phải yêu kính cả đức vua và hoàng hậu, và chàng đã kính yêu theo cách của mình. Nhưng lúc này đây, trái tim chàng sôi sục bởi một tình yêu lớn lao ùa tới đột ngột, tình yêu không nảy sinh từ lời răn của Chúa mà tự sinh như ngọn lửa cháy bỏng, được hun đúc bằng cả lòng thành kính lớn lao, cả niềm kính sợ và lòng ham muốn tận hiến, muốn được hy sinh. Là một hiệp sĩ trẻ tuổi sục sôi nhiệt huyết, chàng những muốn được thể hiện ngay lập tức tình yêu mến và lòng trung thành của một hiệp sĩ tận hiến, chàng muốn thực hiện ngay một việc gì đó vì hoàng hậu, muốn được cất mình lên bay ngay đến một nơi xa xôi nào đó, muốn tóm cổ ngay một kẻ thù nào đó, muốn đoạt ngay một món chiến lợi phẩm nào đó, dù phải chịu rơi đầu. “Có lẽ ta phải lên đường cùng đại quận công Witold thôi”, chàng tự nhủ, “bởi làm sao có thể phục vụ thánh hậu nếu ta không cận kề chuyện chiến chinh?” Chàng không nghĩ ra cách phụng sự nào khác hơn là sử dụng thanh gươm, ngọn thương hoặc lưỡi rìu, chàng sẵn sàng đơn thương độc mã tấn công thẳng vào quân của bạo chúa Tymur Thọt. Chàng những muốn lập tức ngay sau lễ misa này, được nhảy lên lưng ngựa, bắt tay vào một việc gì đó. Nhưng việc gì? Chàng không rõ. Chỉ biết là không thể nào kìm lòng nổi, chỉ biết đôi tay chàng và cả tâm hồn chàng đang cháy bỏng sục sôi…
Hoàng hậu ngước mắt nhìn lên bàn thờ chính
Chàng hoàn toàn quên bẵng nỗi nguy đang rình rập. Thậm chí, trong một thoáng, chàng quên cả Danusia. Và lúc nàng trở lại với tâm trí chàng khi chàng chợt nghe những giọng hát trẻ thơ vang lên trong nhà thờ, thì chàng chợt nghĩ rằng đó là một chuyện khác hẳn. Chàng đã nguyện trung thành với Danusia, chàng đã thề vì nàng sẽ hạ ba thằng giặc Đức, và chàng sẽ giữ lời thề nguyện ấy. Nhưng dẫu sao hoàng hậu vẫn là người phụ nữ cao quý hơn tất thảy. Và khi chợt nghĩ đến số lượng kẻ thù mà chàng sẵn sàng tiêu diệt vì hoàng hậu, trước mắt chàng như hiện ra hằng hà sa số những giáp phục, những mũ trụ, những ngù lông đà điểu cùng lông công, và chàng cảm thấy rằng so với lòng khát khao thì ngần ấy vẫn còn quá ít..
Trong khi ấy, không hề rời mắt khỏi hoàng hậu, với tâm hồn trào dâng, chàng suy nghĩ lao lung xem nên dành cho bà lời cầu nguyện nào, bởi chàng nghĩ không thể dùng lời thường tình nguyện cầu cho thánh hậu. Chàng biết đọc câu kinh “Pater noster, qui es in coelis, sanctificetur nomen Tuum” [107] mà chàng được một thầy tu dòng Franciszkan ở Wilno dạy cho, nhưng có thể do vị tu sĩ ấy không thuộc trọn bài kinh, cũng có thể do chàng quên mất đoạn sau, chỉ biết rằng chàng không thể đọc trọn bài “ Lạy Cha”. Thế là chàng bèn nhẩm đi nhẩm lại chỉ những lời kinh ấy, những lời mà trong tâm chàng mang ý nghĩa: “Xin Đức Chúa hãy ban cho hoàng hậu kính yêu sức khỏe, sự sống và hạnh phúc, xin Người hãy chăm lo cho hoàng hậu hơn mọi kẻ khác. Kẻ khấn những lời cầu nguyện đó là một người đang bị bản án và hình phạt treo lơ lửng trên đầu, nên chắc chắn trong cả nhà thờ, không một lời cầu nguyện nào thành tâm hơn thế…
Sau khi lễ misa kết thúc, Zbyszko nghĩ rằng nếu được phép ra mắt hoàng hậu, được khấu đầu dập trán trước bà và ôm lấy chân bà, thì chàng vẫn cam lòng dẫu ngày tận thế có đến ngay chăng nữa. Nhưng sau lễ misa thứ nhất lại tiếp đến lễ thứ hai rồi thứ ba. Sau đó, hoàng hậu dời gót về phòng riêng, bởi hằng ngày bà thường nhịn ăn đến tận trưa và cố ý không tham gia những bữa sáng vui vẻ, nơi có lũ hề và các nhà ảo thuật làm vui cho đức vua cùng triều thần. Trước mặt Zbyszko chợt xuất hiện vị hiệp sĩ lớn tuổi xứ Dlugolas, ông mời chàng vào gặp quận chúa.
