Chương 42
Tuy đã được đức vua Kazimierz Vĩ Đại tái thiết từ đất bằng, sau khi bị bọn Thánh chiến triệt hạ, thiêu hủy và tàn sát vào năm 1331, nhưng thành Sieradz vẫn không được đẹp lắm, chẳng thể sánh nổi với những đô thị khác của vương quốc. Song dối với Jagienka - một thiếu nữ từ bé đến giờ chỉ biết có trang ấp Zgorzelice và thị trấn Krześnia - thì những tường thành, các tháp chuông, nhà hội đồng, nhất là tòa giáo đường đồ sộ, không chút gì giống với cái nhà thờ gỗ nhỏ xíu ở Krześnia, đã gây ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Tính tình vui vẻ thường ngày của cô mất hẳn, đến nỗi cô không dám nói to, chỉ dám thì thầm hỏi ông Maćko về những kỳ quan khiến cô lóa mắt kia. Và khi vị hiệp sĩ lớn tuổi nói rằng so với kinh thành Kraków, Sieradz chỉ giống như một mẩu củi cháy leo lét so với vầng dương, thì cô không dám tin, bởi cô nghĩ rằng khắp thế gian không thể có một đô thị nào tuyệt vời hơn Sieradz.
Nghênh tiếp họ tại tu viện vẫn là vị cha bề trên già nua lớn tuổi, người vẫn còn nhớ trận tàn sát của bọn hiệp sĩ Thánh chiến xảy ra từ thuở ông còn thơ ấu. Trước đây, cũng đã có lần ông đón Zbyszko. Tin tức về cha tu viện trưởng thân thương khiến họ buồn rầu và bối rối. Cha ngụ tại tu viện này, nhưng hai tuần trước cha đến thăm một người bạn là đức giám mục xứ Plock. Cha vẫn ốm yếu luôn. Ban ngày, buổi sáng cha tỉnh, nhưng đến chiều lại mê sảng, cha thường nhổm dậy đòi phải mặc giáp phục cho mình, rồi thách quận công Jan xứ Racibórz quyết đấu. Đám chủng sinh theo hầu cha phải khó khăn và vất vả lắm, thậm chí còn mạo hiểm nữa, mới giữ được cha nằm yên trên giường. Hai tuần trước đây cha mới tỉnh, và mặc dù còn rất yếu, cha vẫn sai người chở cha đến thành Plock.
- Cha bảo cha không tin ai bằng đức giám mục xứ Plock. - Vị cha bề trên lớn tuổi nói. - Cha muốn được nhận Mình Thánh từ chính tay đức giám mục và được trao lại di chúc cho ngài. Chúng tôi đã cố sức ngăn cha lại, bởi cha còn yếu lắm, e là chẳng thể đi được mấy dặm. Nhưng cưỡng lại ý cha đâu dễ. Các chủng sinh đành chằng buộc chiếc xe thật kỹ rồi chở cha đi. Cầu Chúa ban cho cha được nhiều may mắn!
- Nếu chẳng may cha qua đời ở đâu đó gần thành Sieradz đây, thì chắc ngài đã nghe tin đồn. - Ông Maćko bảo.
- Hẳn chúng tôi đã phải nghe chứ, - cha bề trên nói, - chính vì chưa nghe tin gì nên tôi nghĩ là cha chưa mất, ít nhất đến tận Leczyca cha vẫn chưa trút hơi thở cuối cùng. Nhưng sau đó có xảy ra chuyện gì không thì tôi không rõ. Nếu các ngài đi theo con đường cha đã đi thì dọc đường có thể hỏi thêm tin tức.
Những tin ấy khiến ông Maćko đâm lo, ông tìm Jagienka để bàn. Cô cũng vừa được chàng trai người Séc cho biết việc cha tu viện trưởng đã ra đi.
- Làm gì bây giờ? - Ông hỏi. - Cháu định thế nào?
- Bác tới Plock đi, cháu sẽ đi cùng bác! - Cô đáp gọn.
- Đến Plock! - Sieciechówna cất giọng thanh thanh họa theo.
- Xem kìa! Nghe hai đứa bàn mới dễ chứ! Đến Plock! Cứ như chỉ cách một quãng dao ấy thôi.
