Chương 52
Zbyszko ra lệnh đặt de Lorche lên một trong các xe chiến lợi phẩm vừa thu được, trên xe chở đầy các bánh xe và trục xe còn mới nguyên, phục vụ cho chuyến hành quân để tiếp viện tòa thành. Còn chàng cưỡi lên một con ngựa khác và cùng ông Maćko tiếp tục đuổi theo bọn Đức đang chạy tan tác. Đó không phải là cuộc rượt đuổi khó khăn vì ngựa bọn Đức rất kém khi chạy trốn, nhất là khi đường đi lối lại đều nhão nhoét sau những cơn mưa xuân. Đặc biệt là với ông Maćko, ông cưỡi con ngựa nhỏ bé và nhanh nhẹn của dũng sĩ xứ Łękawice vừa bị giết, và sau vài chặng ngựa ông đã vượt trước toàn bộ dân Żmudź, đuổi kịp tên hiệp sĩ đầu tiên. Theo phong tục hiệp sĩ, ông lên tiếng gọi hắn, hoặc chịu quy hàng hoặc quay lại đánh nhau, nhưng hắn giả vờ điếc, ném cả khiên đi cho nhẹ ngựa và cúi rạp mình, thúc cựa vào hông giục ngựa. Vị hiệp sĩ lớn tuổi xả cho hắn một nhát kinh hoàng bằng rìu rộng bản vào giữa hai vai, khiến hắn ngã lộn người khỏi lưng ngựa.
Cứ thế ông trả thù bọn đang trốn chạy, vì mũi tên bắn lén mà ông đã bị bắn ngày trước; chúng chạy trốn trước ông như một đàn hươu, với nỗi sợ hãi khôn xiết trong tim, trong tâm chúng chỉ mong thoát khỏi người đàn ông khủng khiếp nọ, chứ không phải chiến đấu hay tự vệ. Vài kẻ chạy được vào rừng, nhưng một tên chìm trong suối và bị những người Żmudź dìm chết. Những kẻ khác trốn trong các lùm cây, nơi bắt đầu một cuộc săn hoang dã, đầy tiếng la hét, kêu than và khóc lóc. Những thanh âm đó vang trong rừng hồi lâu cho đến khi tất cả bọn chúng đều bị tóm cổ. Rồi lão hiệp sĩ trang Bogdaniec, cùng với Zbyszko và chàng trai Séc đã trở lại bãi chiến trường ban đầu, nơi hàng loạt xác bộ binh Đức bị chém chết nằm la liệt. Xác của chúng đã bị lột trần, một số còn bị hành hạ một cách khủng khiếp bởi dân Żmudź đầy thù hận. Chiến thắng này là đáng kể và họ đang say sưa vui sướng. Sau thất bại gần đây của ông Skirwoiłło ở thành Gotteswerder, nỗi chán ngán đã chế ngự trái tim của cư dân Żmudź, nhất là khi lương thực cứu viện mà đại quận công Witold đã hứa không đến nhanh như họ mong đợi; giờ đây niềm hy vọng lại trỗi dậy và sự nhiệt tình lại bùng lên, hệt như lửa cháy rực lên khi được tiếp thêm củi.
Cả quân Żmudź lẫn quân Đức có quá nhiều người bị thiệt mạng để có thể chôn cất, nên Zbyszko lệnh dùng giáo đào hố dưới tán thông chôn hai dũng sĩ xứ Łękawice đã đóng góp lớn vào chiến thắng, trên thân cây dùng gươm khắc dấu thập tự. Rồi sau khi lệnh cho chàng trai Séc trông coi hiệp sĩ de Lorche vẫn đang bất tỉnh, Zbyszko giục mọi người nhanh chóng đi theo con đường về hướng ông Skirwoiłło để trợ giúp ông nếu cần. Sau một thôi đường, họ đến một bãi chiến trường vắng hoe, la liệt xác chết của dân Żmudź và quân Đức. Zbyszko hiểu ngay rằng ông Skirwoiłło hùng mạnh hẳn cũng giành được thắng lợi đáng kể, vì nếu bị thua thì chàng đã gặp phải quân Đức kéo về phía thành. Nhưng chiến thắng ắt phải rất đẫm máu, bởi vì ngoài chiến địa chính, xác người chết còn dày đặc khắp nơi. Dày dạn kinh nghiệm, ông Maćko suy ra rằng hẳn một bộ phận quân Đức đã kịp rút lui khỏi cuộc tàn sát.