- Ngươi sẽ phục vụ cho ta và Danusia trong bữa sáng với tư cách đình thần của ta. - Quận chúa truyền. - Biết đâu ngươi chẳng có dịp may mắn được làm đẹp lòng vương thượng bằng một câu đùa hay một việc làm nào đó. Mà nếu gã hiệp sĩ Thánh chiến có nhận ra ngươi thì hắn cũng chẳng thể kêu ca gì được khi thấy ngươi đang phục dịch cho ta ngay trên bàn tiệc của chúa thượng.
Zbyszko bèn hôn tay quận chúa, rồi chàng quay sang Danusia và mặc dầu vốn quen với chiến chinh cùng chuyện đấu sức đua tài hơn các phong tục cung đình, chàng vẫn hiểu rõ vào buổi sáng sớm, một hiệp sĩ mã thượng phong lưu cần phải đối xử thế nào với nữ chúa của lòng mình. Chàng bèn bước lui, mặt làm ra vẻ kinh ngạc, rồi vừa làm đấu thánh vừa thốt lên:
- Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần!…
Danusia ngước đôi mắt xanh thẳm lên nhìn chàng mà hỏi:
- Sao anh Zbyszko còn làm dấu thánh sau lễ misa thế?
- Bởi lẽ mới sau một đêm mà tiểu thư đã xinh đẹp ra biết bao, thưa tiểu thư tuyệt thế giai nhân, nàng khiến tôi phải sững sờ!
Là một người tuổi tác, hiệp sĩ Mikołaj xứ Dlugolas không ưa những phong tục của giới hiệp sĩ mới du nhập từ nước ngoài, nên ông nhún vai thốt lên:
- Anh chỉ phí thì giờ vô ích ca ngợi sắc đẹp của con bé. Nó là một con nhóc mới cao hơn mặt đất tí chút chứ mấy!
Nghe thấy thế, Zbyszko trừng mắt nhìn ông:
- Ngài thật điên rồ khi dám gọi tiểu thư đây là con nhóc. - Chàng thốt lên, mặt tái nhợt vì tức giận. - Nên biết rằng nếu ngài ít tuổi hơn chút nữa thì tôi sẽ bảo chọn ngay một khoảnh đất trong cung điện này để đón cái chết của ngài hoặc cái chết của tôi!…
- Câm đi, đồ nhóc con!… Ngay ngày hôm nay, ta sẽ cho nhà ngươi biết tay ta!
- Ngươi im đi! - Quận chúa nhắc lại. - Thì ra, thay vì cố nghĩ cách tự cứu cái đầu của mình, ngươi lại muốn gây sự ở đây nữa hả? Ta chỉ muốn tìm ngay một hiệp sĩ chín chắn hơn cho Danusia. Bảo cho ngươi biết, nếu muốn gây chuyện lộn xộn, hãy xéo đi đâu tùy ý, ở đây không cần hạng người ấy đâu…
Zbyszko xấu hổ vì những lời quát mắng của quận chúa và đã xin bà thứ lỗi. Nhưng lòng chàng vẫn hậm hực nghĩ rằng nếu ông Mikołaj xứ Dlugolas có con trai lớn, thì nhất định sẽ có lúc chàng thách đấu với con trai ông, trên bộ hoặc trên ngựa, chứ nhất quyết không thể bỏ qua câu gọi “con nhóc” kia của bố hắn được. Tuy vậy, chàng cũng tự nhủ rằng trong cung điện, nên dùng cách xử sự của loài đà điểu, tránh không nên thách đấu với ai, trừ phi danh dự hiệp sĩ nhất thiết đòi hỏi thì không kể…
Tiếng kèn đồng vang động báo hiệu bữa tiệc sáng đã sẵn sàng, quận chúa Anna nắm tay Danusia dắt vào cung vua, trước cửa hoàng cung là các quan chức cao cấp và giới hiệp sĩ đang đứng đợi chào bà. Quận chúa Ziemowitowa đã vào trước, vì với tư cách hoàng muội của đức vua, bà được ngồi chỗ cao sang hơn trong bàn tiệc. Trong phòng tiệc có mặt đông đảo khách khứa nước ngoài cùng quan lại và hiệp sĩ trong nước. Đức vua ngồi ở phía đầu bàn cao hơn, hai bên là đức giám mục Kraków và ông Wojciech Jastrzębiec, người