- Nhưng cháu với Sieciechówna quay về sao được? Nếu không được đi tiếp cùng với bác, thì cháu biết làm gì? Bác không nghĩ là bây giờ hẳn bọn chúng nó sẽ càng điên tiết, càng căm hận hơn hay sao?
- Cha con nhà Wilk sẽ chống lại Cztan để bảo vệ cháu.
- Cháu sợ sự che chở của nhà Wilk chẳng kém sự quấy quả của nhà Cztan. Nhưng hình như bác chỉ giả vờ thế thôi, chứ thực lòng bác không phản đối.
Quả thực, ông Maćko không phản đối ý cô. Trái lại, ông muốn đưa cô cùng đi hơn là để cô phải trở lại; vì vậy, nghe cô nói, ông mỉm cười bảo:
- Không phải mặc váy, cô nàng muốn thành nhà thông thái ngay kia đấy!
- Trí thông minh trong đầu chứ có ở chỗ khác đâu ạ!
- Đường tới Plock đâu phải đường bác định đi.
- Anh người Séc bảo cháu đường ấy cũng đâu có chệch hướng đến thành Malborg, có khi lại còn gần hơn.
- Thế ra các cô đã bàn bạc với gã Séc rồi sao?
- Vâng ạ. Anh ấy bảo rằng nếu cậu chủ chẳng may bị nguy ở thành Malborg, thì ta có thể nhờ quận chúa Aleksandra của công quốc Plock giúp, bởi bà vừa là hiền muội của đức vua, vừa là người bạn thân của các hiệp sĩ Thánh chiến, rất được chúng trọng vọng.
- Lạy Chúa lòng lành! - Ông Maćko thốt lên. - Chuyện đó thì đã hẳn. Nếu được quận chúa ban cho một bức thư gửi đại thống lĩnh thì chúng ta có thể bình an đi qua vùng đất bọn Thánh chiến. Chúng mến mộ quận chúa, bởi bà cũng rất tử tế với chúng… Lời khuyên ấy tốt đấy, thằng bé Séc rõ là đứa thông minh!
- Anh ấy giỏi lắm cơ! - Sieciechówna nhiệt tình thốt ra, ngước đôi mắt xanh biếc lên nhìn mọi người.
Ông Maćko quay phắt lại nhìn cô:
- Thế còn mày, làm trò gì ở đây, hả?
Cô gái hết sức bối rối, khép vội hàng mi dài, mặt đỏ ửng như đóa hoa hồng.
Thực tình, ông Maćko hiểu rằng không còn cách nào tốt hơn là đưa hai cô gái đi tiếp, mà lòng ông cũng muốn thế, nên hôm sau, sau khi từ biệt vị cha bề trên lớn tuổi, họ bèn lên đường, tiếp tục cuộc hành trình. Do tuyết tan, nhiều nước đọng trên đường, nên họ đi vất vả hơn. Dọc đường, họ hỏi thăm tin tức cha tu viện trưởng, đã ghé nhiều điền trang và nhà thờ xứ, đến thăm cả một tửu điếm, nơi trước kia cha thường ghé lại nghỉ đêm. Lần theo vết cha chẳng mấy khó khăn, bởi cha thường bố thí rất hào phóng, hiến tiền lễ misa, tiền đúc chuông, giúp cho những xứ đạo đang suy vi, vì vậy không hiếm những người ăn mày già lang thang, các bõ già nhà chung, cả các cha chánh xứ, đều nhắc đến cha với lòng hàm ơn. Người ta coi cha như một vị thiên sứ giáng trần, ai cũng cầu cho cha được an khang, dẫu e rằng cha đã gần sự siêu thoát vĩnh hằng hơn là trở về với sức khỏe trần thế. Vì yếu mệt, cha đã phải nằm lại một số nơi đôi ba ngày. Vì thế ông Maćko tin rằng thể nào họ cũng đuổi kịp cha.