Khó đoán được là ông Skirwoiłło có đuổi theo chúng hay không, bởi vì các dấu vết đã bị xóa đi nhiều. Tuy nhiên, ông Maćko kết luận rằng chiến cuộc kết thúc đã khá lâu, có lẽ sớm hơn trận đánh của Zbyszko, vì các xác chết đã ngả màu xám và hơi trương lên, một số đã bị chó sói cắn xé, những con này bỏ chạy tản mát vào rừng khi đoàn người có vũ trang tiến đến gần.
Vì thế, Zbyszko quyết định không chờ ông Skirwoiłło mà quay trở về cái trại cũ. Mãi đến khuya họ mới về đến nơi, tại đó chàng gặp lại vị thủ lĩnh của quân Żmudź, người trở về sớm hơn chàng chút ít. Khuôn mặt vốn u ẩn của ông giờ rạng rỡ một niềm vui khắc khổ. Ngay lập tức ông hỏi chàng về trận đánh, và khi biết tin thắng lợi, ông cất giọng nói, giống như tiếng quạ kêu:
- Mừng vì anh, cũng vui vì ta. Đại quân không sớm tới đâu, nhưng nếu như đại quận công có đến, hẳn người cũng vui mừng, bởi vì tòa thành này sẽ là của ta.
- Ngài bắt được tù binh nào không? - Zbyszko hỏi.
- Có được gì đâu, chẳng được con cá sộp nào hết. Cũng có một, hai con, nhưng chúng chuồn mất rồi. Lũ cá đầy răng! Nó cắn trộm người ta rồi trốn mất!
- Đức Chúa đã ban cho tôi một tên. - Chàng trai trẻ tiếp lời. - Một hiệp sĩ hùng mạnh và lừng danh, dẫu là dân thế tục - một hiệp khách!
Lão vương Żmudź cuồng nộ đặt cả hai tay quanh cổ, rồi tay phải làm một cử chỉ như kéo dây thừng hướng lên trên.
- Hắn sẽ được thế đấy! - Ông nói. - Cũng như cả lũ kia… Phải!
Nghe thấy thế, Zbyszko chợt nhíu mày:
- Hắn ta sẽ không bị gì hết, bởi vì đó là tù binh của tôi và là bạn tôi. Quận công Janusz đã làm lễ tuyên thệ cho chúng tôi cùng một lần, tôi không cho phép ai được chạm đến hắn ta.
- Ngươi không cho?
- Tôi không cho.
Và họ bắt đầu nhìn thẳng vào mắt nhau, lông mày chau lại. Dường như cả hai sắp nổ bùng lên, nhưng Zbyszko không muốn cãi nhau với vị thủ lĩnh lớn tuổi mà chàng đánh giá cao và tôn trọng, hơn nữa trái tim chàng vẫn đang ngây ngất vì những chuyện xảy ra trong ngày, nên chàng đột nhiên ôm lấy cổ ông, ghì vào ngực mình và kêu lên:
- Ngài muốn cướp anh ta khỏi tay tôi, cướp cả niềm hy vọng cuối cùng của tôi? Sao ngài lại làm tổn thương tôi?
Ông Skirwoiłło không tránh né cái ôm, lúc sau ông ngẩng đầu khỏi vòng tay Zbyszko, vừa chăm chú nhìn chàng vừa thở hổn hển.
- Nào, - ông nói sau một lúc im lặng, - ngày mai ta sẽ ra lệnh treo cổ hết lũ tù binh của ta, nhưng nếu anh cần thằng nào, ta sẽ tha cho thằng ấy.
Sau đó, họ lại ôm ghì nhau lần nữa và chia tay trong sự hòa thuận tốt lành, khiến ông Maćko hài lòng khôn xiết, thốt lên:
- Tức tối thì chẳng thể moi được gì từ ông ta, còn lòng tốt thì có thể nhào nặn ông ta như sáp nhão.
- Dân xứ đây là thế, - Zbyszko nói, - chỉ có bọn Đức là không biết điều đó.