tuy có chức thánh thấp hơn các tăng lữ khác thuộc hàng giám mục nhưng vẫn được ngồi bên phải đức vua với tư cách đặc sứ của Giáo hoàng. Hai vị quận chúa ngồi ở những ghế tiếp theo. Sau quận chúa Anna Danuta, ngồi ngả lưng thoải mái trên một chiếc ghế tựa có lưng rộng là cha Jan, cựu tổng giám mục Gniezno, vị quận công dòng họ Piast vùng Śląsk, con trai của quận công Bolek III vùng Opole. Hồi còn ở triều đình đại quận công Witold, Zbyszko đã từng được nghe danh ông ta, nên lúc này đứng hầu sau lưng quận chúa và Danusia, chàng nhận ngay ra ông qua mái tóc rất rậm được bện thành từng túm thắt đoạn, khiến đầu ông ta nom giống một bình vẩy nước thánh ở nhà thờ. ở các cung đình vương hầu Ba Lan, người ta cũng thường gọi ông là Bình Nước Thánh, ngay cả bọn hiệp sĩ Thánh chiến cũng gọi ông bằng cái tên lơ lớ “Bìn Nước Than” [108] . Đó là một người nổi tiếng về tính quấy tếu và thói trăng hoa. Trái với ý muốn đức vua, được nhận dải băng tổng giám mục Gniezno, ông ta những muốn dùng vũ lực đoạt luôn xứ đó, vì thế đã bị cách chức và đuổi cổ đi. Ông bèn liên minh với quân Thánh chiến, được bọn chúng thí cho cai quản xứ đạo Kamienski nghèo rớt mùng tơi ở vùng Pomorze. Đến lúc đó, ông ta mới hiểu ra rằng tốt nhất nên hòa thuận với vị vua hùng cường. Ông bèn lạy lục đức vua, xin quay trở về đất nước, cố chờ đợi một ghế khuyết nào đó trong các thủ phủ, hy vọng sẽ được chúa thượng khoan hậu ban cho. Quả thực về sau, ông không đến nỗi phải thất vọng. Lúc này, ông ta đang cố dùng những lời vui đùa đường mật lấy lòng đức vua. Tuy nhiên, sức hút xưa cũ bao giờ cũng lôi ông ta xích lại gần bọn hiệp sĩ Thánh chiến. Ngay tại đây, trong cung vua Jagiełło, bởi không được đám quần thần và giới hiệp sĩ yêu thích, ông bèn phải bấu víu vào tình quen biết bạn bè của gã Lichtenstein và rất lấy làm hài lòng được ngồi cạnh gã trên bàn tiệc.
Đứng sau lưng ghế quận chúa, Zbyszko ở gần tên hiệp sĩ Thánh chiến đến nỗi chàng có thể chạm tay vào người hắn. Tay chàng chợt nổi cơn ngứa ngáy, cứ chực cuộn chặt lại thành nắm đấm, nhưng đó chỉ là phản xạ vô thức mà thôi. Chàng đã cố kiềm tính nóng nảy của bản thân, không cho phép được nảy ra một ý nghĩ nào đáng chê trách. Song chàng vẫn không sao chế ngự nổi, thỉnh thoảng ném những ánh mắt đầy thèm muốn về phía cái sọ phủ tóc hoe hoe đã hơi hói của Lichtenstein, ngắm chiếc cổ, tấm lưng và đôi vai của hắn, dường như muốn đo tính trước xem sẽ phải vất vả lắm không nếu được đấu với hắn trong chiến trận hoặc một cuộc tỷ thí tay đôi. Chàng nghĩ ràng có lẽ sẽ chẳng vất vả gì lắm, bởi mặc dầu xương vai của gã Thánh chiến ấy nổi hằn lên khá đồ sộ dưới tấm áo khoác bằng dạ xám mỏng bó khít người, nhưng hắn cũng chỉ là một kẻ èo ợt ẻo lả so với những thân hình tráng kiện của hiệp sĩ Powała, của ông Paszko Đạo Chích xứ Biskupice, của hai anh em dũng sĩ mang gia huy Sulima lừng danh [109] , của ông Krzon xứ Kozieglowy [110] , hay so với bao nhiêu tíang hiệp sĩ anh tuấn khác đang được đức vua ban tiệc.