Nhưng hóa ra ông tính lầm, vì nước sông Ner và Bzura lên cao đã kìm chân họ. Chưa đến được Leczyca, họ buộc phải lưu lại suốt cả bốn ngày ở một tửu điếm tuềnh toàng, trống hoang trống huếch, mà chủ nhân đã đi sơ tán, chắc vì sợ lụt. Con đường từ tửu điếm đến thành, dù đã được lát bằng thân cây gỗ, nhưng vẫn lún ngập trong một thứ bùn lầy ghê gớm. Gã Wit, một gia nhân của ông Maćko, vốn người quê xứ này, nghe nói có một con đường mòn nào đó băng rừng có thể vượt qua được, nhưng không dám dẫn đường, vì nghe đồn những đầm lầy xứ Leczyca vốn là hang ổ của những thế lực quỷ ma hắc ám, mà đích danh là quỷ Boruta [205] ghê gớm, rất hay dụ người ta tới những vũng lầy không đáy, rồi buộc họ phải bán linh hồn cho nó để được cứu mạng. Ngay cả tửu điếm mà họ đang phải lưu lại cũng có tiếng không mấy hay ho, nên mặc dù các đoàn lữ hành thời đó thường mang theo lương thảo, không lo bị đói, nhưng ông Maćko lớn tuổi vẫn ngại phải lưu lại nơi đây.
Đêm đêm, họ nghe những tiếng lạt sạt trên mái quán, đôi khi lại có tiếng như ai đó gõ cửa. Jagienka và Sieciechówna ngủ ở buồng trong, ngay sát phòng lớn, nghe thấy trong đêm đen, tiếng bước chân ai đó rón rén đi lại trên mái nhà, thậm chí lần xuống dọc theo tường. Điều đó không khiến hai cô gái sợ hãi, vì ở Zgorzelice họ đã đã quen nghe chuyện đám yêu lùn, mà sinh thời ông lão Zych ra lệnh luôn phải để thức ăn cho chúng; vả lại theo quan niệm thời bấy giờ, bọn tiểu quỷ chẳng làm hại ai nếu người ta đừng bủn xỉn tiếc chúng những mẩu thức ăn thừa. Nhưng đến một đêm kia, trong lùm cây rậm rạp gần đó, chợt vang lên những tiếng rống trầm đục dữ tợn, sáng ra họ thấy có những vết móng to tướng hằn rõ trong bùn. Rất có thể đó là bò tót hay bò rừng. Nhưng gã Wit khăng khăng bảo đó chính là quỷ Boruta, con quỷ dù mang hình dáng người, thậm chí hình người quý phái, nhưng vẫn có móng guốc như chân dê, còn đôi giày mà nó thường mang để dễ lẫn lộn với loài người đã được nó tháo ra khi gặp chỗ bùn lầy, theo thói quen keo bẩn bẩm sinh của loài quỷ. Nghe gã bảo có thể lấy lòng con quỷ dữ này bằng rượu, suốt ngày ông Maćko cân nhắc xem việc quan hệ với quỷ sứ có phải mắc trọng tội chẳng, rốt cuộc ông bảo Jagienka:
- Bác định sai treo lên hàng rào một bong bóng bò chứa rượu vang hay mật ong, nếu đến đêm rượu bị uống, thì ta sẽ biết chắc rằng nó đang quanh quẩn quanh quán.
- Cầu chư vị thần linh không bị xúc phạm vì chuyện ấy, thưa bác, - cô gái nói, - chúng ta đang cần ân phước của họ mới mong cứu được anh Zbyszko.
- Bác cũng ngại thế, nhưng bác nghĩ mật ong có phải hồn của ta đâu mà lo. Bác đâu có dâng linh hồn cho ma quỷ, một bong bóng mật thì có nghĩa lý gì với chư thần thiên giới chứ!
Rồi ông hạ giọng:
- Lãnh chúa đãi lãnh chúa, dẫu là lãnh chúa xấu xa nhất đi nữa thì cũng là lẽ thường tình, mà cứ như người ta đồn, hắn cũng là lãnh chúa…
- Ai kia ạ? - Jagienka hỏi.
- Bác không muốn gọi tên loài quỷ dữ ấy.
Tối ấy, ông Maćko tự tay treo lên hàng rào một bong bóng bò to tướng mà người ta thường dùng đựng thức uống khi đi đường. Sáng hôm sau, mọi người thấy thức uống đựng bên trong đã bị cạn đến tận đáy.
Nghe kể lại chuyện ấy, chàng trai người Séc mỉm cười hơi lạ, song chẳng ai để ý. Ông Maćko mừng thầm trong bụng, hy vọng rằng sẽ không gặp phải trở ngại hay tai ương khi vượt qua vùng đất lầy thụt trước mắt.
