← Quay lại trang sách

Chương 50

Mờ sáng, họ ra đến sông Nicwiaza [215] rồi vượt qua sông: người trên lưng ngựa, người bám đuôi ngựa, người trên những bó cỏ lau. Việc đó diễn ra quá nhanh, đến nỗi ông Maćko, Zbyszko, Hlava và những người lính tình nguyện xứ Mazury đều ngạc nhiên trước sự khéo léo của cư dân chốn này, và bây giờ mới hiểu tại sao cả rừng rú, cả đầm lầy, cả sông sâu cũng không thể ngăn được các cuộc hành quân của người Litva. Vượt khỏi sông, không một ai cởi quần áo, bỏ áo khoác lông thú hay tấm da chó sói đội đầu, mà chỉ nghiêng lưng về phía mặt trời để cho khô bớt nước, khiến người họ bốc hơi như những lò đốt nhựa cây - và sau khi nghỉ ngơi chút đỉnh, họ lại vội vã hành quân về hướng bắc. Chiều tối, họ đến sông Niemen. Để vượt qua con sông lớn đang phình rộng do nước lũ mùa xuân thì thật là không dễ dàng. Chỗ cạn mà ông Skirwoiłło biết có nơi lại biến thành vực sâu, đến nỗi lũ ngựa phải bơi những quãng dài. Hai người bị dòng nước cuốn đi ngay sát bên cạnh Zbyszko và chàng Séc, mà họ cũng không cứu nổi do bóng tối và nước cuộn che khuất tầm nhìn, còn những người bị nạn thì không dám kêu cứu, vì trước đó chỉ huy đã ra lệnh phải tuyệt đối im lặng khi vượt sông. May thay, tất cả những người khác đã sang được bờ bên kia an toàn, nơi họ ngồi nghỉ mà không đốt lửa cho đến tận sáng.

Trong những tia sáng ban ngày đầu tiên, đội quân chia thành hai nhánh. Một nhánh cùng ông Skirwoiłło tiến sâu vào nội địa để đón đánh dám hiệp sĩ mang lương thảo đến cho Gotteswerder, còn Zbyszko dẫn nhánh thứ hai trở lại hòn đảo để chặn đường những kẻ từ trong thành ra đón toán kia. Ngày hôm đó bầu trời thực tươi sáng và thanh bình, nhưng ở bên dưới, cả khu rừng, đồng cỏ ngập nước và các lùm cây bị che phủ bởi làn sương trắng đục dày đặc, che khuất hẳn tầm nhìn xa. Điều này đã tạo hoàn cảnh thuận lợi cho Zbyszko và đám người của chàng, vì bọn Đức kéo từ trong thành ra không thể nhìn thấy họ từ xa để rút lui trước khi trận đánh nổ ra. Chàng hiệp sĩ trẻ mừng lắm, nói với ông Maćko đang cưỡi ngựa đi bên cạnh:

- Trong màn sương mù này, dễ dâm vào nhau trước khi trông thấy nhau, chỉ cầu Chúa đừng để sương mỏng đi cho đến tận trưa.

Nói xong, chàng vọt lên trước để ra lệnh cho bách đội đi phía tiền quân, nhưng rồi chàng quay lại ngay và nói:

- Chỉ lát nữa ta sẽ tới con đường từ chỗ vượt sông phía đầu đảo dẫn vào trung tâm của vùng, ở đó ta sẽ nấp trong các bụi rậm đợi chúng.

- Sao anh biết đến con đường đó? - Ông Maćko hỏi.

- Từ các nông phu địa phương mà cháu có hơn chục người. Họ dẫn đường cho chúng cháu khắp mọi nơi.

- Anh định ẩn nấp cách thành và cách đảo bao xa?

- Khoảng một dặm.

- Thế là vừa, bởi nếu gần hơn, chúng có thể kéo bộ binh từ thành ra ứng cứu, như thế này thì vừa không kịp cứu mà cũng chẳng nghe được tiếng kêu la.

- Quả thế, cháu đã nghĩ vậy.

- Nếu anh đã nghĩ được một, thì hãy nghĩ thêm điều thứ hai: có các nông phu trung thành, anh nên cử hai, ba người đi lên phía trước, khi phát hiện thấy bọn Đức thì họ sẽ ra hiệu cho ta biết là chúng đang tới.

- Vâng, đã làm rồi ạ!