Zbyszko ngắm nhìn họ với nỗi thán phục, lòng thầm ghen tị. Song chàng chú ý nhất đến đức vua, người đang đưa mắt nhìn tứ phía, chốc chốc lại đưa mấy ngón tay vén tóc ra sau vành tai, dường như đang sốt ruột vì bữa sáng mãi chưa bắt đầu. Ánh mắt của đức vua dừng lại ở Zbyszko trong một thoáng, chàng hiệp sĩ trẻ tuổi chợt cảm thấy hãi hùng, và khi nghĩ ràng mình phải đứng cúi đầu trước bộ mặt tức giận của đức vua, chàng lo lắng quá đỗi. Đó là lần đầu tiên chàng thật sự suy nghĩ về trách nhiệm và hình phạt có thể giáng xuống đầu mình, bởi lẽ cho đến bây giờ, chàng vẫn ngờ rằng đó là những chuyện xa xôi, không rõ nét, chẳng cần bận tâm đến làm gì!
Gã hiệp sĩ người Đức hoàn toàn không ngờ là chàng trai đã từng cả gan tấn công mình trên đường cái quan lại đang có mặt ở gần đến thế. Bữa sáng bắt đầu. Mọi người đều nâng cốc, loại rượu nho đã được cho thêm trứng, quế, hạt cẩm quỳ, gừng và huệ tây, mùi thơm nồng nàn tỏa sực nức khắp phòng. Anh hề Ciaruszek ngồi giữa khung cửa trên một chiếc ghế gỗ thô kệch cất tiếng giả tiếng chim họa mi hót khiến đức vua rất đỗi thích thú. Tiếp đó, một anh hề khác theo đám gia nhân mang món ăn đi vòng quanh bàn tiệc, khẽ đứng lại đằng sau lưng thực khách, giả làm tiếng ong vo ve bay gần, giống đến nỗi vài người phải buông thìa xuống mà huơ huơ tay lên đầu xua đuổi. Cảnh tượng ấy khiến những người khác phá lên cười. Zbyszko chăm chú phục dịch quận chúa và Danusia, nhưng khi thấy Lichtenstein cũng đang huơ tay vỗ vỗ chiếc đầu hói, thì chàng quên hết cả nỗi hiểm nguy đang đe dọa mà cười chảy nước mắt.
Đứng gần chàng, vị quận công trẻ tuổi người Litva là Jamont, con trai của ngài phó vương vùng Smolensk [111] , cũng cười nhiều đến nỗi khiến thức ăn vung vãi cả.
Rốt cuộc, gã Thánh chiến cũng nhận ra là mình lầm. Hắn bèn vừa thò tay vào túi da lấy tiền vừa quay sang giám mục Bình Nước Thánh và nói với ông ta vài lời bằng tiếng Đức, được giám mục dịch ngay sang tiếng Ba Lan:
- Tôn ông đây bảo mày thế này! - Ông quay lại bảo anh hề. - Mày sẽ được thưởng hai đồng skojeq nhưng mày chớ dại mà vo ve gần quá, bởi ong mật thì người ta chỉ xua đuổi thôi, nhưng ong đực thì bị người ta đập chết tươi đấy…
Anh hề vừa đút tọt hai đồng skojec mà gã hiệp sĩ Thánh chiến vừa cho vào túi vừa lợi dụng quyền tự do của vai hề chuyên phục dịch góp vui trong triều, trả miếng ngay:
- Vùng đất Dobrzyń lắm mật nên lũ ong đực cứ bâu vào. Hỡi đức vua Władysław, hãy đập chết tươi chúng đi! [112]
- Vậy thì ta thưởng thêm cho mày một đồng grosz này nữa vì tài đối đáp, - giám mục Bình Nước Thánh nói, - có điều mày nên nhớ rằng dây thang mà đứt thì thợ ong cũng gãy cổ như chơi đấy. Đám ong đực thành Malborg đang ăn mật vùng Dobrzyń vốn mạnh ngòi châm lắm đấy, leo lên lưng chúng có ngày khốn thân!
- Ồ! - Hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice, quan chưởng kiếm [113] vùng Kraków thốt lên. - Đuổi cổ chúng có gì là khó!
- Bằng cách nào vậy?
- Bằng thuốc súng! [114]
- Hoặc dùng rìu phăng cổ chúng đi! - Vị hiệp sĩ lực lưỡng xứ Biskupice là Paszko Đạo Chích tiếp lời.
Tim Zbyszko rộn lên, chàng nghĩ rằng những lời mạnh mẽ ấy báo hiệu cuộc chiến sắp bùng nổ, và Kuno Lichtenstein - kẻ từng sinh sống suốt một thời gian dài tại Toruń và Chełmno, hiểu tiếng Ba Lan nhưng không dùng vì kênh kiệu - cũng hiểu ý đó. Lúc này, cáu tiết vì những lời của hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice, hắn chĩa đôi mắt màu xám mang tia nhìn sắc nhọn vào ông, nói:
- Để rồi xem!
- Cha ông chúng tôi đã từng xem ở dưới chân thành Plowce, còn chúng tôi cũng đã xem chán ra ở thành Wilno rồi đấy thôi [115] . - Hiệp sĩ Zyndram trả miếng ngay.