- Chắc hắn cũng còn có chút ít lương tâm chứ, trừ phi người ta đồn không đúng! - Ông tự nhủ.
Nhưng trước hết cần tìm xem có lối nào băng rừng không đã. Có thể có, bởi những nơi được tầng rễ cây lớn nhỏ giữ chặt thì đất không nhũn ra khi trời mưa. Nhưng vừa nghe tới chuyện tìm đường, gã Wit - kẻ vốn là dân bản địa, có thể đảm nhiệm tốt nhất việc này - lại kêu lên:
- Thà giết tôi đi, thưa chủ nhân, chứ tôi chẳng dám đi đâu!
Người ta hoài công giải thích cho gã là ban ngày ban mặt, ma quỷ chẳng dám ngang ngược hoành hành. Ông Maćko định tự mình đi dò đường, nhưng rốt cuộc, Hlava - chàng gia nhân táo tợn nhưng rất được yêu mến, nhất là với các cô thiếu nữ - nổi cơn hăng máu, giắt rìu vào thắt lưng, tay lăm lăm chiếc gậy tày, lên đường.
Chàng ra đi lúc rạng sáng, người ta đoán rằng chàng sẽ trở về vào khoảng gần trưa, nhưng mãi chẳng thấy chàng đâu, họ bắt đầu lo ngại. Rồi suốt cả buổi chiều, đám gia nhân hoài công ngóng về phía khu rừng. Gã Wit chỉ phẩy tay:
- Hắn không về đâu, mà nếu có về thì cũng chỉ khổ hơn cho ta, bởi chỉ có Chúa mới hay liệu hắn có trở về với cái mõm sói và đã biến thành sói rồi chăng!
Nghe thấy thế mọi người thảy đều kinh hãi, cả ông Maćko cũng không yên. Jagienka quay về phía rừng làm dấu thánh. Còn cô bé Anulka Sieciechówna thì chốc chốc lại mò tìm vô vọng chiếc khăn trên đôi đầu gối đang mặc quần đàn ông; không tìm thấy thứ có thể đưa lên che mắt, cô bèn che mắt bằng những ngón tay, chẳng mấy chốc chúng đã ướt đẫm những những giọt lệ cứ nối nhau tràn ra.
Tuy nhiên vào lúc chạng vạng tối, khi mặt trời sắp lặn hẳn, chàng Séc trở về, nhưng không về một mình mà cùng với một kẻ giống như người, mà chàng bắt phải đi đằng trước. Mọi người hò la reo mừng ùa tới đón, nhưng họ chợt im bặt khi nhìn rõ người kia, nhỏ bé, cong queo, đen thui, đầy lông lá, khoác bộ da chó sói.
- Nhân danh Cha và Con, mày đưa thứ quỷ quái gì về thế? - Ông Maćko kinh ngạc kêu lên.
- Con biết đâu đấy, - chàng hộ vệ đáp, - thấy bảo ông ta là thợ sơn tràng lấy nhựa cây, đúng không thì con chẳng biết.
- Ôi! Chẳng phải là người, không phải đâu! - Gã Wit hét lên.
Ông Maćko quát gã im, thận trọng nhìn kỹ người đàn ông rồi đột nhiên nói lớn:
- Cầu nguyện đi! Cầu Thánh Thần đến đây với ta!…
- Sáng danh Đức Chúa Giêsu Kì-tô! - Gã đàn ông kêu lên và làm dấu thánh rất nhanh, gã thở một hơi dài nhẹ nhõm, nhìn đám đông đang vây quanh vẻ tin tưởng hơn, lặp đi lặp lại. - Sáng danh Chúa Giêsu Ki-tô! Cũng chẳng hay tôi rơi vào tay ai, dân Ki-tô hay quỷ dữ. Ôi, Chúa ơi!…
- Đừng sợ, ngươi đang ở với người Ki-tô giáo, những người thường nghe giảng đạo. Ngươi là ai?
- Thợ lấy nhựa, thưa ngài, dân sơn tràng. Chúng tôi có bảy người ở trong rừng với đàn bà và con trẻ.
- Có xa đây không?
- Chưa đầy mười dặm.
- Các ngươi thường đi đến thành nào?
- Chúng tôi có đường riêng đi đến Lũng Quỷ.
- Lũng Quỷ à! Ngươi cầu nguyện lần nữa đi!
- Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, amen!