- Vậy thì ta nói với anh điều này. Hãy phái một trăm hay hai trăm người, ngay sau khi cuộc chiến bắt đầu thì không can dự vào, mà chạy đi chặn đường từ đảo.

- Đó là ưu tiên số một! - Zbyszko nói. - Cháu đã ra lệnh như vậy rồi ạ. Bọn Đức sẽ rơi vào bẫy như một cái nơm!

Nghe chàng nói thế, ông Maćko đưa mắt vui vẻ nhìn cháu trai, vui mừng thấy rằng mặc dù còn rất trẻ, Zbyszko cũng đã hiểu biết chuyện chiến chinh, nên ông mỉm cười và nói:

- Đúng huyết thống nhà ta!

Nhưng trong lòng chàng hộ vệ Hlava còn vui hơn cả ông Maćko, vì với chàng không có niềm khoái lạc nào lớn hơn là chiến trận.

- Con không biết, - chàng nói, - người của chúng ta sẽ đánh đấm ra sao với lũ kia, nhưng họ biết hành quân lặng lẽ và rõ ràng là rất muốn đánh nhau. Nếu ông Skirwoiłło làm tốt mọi chuyện theo kế hoạch, thì chẳng một thằng nào còn sống sót để thoát khỏi trận này.

- Cầu Chúa cho ít đứa thoát thân. - Zbyszko nói. - Nhưng ta đã ra lệnh cố gắng bắt càng nhiều tù binh càng tốt, và nếu có tay hiệp sĩ nào hay anh em đồng đạo nào của quân Thánh chiến, thì nhất thiết không được giết.

- Sao thế, thưa cậu chủ? - Chàng Séc hỏi lại.

Zbyszko bảo:

- Ngươi cũng nhớ là cố mà làm cho được điều ấy. Hiệp sĩ, nếu là hiệp khách, thường đi lang thang qua các thành đô, lâu đài, được gặp nhiều người, được nghe nhiều tin tức, còn nếu là đồng đạo Giáo đoàn thì còn biết nhiều hơn. Sự thật, Chúa đã đưa ta đến đây để bắt được một kẻ nào đó đáng giá mà đánh đổi. Nàng là người yêu thương nhất mà ta còn lại… nếu như nàng vẫn còn.

Nói đoạn, chàng lại thúc cựa giục ngựa tiến lên phía đầu đoàn quân để ban ra các mệnh lệnh cuối cùng và để trốn tránh những ý nghĩ buồn rầu, mà cũng chẳng đâu thời gian mà nghĩ nữa, vì vị trí đã chọn để phục kích không còn quá xa.

- Sao cậu chủ vẫn nuôi hy vọng là cô vợ trẻ của cậu còn sống và hiện đang ở miền này nhỉ? - Chàng trai Séc băn khoăn hỏi.

- Bởi vì nếu trong cơn thịnh nộ mà Zygftyd đã không giết con bé ở thành Szczytno, - ông Maćko bảo, - thì có thể hy vọng là nó vẫn còn sống. Nếu nó bị giết thì linh mục thành Szczytno đã không kể với bọn ta những chuyện ấy, mà cả Zbyszko cũng nghe thấy đấy thôi. Không phải dễ dàng cho một bạo chúa, dù tàn bạo nhất, khi phải xuống tay với một cô gái không chút tự vệ, hà, một đứa trẻ vô tội.

- Nặng nề, nhưng không phải đối với bọn Thánh chiến. Như chuyện các con của đại quận công Witold đấy thôi?

- Sự thật là chúng có trái tìm của lũ sói, tuy nhiên cũng sự thật là ở thành Szczytno lão đã không sát hại con bé mà kéo con bé về phương này, như vậy có thể lão đã giấu nó trong một tòa thành nào đó.

- Hey! Giá mà chiếm được hòn đảo và tòa thành này nhỉ!

- Hãy nhìn kỹ những con người này. - Ông Maćko nói.

- Chắc rồi! Chắc rồi! Nhưng xin nói với ông chủ, con có một ý này muốn chia sẻ với cậu chủ.

- Ngươi có cả mười ý thì dùng giáo cũng không thể phá vỡ được tường thành.

Nói thế, ông Maćko chỉ vào những hàng cây giáo mà phần lớn các chiến binh đều trang bị, rồi hỏi:

- Ngươi đã thấy một đội quân như thế bao giờ chưa?