- Pax vobiscum! [116] - Bình Nước Thánh kêu lên. - Pax, pax! Ngài quận công Mikołaj xứ Kurowo hãy rời ngôi giám mục miền Kujaw để đức vua lòng lành phong cho tôi chức ấy, tôi sẽ xin rao giảng những lời tuyệt mỹ về tình yêu thương giữa các dân tộc Ki-tô giáo khiến quý vị đều nhũn chí mềm lòng. Lòng thù hận là gì nếu không phải ignis, hơn nữa lại là ignis infernalis [117] , thứ lửa kinh khủng không nước nào dập tắt nổi. Và có lẽ bây giờ ta nên dùng rượu nho để dập tắt nó thì hơn. Mang rượu nho ra đây! Chúng ta sẽ cùng nhau vui vầy hoan lạc! Như mồ ma đức giám mục Zawisza xứ Kurozwęki [118] từng nói.
- Để rồi từ chốn hoan lạc tiến thẳng xuống địa ngục như quỷ sứ đã từng nói chứ gì [119] ! - Anh hề Ciaruszek tiếp lời.
- Cầu quỷ sứ bắt mày đi!
- Nếu nó bắt ngài đi thì tốt hơn. Xưa nay người ta chưa được thấy quỷ sứ sánh vai cùng Bình Nước Thánh bao giờ, nhưng tôi chắc tất thảy chúng ta đây sẽ được hân hạnh thấy chuyện đó…
- Trước hết, để tao vẩy cho mày vài giọt nước thánh dã. Mang rượu nho ra đây! Tình yêu giữa những tín hữu Ki-tô vạn tuế!
- Chỉ giữa các tín hữu Ki-tô chân chính thôi! - Kuno Lichtenstein đay lại.
- Sao? - Giám mục Wysz của kinh thành Kraków ngẩng đầu kêu lên. - Không phải ngài đang tới thăm một vương quốc Ki-tô giáo vĩnh hằng hay sao? Chẳng lẽ các thánh đường nơi đây không cổ hơn các giáo đường ở thành Malborg sao?
- Tôi không biết - Tên Thánh chiến đáp.
Đức vua đặc biệt nhạy cảm khi chạm đến đề tài Ki-tô giáo. Ngài cảm thấy hình như gã hiệp sĩ Thánh chiến cố tình định ám chỉ ngài. Đôi gò má gồ cao của ngài bừng lên những quầng đỏ, mắt ngài long lên.
- Cái gì? - Ngài cất giọng thô lỗ quát - Ta không phải là một vị vua Ki-tô giáo hay sao? Hả?
- Một vương quốc tự xưng là Ki-tô giáo, - gã hiệp sĩ Thánh chiến lạnh lùng đáp lại, - mà vẫn gỉữ nguyên những tập tục ngoại đạo đã man…
Nghe những lời đó, các vị hiệp sĩ nóng tính nhất đều đứng phắt dậy: hiệp sĩ Marcin xứ Wrocimowice mang gia huy Póikozic [120] , hiệp sĩ Florian xứ Korytnica, hiệp sĩ Bartosz xứ Wodzinko, hiệp sĩ Domarat xứ Kobylany, hiệp sĩ Powała xứ Taczew, hiệp sĩ Paszko Đạo Chích xứ Biskupice, hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice, hiệp sĩ Jaśko xứ Targowisko, hiệp sĩ Krzon xứ Kozieglowy, hiệp sĩ Zygmunt xứ Bobowa và hiệp sĩ Staszko [121] xứ Charbimowice - những trang hiệp sĩ dũng mãnh, uy danh, đã từng chiến thắng bao trận đánh và bao cuộc thi đấu võ, người thì bừng bừng lửa giận, kẻ tái mặt căm uất nghiến chặt răng, tất thảy đều cùng nhau thốt lên:
- Nhục thay cho chúng ta! Bởi hắn đang là khách, không thể thách đấu ngay bây giờ được!
Còn hiệp sĩ Zawisza Đen, người được mang gia huy Sulima, vị hiệp sĩ danh tiếng nhất trong những kẻ lừng danh, mẫu mực của giới hiệp sĩ đương thời, liền ngoảnh vầng trán đầy nếp nhăn về phía Lichtenstein mà bảo:
- Tôi không nhận ra ông đấy, Kuno ạ. Là một trang hiệp sĩ, lẽ nào ông cả gan nhục mạ dân tộc tuyệt vời của chúng tôi khi biết là với tư cách sứ giả, ông sẽ không bị trừng phạt vì chuyện đó?