Nói xong, chàng ra lệnh đưa hiệp sĩ de Lorche tới bên đống lửa, sau khi hiệp sĩ đã được nghỉ ngơi đôi chút trong lều. Lát sau chàng Séc đưa tù binh tới, đã bị tước vũ khí, không có mũ trụ, chỉ mặc áo kaftan bằng da, mặt da hằn rõ những vệt áo giáp, với một chiếc mũ chỏm màu đỏ mềm mại trên đầu. Qua chàng hộ vệ, de Lorche biết trước mình là tù binh của ai, chính vì thế chàng ta bước đến với vẻ lạnh lùng, tự tôn, mặt ánh lên sự bướng bỉnh và khinh khi.
- Cảm ơn Chúa, - Zbyszko nói với chàng, - là đã trao anh vào tay tôi, vì thế sẽ không có gì gây hại cho anh cả.
Và chàng chìa tay ra thân mật, nhưng de Lorche không hề động dậy.
- Ta không chìa tay cho những hiệp sĩ đã làm hoen ố danh dự hiệp sĩ, những kẻ đã cùng với bọn Saracen chiến đấu chống lại các Ki-tô hữu.
Một người Mazury dịch lại, vả chăng Zbyszko cũng đoán được nghĩa của lời ấy. Vì vậy, thoạt tiên máu chàng như sôi cả lên.
- Đồ ngu! - Zbyszko hét lên, tay bất giác nắm chặt đoản đao.
Còn de Lorche vẫn ngẩng đầu.
- Giết ta đi! - De Lorche nói. - Ta biết các ngươi chẳng bao giờ thương xót tù binh.
- Còn các ngươi thì thương xót họ sao? - Chiến binh Mazury thét lên, không thể bình tâm khi nghe những lời nói ấy. - Không phải các ngươi đã treo cổ trên bờ đảo tất cả những người bị bắt trong trận chiến vừa rồi sao? Vì thế mà ông Skirwoiłło đã treo cổ những người của các ngươi.
- Đúng là chúng ta đã làm thế, - de Lorche nói, - nhưng đó là bọn ngoại đạo.
Tuy nhiên, có thể thấy dường như chàng cũng thấy xấu hổ khi trả lời, và không khó đoán rằng tận sâu trong tâm hồn chàng cũng không chấp nhận hành động đó.
Lúc này, Zbyszko đã nguôi giận, nói rất điềm tĩnh và nghiêm túc:
- De Lorche! Hai ta đã nhận đai hiệp sĩ và cựa thúc ngựa từ tay cùng một người; ngươi biết ta quá rõ, ngươi biết rằng với ta, danh dự hiệp sĩ còn quý hơn mạng sống, vậy hãy lắng nghe cho kỹ những điều mà ta thề với Thánh Jerzy là sẽ bảo cho ngươi biết đây: phần đông những người này đều đã được rửa tội, không phải mới hôm qua, còn những người chưa phải Ki-tô hữu thì cũng đang vươn tay đến thánh giá để cầu xin cứu rỗi; nhưng ngươi có biết ai đã gây trở ngại cho họ đến với sự cứu rỗi, ngăn trở họ không được phép rửa tội hay chăng?
Người Mazury dịch nhanh những lời của Zbyszko, de Lorche đưa mắt dò hỏi nhìn khuôn mặt của chàng trai trẻ.
Zbyszko liền thốt lên:
- Bọn Đức!
- Không thể nào! - Hiệp sĩ xứ Geldria gào lên.
- Thề trên mũi giáo và cựa thúc ngựa của Thánh Jerzy, chính là bọn Đức! Bởi nếu thánh giá trị vì nơi đây thì bọn chúng sẽ mất cái cớ để xâm lăng, để cai trị đất nước này và đè nén cư dân bất hạnh nơi đây. Ngươi hiểu chúng quá rõ mà, de Lorche, ngươi biết rõ nhất những hành động chúng làm có chính đáng hay không.
- Thế mà ta lại tưởng rằng họ đang trừng phạt tội lỗi, đang chiến đấu với dân ngoại đạo và khuyên chúng chịu lễ rửa tội.
- Bọn Đức đã rửa tội cho họ bằng gươm, bằng máu của chính họ, chứ không phải bằng nước lành cứu rỗi. Hãy đọc tờ thư này, ngươi sẽ biết ngay thôi, rằng có phải chính ngươi đã phục vụ cho những kẻ tội đồ, bọn thú dữ và ma quỷ của địa ngục để chống lại đức tin và tình yêu thương Ki-tô giáo hay không.
Nói đoạn, Zbyszko đưa ra bức thư của những người dân Żmudź gửi cho các vị vua chúa và quận công, bức thư rất phổ biến ở khắp mọi nơi, de Lorche cầm lấy nó và bắt đầu lia mắt đọc trong ánh lửa.