Quả tình chàng Séc chưa từng thấy điều gì giống thế. Vừa vượt qua trước mặt họ là một toán chiến binh cưỡi ngựa, đông ken và lộn xộn, bởi trong rừng, giữa các lùm cây, rất khó để giữ đội hình. Thêm nữa, có những lính bộ binh đi xen lẫn giữa đàn ngựa, họ túm lấy bờm, bám vào yên và cả đuôi ngựa để theo cho kịp. Vai các chiến binh được che những tấm da chó sói, da mèo rừng và da gấu, với những cái đầu thú nhe bộ răng hoang dã, những bộ gạc hươu, những đôi tai thú đầy lông lá, vì vậy, giá như không có những thứ khí giới đang chổng ngược lên trời, không có những cánh nỏ láng bóng nhựa thông và hộp đựng đầy mũi tên đeo trên lưng, nếu trông từ đằng sau, nhất là trong làn sương mù, trông họ hệt như những đàn thú hoang dã, từ các hang hốc khuất nẻo trong rừng thẳm, đang kéo đi đâu đó trong một cuộc động rừng, bị thôi thúc bởi sự khát máu hay cái đói. Có điều gì đó vừa khủng khiếp vừa thật khác thường, như thể ta nhìn thấy một cuộc diễu hành huyền hoặc của tự nhiên, khi mà theo như truyền thuyết, mọi loài vật, thậm chí cả đất đá và cây cỏ đều bật dậy, cùng nhau nhịp bước khởi hành.

Nhìn thấy cảnh tượng ấy, một trong những vị hiệp sĩ xứ Łękawice đã đến đây cùng chàng Séc liền lại gần chàng, chào hỏi rồi nói:

- Sáng danh Cha và Con! Quả thật ta đang ở cùng với bầy sói chứ không phải người.

Mặc dù thoạt tiên cũng có cảm giác giống thế khi nhìn đội quân, nhưng Hlava trả lời như một người giàu kinh nghiệm, đã trải qua tất cả và không ngạc nhiên trước bất cứ điều gì:

- Mùa đông sói đi theo bầy, mùa xuân mới nếm máu quân Thánh chiến.

Giờ đang là tiết xuân - tháng năm! Khu rừng non xen lẫn với đại ngàn, đang phủ màu lục non. Trên làn rêu mịn màng và mềm mại, nơi mà bước chân đoàn chiến sĩ đi không có tiếng động, nảy ra những nụ hoa nho nhỏ màu xanh và trắng, cùng đám nghệ tây non và dương xỉ lá răng cưa. Đẫm nước mưa phùn, vỏ cây bốc mùi hăng hăng ẩm ướt, tầng rừng tỏa mùi hương ngai ngái của lá thông rụng và gỗ mục. Vầng dương gieo muôn ánh cầu vồng trên những giọt nước treo trên vòm lá, và tiếng chim vút lên vui vẻ trên tầng cao.

Họ đi mỗi lúc một nhanh hơn, bởi được Zbyszko thúc giục. Sau một lúc, chàng quay trở lại hậu quân, nơi có ông Maćko cùng chàng Séc và quân tình nguyện vùng Mazury. Niềm hy vọng một trận chiến thuận lợi dường như đã khiến chàng hồi sinh, khuôn mặt chàng không còn nét u ẩn thường ngày, và đôi mắt ánh lên long lanh như thuở xưa.

- Nào! - Chàng gọi. - Giờ là lúc phải lên tiền quân, không đi đoạn hậu!

Và chàng dẫn họ lên đầu đoàn quân.

- Chú ý nhé, - chàng nói lần nữa, - ta có thể tấn công bọn Đức bất ngờ, nhưng nếu chúng nhận thấy ta và kịp xếp thành đội hình thì chúng ta sẽ đánh trước, vì ta có giáp phục và những thanh kiếm tốt hơn!

- Cứ thế đi! - Ông Maćko đồng tình.

Những người khác cũng ngồi lại cho vững vàng hơn trên yên, như thể sắp xung trận đến nơi. Nhiều người hít mạnh không khí vào ngực và kiểm tra xem đoản kiếm có dễ rút khỏi bao không.

Zbyszko nhắc họ lần nữa, rằng nếu trong đám bộ binh Đức có những hiệp sĩ hoặc đồng đạo của Giáo đoàn khoác áo choàng trắng thì không được giết mà bắt làm tù binh, sau đó chàng lại vượt lên toán dẫn đường và một lúc sau lệnh cho đội quân dừng bước.