Kuno bình thản chịu dựng ánh mắt dữ dội của ông rồi thong thả đáp lại, dằn từng tiếng:
- Trước khi đến cư ngụ ở đất Phổ, Giáo đoàn của chúng tôi đã từng chiến đấu ở Palestine [122] , nhưng ngay cả bọn Saracen ở xứ đó cũng biết tôn trọng sứ giả, còn các ông thì không. Vì vậy, tôi dám gọi phong tục của nước các ông là ngoại đạo.
Nghe những lời đó, tiếng huyên náo càng cồn lên ồn ào hơn nữa. Quanh bàn tiệc vang tiếng thét: “Nhục! Thật là nhục nhã!”
Những tiếng kêu la lặng đi khi đức vua - người mà cơn giận đang nổi cuồn cuộn trên mặt - vỗ độp độp mấy tiếng vào lòng bàn tay theo phong tục Litva. Hiệp sĩ Jaśko Topór xứ Tęczyn, một người cao niên, trấn thành Kraków, vị hiệp sĩ nghiêm nghị khiến mọi người nể sợ bởi phong thái uy nghi đĩnh đạc, đứng dậy cất tiếng:
- Hỡi vị hiệp sĩ đáng trọng xứ Lichtenstein, nếu ngài gặp phải một sự xúc phạm nào đến tư cách sứ thần, xin cứ nói ra, công lý nghiêm minh sẽ được thực hiện ngay tức khắc.
- Tôi chưa bao giờ gặp một chuyện như thế này ở bất kỳ vương triều Ki-tô giáo nào khác. - Kuno nói. - Hôm qua, trên quan lộ tới Tyniec, một tên hiệp sĩ của các ngài đã tấn công tôi. Mặc dù chỉ nhìn hình thánh giá khâu bên ngoài áo choàng cũng biết rõ tôi là ai, nhưng hắn vẫn cố tình đe dọa tính mạng tôi!
Nghe những lời đó, Zbyszko tái mặt. Bất giác chàng đưa mắt liếc đức vua: mặt ngài nom thật khủng khiếp. Hiệp sĩ Jaśko xứ Tęczyn ngạc nhiên thốt lên:
- Lẽ nào lại như thế?
- Xin ngài cứ hỏi vị hiệp sĩ xứ Taczew, người đã chứng kiến vụ đụng độ đó thì rõ.
Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào hiệp sĩ Powała, ông đứng lặng hồi lâu, nhắm nghiền mắt, rồi mãi sau mới nói:
- Đúng thế!…
Nghe mấy lời đó, giới hiệp sĩ đồng thanh thốt lên: “Nhục nhã! Nhục nhã quá! Cầu cho đất sụp xuống dưới chân kẻ ấy!” Vì hổ thẹn, người thì đập nắm tay vào đùi vào ngực, kẻ lại quay tít những chiếc đĩa bằng thiếc trên bàn tiệc, không biết nên để chúng vào đâu.
- Sao ngươi không giết chết ngay hắn đi! - Đức vua gầm lên.
- Muôn tâu thánh thượng, đầu hắn phải thuộc về sự phán xử của tòa án. - Ông Powała đáp.
- Nhưng ngươi đã bắt trói hắn rồi chứ? - Viên trấn thành Topór xứ Tęczyn hỏi.
- Thưa không, bởi hắn đã thề bằng danh dự hiệp sĩ là sẽ đến trình diện.
- Nhưng hắn không dám đến! - Kuno ngẩng đầu thốt lên lời giễu cợt.
Đúng lúc đó, một giọng nói trẻ trung mà thảm đạm chợt vang lên ngay sau lưng gã hiệp sĩ Thánh chiến:
- Xin Chúa đừng bắt tôi chịu nỗi nhục thay cho cái chết. Chính tôi đây đã làm chuyện đó, tôi - Zbyszko trang Bogdaniec!
Nghe thấy thế, các hiệp sĩ nhảy xổ lại phía chàng, nhưng một cái phất tay dữ tợn của đức vua đã kìm chân họ lại. Đức vua đứng lên, mắt lóe lửa, giọng hổn hển tức giận, gào lên như tiếng bánh xe xiết vào nền đá:
- Chém cổ nó! Chém cổ nó đi! Đưa đầu nó cho vị hiệp sĩ Thánh chiến gửi về thành Malborg dâng lên đại thống lĩnh!
Rồi đức vua quát bảo vị quận công Litva trẻ tuổi, con trai của dòng họ quân vương vùng Smolensk, đang đứng cạnh Zbyszko:
- Bắt lấy nó, Jamont!