Chàng đọc rất nhanh, bởi vốn quen việc đọc, sau đó ngạc nhiên quá đỗi mà thốt lên:
- Chẳng lẽ tất thảy là sự thật sao?
- Thật như ngươi và ta đang được Chúa che chở, Người biết rõ nhất rằng ta đang ở đây không chỉ vì chuyện riêng, mà còn vì phục vụ công lý nữa.
De Lorche nín lặng hồi lâu, rồi nói:
- Ta là tù binh của ngươi.
- Hãy đưa tay cho tôi. - Zbyszko nói. - Anh là người anh em của tôi, chứ không phải tù binh.
Thế là họ chìa tay phải bắt tay nhau, rồi cùng ngồi ăn bữa tối mà chàng Séc đã lệnh cho các đầy tớ chuẩn bị. Trong bữa ăn, de Lorche càng ngạc nhiên khi biết rằng mặc dù có lá thư của các bậc bề trên, Zbyszko vẫn chưa thể tìm được Danusia, và các viên chỉ huy không thừa nhận giá trị pháp lý của thư thiết khoán vì lý do chiến tranh đã bùng nổ.
- Bây giờ tôi mới hiểu sao anh lại ở đây, - chàng bảo Zbyszko, - xin cảm ơn Chúa đã cho tôi làm tù binh của anh, tôi nghĩ rằng các hiệp sĩ Thánh chiến sẽ chịu bằng lòng trả cho anh bất cứ ai mà anh muốn để đổi lấy tôi, nếu không sẽ ồn ào rất kinh khủng ở phương Tây, bởi vì tôi sinh ra trong gia đình thế tộc…
Nói tới đây, đột nhiên chàng đập tay vào đầu và thốt lên:
- Thề có tất cả các thánh tích ở Akwizgran! Dẫn đầu các đạo quân kéo đến Gotteswerder chính là Arnold von Baden và lão hiệp sĩ Zygfryd de Lӧwe. Tôi biết vậy từ những thư được gửi đến thành. Họ có bị bắt không?
- Không! - Zbyszko bật dậy, nói. - Không có hiệp sĩ nào danh tiếng lẫy lừng hơn họ. Lạy Chúa tôi! Anh đã báo cho tôi một tin thật tuyệt. Cầu Chúa lòng lành! Còn có những tù binh khác, tôi sẽ hỏi chúng xem có cô gái nào đi cùng Zygfryd hay không.
Chàng liền gọi gia nhân lấy đuốc soi đường cho chàng chạy về hướng mà bọn tù binh bị ông Skirwoiłło bắt đang tụ tập. De Lorche, ông Maćko và anh chàng Séc cũng chạy theo chàng.
- Nghe này! - Dọc đường, chàng trai xứ Geldria nói. - Anh hãy tin lời tôi, thả tôi ra, tôi sẽ lùng sục khắp xứ Phổ để tìm kiếm cô ấy, và khi tìm thấy cô ấy, tôi sẽ trở lại với anh, rồi anh sẽ đổi tôi để nhận cô ấy.
- Nếu nàng còn sống! Nếu nàng còn sống! - Zbyszko nói.
Họ chạy đến nơi đám tù binh của ông Skirwoiłło đang túm tụm. Một số đang nằm, số khác bị trói đứng sát vào thân cây bằng các bó sợi vỏ cây. Những ngọn đuốc chiếu sáng soi rõ mặt Zbyszko, nên tất thảy đám người không may mắn ấy đều ngoảnh lại nhìn chàng.
Đột nhiên, từ một nơi sâu thẳm nào đó chợt vang lên tiếng kêu to đầy sợ hãi:
- Ông chủ của tôi, người bảo vệ của tôi, cứu tôi với!
Zbyszko giật lấy vài cành cây đang cháy từ tay một gia nhân, nhảy đến chỗ gốc cây nơi phát ra tiếng nói, rồi giơ cao đuốc lên, kêu lớn:
- Sanderus!
- Sanderus! - Chàng Séc cũng ngạc nhiên thốt lên.
Còn người kia, vì không thể động đậy đôi tay bị trói, chỉ đành cố vươn dài cổ kêu lên lần nữa:
- Ơn Chúa lòng lành!… Tôi biết con gái của ông Jurand đang ở đâu… Cứu tôi!