Họ đã đến con đường dẫn từ bến sông nằm đối diện với đảo và chạy sâu vào nội địa. Quả thực đó chưa phải đường cái quan, mà là một đường mòn qua rừng vừa được phát dọn và sửa sang bề mặt đủ để quân đội cùng xe chở hàng có thể đi. Hai bên đường là những rừng cây thân cao vút và những đống thân gỗ thông già cắt ngắn, vừa được chặt hạ để mở đường. Đám rừng cây bụi thấp tè đôi chỗ mọc dày đến nỗi che khuất cả tầm nhìn khu rừng cây cao. Zbyszko chọn nơi con đường bị ngoặt cong làm chỗ mai phục, để những kẻ đi đường không thể nhìn thấy gì từ phía xa, cũng không kịp rút lui hoặc dàn đội hình chiến đấu. Chàng chia lính phục cả hai bên con đường mòn và ra lệnh chờ đợi kẻ thù.

Quá quen thuộc với rừng rậm và chiến trận trong rừng, những chiến binh Żmudź đã nhanh chóng nấp kín sau những đống thân cây, những hốc rễ cây, các lùm cây và các bụi cây linh sam trẻ, như thể đã bị mặt đất nuốt chửng. Người không lên tiếng, ngựa không rừ. Thỉnh thoảng, những con thú nhỏ to của rừng kéo lại quanh những người đang ẩn nấp, chỉ khi gần chạm phải họ chúng mới kinh hoàng chạy trốn nhanh như tên bắn. Có những lúc hơi gió nổi lên, làm khu rừng tràn ngập những tiếng thì thầm trọng thể và trang nghiêm, đôi khi nó ngừng bặt, và âm thanh duy nhất là tiếng chim cúc cu xa xa cùng tiếng chim gõ kiến mổ vỏ cây ngay gần.

Các chiến binh Żmudź vui sướng lắng nghe những âm thanh ấy, đặc biệt là tiếng chim gõ kiến, tín hiệu báo cho họ điềm lành. Loài chim ấy sống trong khắp rừng rậm nơi đây, và những tiếng gõ vang về từ mọi phía của khu rừng, mạnh mẽ, khẩn trương, giống như những thanh âm lao động của con người, như thể chúng cũng có những bễ rèn ở đâu đó trong rừng và từ sáng sớm đã bắt tay vào công việc một cách nghiêm túc. Ông Maćko và những chiến binh vùng Mazury tưởng như nghe thấy thợ mộc đang đóng đinh vào những chiếc xà đỡ mái của ngôi nhà mới, và những thanh âm đó nhắc họ nhớ về gia trang.

Nhưng thời gian trôi qua và kéo dài mãi, mà vẫn chưa nghe tiếng động gì khác ngoại trừ tiếng ồn ã của rừng và tiếng các loài chim. Sương mù dưới thấp mỏng dần, mặt trời đã lên khá cao và bắt đầu hun nóng, còn họ cứ phải nằm im. Rốt cuộc đã chán vì chờ đợi và im lặng, Hlava ghé sát tai Zbyszko thì thầm:

- Thưa cậu chủ, lạy Chúa, nếu không có thằng chó đẻ nào thoát thân, thì liệu ta có nên nhân đêm đến kéo tới gần thành, vượt sông rồi bất ngờ chiếm thành?

- Thế ngươi nghĩ là chúng không canh gác thuyền bè và không có mật khẩu hay sao?

- Chúng canh gác và có mật khẩu, - chàng trai Séc thì thầm, - nhưng cứ gí dao vào cổ thì tù binh sẽ khai ngay, hoặc bắt chính chúng nói bằng tiếng Đức! Chỉ cần tới được đảo, còn tòa thành thì…

Chàng ngừng lời, bởi Zbyszko đột ngột đặt tay lên miệng, vì từ ngoài đường chợt vang lên tiếng quạ.

- Im! - Zbyszko nói. - Đó là ám hiệu!

Quả thực chỉ sau thời gian khoảng hai tuần kinh, trên đường mòn chợt xuất hiện một người Żmudź cưỡi con ngựa nhỏ thó, lông bờm xờm, móng được bịt da cừu để khỏi phát ra tiếng vó và không để lại dấu vết trên bùn.

Khi tới nơi, anh ta nhanh nhẹn nhìn cả hai bên, khi nghe thấy tiếng quạ kêu phía lùm cây, anh lẩn ngay vào rừng, và chỉ lát sau đã đến sát bên Zbyszko.

- Chúng đang đến… - Anh nói.