Hoảng hồn vì cơn thịnh nộ của đức vua, Jamont run run đặt tay lên vai Zbyszko. Chàng ngoảnh bộ mặt tái nhợt nhìn người đó và thốt lên:
- Tôi không trốn đâu…
Nhưng vị trấn thành Kraków râu tóc bạc phơ - hiệp sĩ Topór xứ Tęczyn - đã giơ tay lên ra hiệu muốn nói, và khi mọi người lặng bớt, ông lên tiếng:
- Tâu đức vua nhân từ! Xin hãy làm cho ngài lãnh binh đây hiểu rằng không phải cơn thịnh nộ của người mà là luật pháp chúng ta phán quyết tội chết cho kẻ đã dám xúc phạm đến sứ thần. Nếu không, ông ta sẽ có cớ để cho rằng ở vương quốc này không có luật lệ Ki-tô giáo. Đích thân hạ thần sẽ mở phiên tòa xét xử kẻ phạm tội này!
Ông cao giọng thốt lên những lời cuối cùng ấy và hẳn ông nghĩ rằng những lời đó nhất định phải được thực hiện. Ông gật đầu ra hiệu cho hiệp sĩ Jamont:
- Nhốt hắn vào tháp chuông. Còn ông, hiệp sĩ xứ Taczew, ông sẽ làm nhân chứng.
- Tôi xin thuật lại toàn bộ tội lỗi của kẻ ấu niên ngu muội này, cái tội mà không một người đàn ông chín chắn nào trong số chúng ta đây có thể dại đột phạm phải. - Ông Powała nói, đưa mắt u ám nhìn gã Lichtenstein.
- Tướng công nói phải lắm. - Một số người phụ họa theo ông. - Đây hãy còn là một đứa trẻ con kia mà! Lẽ đâu người ta định lăng nhục tất thảy chúng ta chỉ vì hành động của một đứa trẻ?
Im lặng bao trùm hồi lâu, những ánh mắt chê trách chĩa vào gã hiệp sĩ Thánh chiến, trong lúc đó Jamont dẫn Zbyszko ra ngoài giao cho toán cung thủ ngự lâm đang đứng canh phòng hoàng cung. Trái tim trẻ trung của chàng quận công trẻ tuổi cảm thương cho kẻ tội nhân, tình thương ấy càng mạnh hơn bởi lòng căm thù vốn dành cho bọn Đức. Nhưng là một người Litva quen tuân theo một cách mù quáng mọi ý muốn của đại quận công, lại đang kinh hoàng trước cơn thịnh nộ của đức vua, nên dọc đường anh khẽ thì thầm với Zbyszko những lời nhân ái:
- Anh có biết tôi định khuyên anh điều gì không? Hãy tự treo cổ đi! [123] Tốt nhất anh hãy tự treo cổ ngay đi là hơn! Đức vua đã nổi cơn thịnh nộ. Thế nào người ta cũng chặt đầu anh thôi. Vậy sao anh không tự mình làm cho người được hài lòng? Hãy tự treo cổ trước đi, bạn ạ! Ở quê tôi có phong tục thế đấy!
Đang nửa tỉnh nửa mê vì xấu hổ và hãi hùng, thoạt tiên Zbyszko không hiểu rõ những lời của quận công, nhưng đến khi hiểu ra, chàng đứng sững lại vì kinh ngạc:
- Ngài nói gì vậy?
- Hãy tự treo cổ đi! Đừng chờ người ta đem xử trảm. Anh sẽ làm đức vua hài lòng đấy. - Jamont nhắc lại.
- Ngài đi mà tự treo cổ lấy thì có! - Chàng hiệp sĩ trẻ thốt lên. - Ngài đã được rửa tội cải đạo rồi mà vẫn giữ nguyên đầu óc một kẻ ngoại đạo. Chẳng lẽ ngài không hiểu rằng đó là một trọng tội đối với tín đồ Ki-tô giáo hay sao?
Quận công nhún vai:
- Thế thì phải chịu chết theo lệnh thôi. Trước sau gì người ta chẳng chém đầu anh!
Zbyszko thoáng nghĩ vì những lời lẽ kia, có lẽ phải thách đấu với gã hiệp sĩ quận công này, dầu là trên bộ hay trên ngựa, bằng kiếm hoặc bằng rìu; nhưng rồi chàng dập tắt ngay ý nghĩ đó khi hiểu mình chẳng còn đủ thì giờ để thực hiện điều ấy. Chàng cúi đầu buồn bã và im lặng để mặc quận công giao chàng cho viên chỉ huy toán cung thủ ngự lâm canh giữ hoàng cung.