- Được rồi. Thế giờ đường đó xe có qua được không?
- Bây giờ khắp nơi đều lầy bùn, ở đó không được như trên đường cái quan, nhưng gió thổi dưới thung lũng nên bùn cũng khô se. Đường đến Budy khó đi lắm, nhưng theo đường rừng đi từng quãng thì cũng đến được Budy.
- Một quan tiền ngươi có dẫn đường không, mà thôi, hai quan cũng được!
Người thợ kiếm nhựa thông vui vẻ chấp nhận, nhất là khi được ăn thêm nửa ổ bánh mì, vì tuy trong rừng chẳng đến nỗi đói nhưng bánh mì thì đã lâu ông ta không được ăn. Họ hẹn sáng sớm mai sẽ lên đường, vì đi ban đêm không hay. Về con quỷ Boruta, người thợ sơn tràng kể, thỉnh thoảng nó cũng “quấy động” kinh hoàng trong rừng, nhưng nó chẳng làm hại dân thường, mà còn đuổi đánh những con quỷ khác trong các bụi rậm, ganh nhau về công quốc Leczyca. Nhưng gặp nó ban đêm thì tệ lắm, nhất là khi người ta say bí tỉ. Còn ban ngày mà tỉnh táo thì chẳng có lý do gì để phải sợ.
- Sao ngươi lại sợ thế? - Ông Maćko hỏi.
- Vì vị hiệp sĩ kia bất ngờ tóm tôi mạnh đến nỗi tôi nghĩ đó không phải là người.
Jagienka bật cười vì tất cả mọi người đều cho ông thợ sơn tràng là một thứ “quỷ quái”, còn ông ta cũng nghĩ về họ như thế. Cả Anulka Sieciechówna cũng bật cười rinh rích, ông Maćko bảo:
- Cháu suýt mù mắt khóc thương Hlava, bây giờ lại cười à!
Chàng trai Séc đỏ mặt nhìn cô, thấy hàng mi cô vẫn còn ướt, bèn hỏi:
- Cô khóc vì tôi thật à?
- Ê, không có đâu! - Cô gái đáp. - Em chỉ sợ quá, thế thôi!
- Là quý tộc, phải biết xấu hổ chứ. Cô chủ chúng ta có sợ đâu nào. Ban ngày ban mặt, giữa đông người mà sợ gì chứ?
- Em không sợ cho em, mà chỉ sợ cho anh!
- Thế sao cô lại bảo không khóc vì tôi?
- Không khóc vì anh.
- Thế vì sao nào?
- Vì sợ.
- Bây giờ cô còn sợ nữa không?
- Không.
- Sao thế?
- Vì anh đã về.
Nghe thấy thế, chàng trai Séc nhìn cô đầy hàm ơn rồi mỉm cười bảo:
- Nói thế thì nói đến mai! Cô ranh lắm.
Vốn là chàng trai tinh khôn, nhanh nhẹn, Hlava hiểu rõ rằng không phải thế. Chàng cũng biết rằng càng ngày cô bé càng gắn bó với mình hơn. Bản thân chàng rất yêu mến Jagienka, nhưng như một thần dân yêu mến công chúa con vua, mến yêu với lòng thành kính và ngưỡng mộ, chẳng chút hy vọng. Trong khi đó chuyến hành trình khiến chàng gần gũi với cô bé Sieciechówna.
Khi đi, ông Maćko thường sóng đôi với Jagienka dẫn đầu, còn anh chàng đi với Anulka. Là một tráng niên vâm váp như bò tót, máu nóng cuồn cuộn dâng trào như sôi, vậy nên dọc đường khi liếc nhìn đôi mắt trong trẻo của cô, ngắm những sợi tóc màu sáng lòa xòa không chịu mắc vào mao mạng, ngắm dáng hình mảnh mai xinh đẹp, và nhất là đôi chân tròn trịa, tuyệt vời đang cưỡi con ngựa non màu đen, thì một cơn rùng mình chợt chạy xuyên suốt từ chân lên đầu chàng. Chàng không thể kiềm chế, ngày càng thường xuyên, ngày càng ham muốn nhìn ngắm tất thảy những điều tuyệt mỹ ấy, và bất giác nghĩ rằng nếu ma quỷ biến thành một tiểu đồng tuyệt vời như vậy, hẳn nó dễ dẫn chàng vào cám dỗ.