Nhưng lúc ấy, trong phòng tiệc, mọi người lại tập trung chú ý đến chuyện khác. Thấy những gì vừa xảy ra, thoạt tiên Danusia kinh hoàng đến nghẹn thở. Mặt nàng tái nhợt như sắc vải mộc, mắt giương tròn hãi hùng. Nàng trân trân nhìn đức vua và bất động như thể một hình nhân bằng sáp trong nhà thờ. Nhưng khi nghe bảo Zbyszko sẽ bị chém đầu, khi thấy chàng bị bắt dẫn ra khỏi phòng, thì đột nhiên nàng thấy thương chàng vô hạn. Đôi môi và hàng lông mày run rẩy, nàng đột ngột bật ra tiếng khóc ai oán não nùng không thể kiềm chế được dù cho nàng đang sợ hãi hay đức vua ngay ở đó, khiến mọi người đều quay lại nhìn. Đích thân đức vua cũng lên tiếng hỏi:
- Chuyện gì thế?
- Muôn tâu thánh thượng nhân từ! - Quận chúa Anna kêu lên. - Đây chính là đứa con gái của ngài hiệp sĩ Jurand trang Spychow. Cháu nó đã được gã hiệp sĩ đáng thương kia thề nguyện chọn làm nữ chúa trái tim. Y đã thề sẽ dâng lên cho nữ chúa ba cái ngù lông công cướp từ mũ chiến của kẻ thù. Nên khi vừa trông thấy túm lông công trên mũ ngài lãnh binh, y cứ ngỡ rằng đó là kẻ thù do Đức Chúa gửi xuống cho y. Tâu thánh thượng, y làm việc đó không phải vì xấu bụng, mà chỉ vì ngu muội. Cúi xin thánh thượng nhân từ đừng trừng phạt y. Thần thiếp quỳ xuống mà cầu xin thánh thượng điều ấy.
Nói đoạn, bà đứng dậy nắm lấy tay Danusia, cùng vội vã đến chỗ đức vua đang ngồi. Trông thấy thế đức vua bèn lùi lại, cả hai bèn quỳ xuống trước mặt ngài. Danusia vòng tay ôm ghì lấy chân quân vương, cất tiếng kêu van:
- Muôn tâu thánh thượng, cúi xin người hãy tha cho anh Zbyszko, hãy tha cho anh Zbyszko!
Vừa xúc động vừa thảng thốt, nàng dụi mái đầu màu vàng sáng vào những nếp gấp của chiếc áo choàng màu xám của đức vua, và hôn đầu gối đức vua, người nàng run như tàu lá. Phía bên kia, quận chúa Aleksandra Ziemowitowa cũng quỳ xuống, chắp hai tay đầy vẻ van nài, khiến đức vua bối rối tột độ. Ngài cố bước lui, đẩy lùi cả ghế ngồi, nhưng không nỡ gạt Danusia ra, hai tay ngài chỉ xua xua như đuổi ruồi.
- Các ngươi hãy để ta yên! - Ngài kêu lên. - Hắn đã phạm tội, đã làm điếm nhục cả vương quốc. Hắn sẽ bị chém đầu!
Nhưng đôi tay bé nhỏ càng ngày càng siết chặt hơn quanh đầu gối đức vua, giọng trẻ thơ thanh thanh thảm thiết mỗi lúc một khẩn khoản hơn:
- Xin thánh thượng hãy tha tội cho anh Zbyszko, hãy tha tội cho anh Zbyszko đi, muôn tâu thánh thượng!
Cùng lúc ấy, có tiếng nói của nhiều vị hiệp sĩ thốt lên:
- Ngài Jurand trang Spychow là một trang hiệp sĩ danh tiếng, là nỗi kinh hoàng của bọn giặc Đức!
- Chính gã hiệp sĩ trẻ tuổi kia cũng đã từng lập nhiều chiến công ở thành Wilno. - Hiệp sĩ Powała nói thêm.
Nhưng đức vua vẫn tiếp tục khước từ, mặc dầu chỉ nguyên hình ảnh của Danusia cũng đã khiến ngài thấy động lòng.
- Hãy để ta yên! Hắn không phạm lỗi với ta, ta không có quyền tha cho hắn. Nếu sứ thần của Giáo đoàn tha thứ cho hắn, ta cũng sẵn lòng tha, còn nếu không, hắn sẽ bị chém đầu.
- Tha cho thằng bé đi, Kuno! - Hiệp sĩ Zawisza Đen mang gia huy Sulima khuyên. - Chắc ngài đại thống lĩnh cũng chẳng trách cứ ông về chuyện ấy đâu.
- Hãy tha tội cho hắn, thưa ngài! - Cả hai quận chúa van nài.
- Hãy tha cho hắn, tha cho hắn! - Nhiều giọng hiệp sĩ đồng thanh kêu lên.
Kuno nheo nheo mắt, ngồi im, trán ngẩng cao, thích thú nhấm nháp niềm sung sướng vì đã được cả hai quận chúa cùng các hiệp sĩ hiển hách nhường kia van nài. Nhưng đột nhiên, hắn thay đổi trong nháy m