Và bởi được đi cùng một tiểu đồng ngọt như mật, lại rất biết vâng lời, nên chỉ cần một cái liếc mắt là chàng đã vui vẻ như chim sẻ trên mái nhà. Đôi khi những ý nghĩ kỳ lạ len vào tâm tư chàng Séc, và một lần khi hơi lùi lại phía sau cùng Anulka, chàng ta quay sang cô và nói:
- Cô biết không? Tôi đi với cô ở đây hệt như sói đi với cừu non ấy.
Còn cô, hàm răng trắng ánh lên cùng nụ cười chân thành, hỏi:
- Anh muốn ăn thịt tôi? Ha! Xin mời!
Chàng trai nhìn cô với ánh mắt khiến cô như bị cháy bỏng, để rồi sau đó sự im lặng bao trùm cả hai, chỉ có trái tim đập nhịp dập dồn mạnh mẽ, chàng trai vì ham muốn, cô gái vì một nỗi e lệ ngọt ngào và đắm say nào đó.
Thoạt tiên, những ham muốn trong lòng chàng trai Séc chiếm ưu thế, vượt trên cả sự chăm lo dịu dàng, và khi nói rằng chàng nhìn Anulka như một con sói nhìn cừu non, là nói thật. Mãi cho đến buổi tối hôm đó khi thấy đôi má và hàng mi đẫm lệ của cô, trái tim chàng trai mới mềm đi. Với chàng, cô gái nhân hậu, gần gũi và xiết bao chân thật, còn bản tính chàng cũng trung thực và là một hiệp sĩ, nên chàng không chỉ vượt qua ham muốn dục vọng và mềm lòng khi thấy những giọt lệ ngọt ngào kia, mà còn trở nên rụt rè và chăm lo cho cô gái nhiều hơn. Chàng đã bỏ được thói buông tuồng bất cẩn trong ăn nói ngày trước, và mặc dù vẫn hay nói đùa trong bữa tối về tính cả thẹn của cô gái, nhưng chàng đã thay đổi hẳn, phục vụ cô như giám mã của hiệp sĩ có nghĩa vụ phục vụ một tiểu thư. Còn ông Maćko, dù mải nghĩ về việc ngày mai và tiếp tục cuộc hành trình, song cũng nhận ra điều đó nhưng chỉ khen ngợi chàng về việc cải thiện thái độ, điều mà chắc là chàng trai Séc đã học được khi đi cùng Zbyszko ở cung đình Mazowsze.
Rồi quay sang Jagienka, ông nói thêm:
- Hey! Zbyszko thì biết cách cư xử ngay cả khi ở trước mặt đức vua.
Sau khi phục dịch tại bữa tối, lúc tạm biệt để nghỉ đêm, hôn tay Jagienka rồi, Hlava đã nâng cả bàn tay của Sieciechówna lên môi hôn và nói:
- Xin cô đừng sợ, ở bên tôi cô không phải sợ bất cứ điều gì, bởi tôi sẽ không để cho kẻ nào làm hại cô đâu.
Sau đó, đám đàn ông ngả mình trong chính sảnh, còn Jagienka và Anulka trong gian nhà xếp, trên một chiếc giường rộng và cũng khá chắc chắn. Nhưng không hiểu sao cả hai không thể ngủ được, đặc biệt Sieciechówna cứ chốc chốc lại trở mình trằn trọc trên tấm thảm trải giường, vì vậy một lúc lâu sau Jagienka bèn dịch sát đầu cô và bắt đầu thì thầm:
- Anulka?
- Gì cơ chị?
- À.. Chị thấy em yêu anh chàng Séc lắm rồi… Phải không?
Câu hỏi ấy không có lời đáp, vì vậy Jagienka lại thì thầm lần nữa:
- Chị hiểu mà… Kể chị nào…
Sieciechówna không trả lời, mà chỉ áp đôi môi mình vào má cô chủ rồi chốc chốc lại hôn nhẹ. Còn nàng Jagienka tội nghiệp thì những hơi thở dài lại theo nhau dâng lên, căng tràn lồng ngực thanh nữ.
- Ôi, chị hiểu, chị hiểu mà! - Cô thì thầm rất khẽ, đến nỗi tai Anulka chỉ thoảng nghe được lời cô.