← Quay lại trang sách

Chương 58

Giữa cơn cuồng phong và những làn mưa xối xả, lão Zygfryd và cụ Tolima đang ra sức giục ngựa tiến đến gần địa giới trang Spychow. Cụ quyết định phải hộ tống lão hiệp sĩ Đức vì lo dọc đường, những nông nô canh phòng hoặc đám gia nhân của điền trang Spychow đang vô cùng căm hận và sục sôi ý muốn báo thù sẽ giết lão. Lão Zygfryd cưỡi ngựa không có vũ khí, nhưng cũng chẳng bị trói. Cơn dông tố xua gió lốc đến đây đang vần vụ trên đầu họ. Đôi khi, tiếng sấm đột ngột vang rền khiến những con ngựa giật mình khuy hậu xuống. Trong bầu không khí im lặng ngột ngạt, họ cưỡi ngựa dọc theo một khe núi sâu, đôi khi phải đi sát nhau, bàn đạp kề bên bàn đạp vì con đường quá chật hẹp. Vốn đã nhiều năm quen canh giữ tù binh, chốc chốc cụ Tolima lại đưa mắt thận trọng trông chừng lão Zygfryd, như e lão đột nhiên trốn mất - và mỗi lần như thế, cụ lại bất chợt rùng mình vì thấy mắt của lão hiệp sĩ Thánh chiến cháy rực trong bóng tối như mắt của ma quỷ.

Bất giác, cụ định làm dấu thánh, nhưng lại chợt nghĩ rằng biết đâu khi thấy dấu thánh lão lại chẳng hú lên một tiếng không phải tiếng người, và biến thành một con quỷ kinh tởm, đầy răng nhọn lởm chởm - ý nghĩ ấy khiến cụ sợ hơn. Người lính già từng dám đấu tay đôi với cả toán lính Đức như một con điều hâu dũng mãnh đánh tan tác đàn gà, nhưng lại rất sợ các thế lực bẩn thỉu và không muốn phải đối mặt với chúng. Cụ những muốn chỉ đường đi cho tên Đức rồi quay lui, nhưng lại tự thấy hổ thẹn với chính mình, nên cố hộ tống lão đến tận biên giới.

Khi họ đến bìa rừng Spychow, cơn mưa chợt tạnh, mây rực lên một thứ ánh sáng vàng rực đến lạ lùng. Ngày sáng sủa hơn, mắt lão Zygfryd mất đi ánh dữ dằn trước đó. Nhưng lúc đó, lòng cụ Tolima lại nảy sinh một cám dỗ khác. Cụ tự nhủ: “Họ bảo ta đưa con chó điên này đến biên giới an toàn, thì ta đã đưa; nhưng có nên chăng thả tên đao phủ của ông chủ và con gái ông chủ đi mà không trả thù, không trừng phạt? Giết lão có phải là hành vi xứng đáng, đẹp lòng Thiên Chúa? Hey! Hay thách đấu sinh tử với lão? Giờ thì lão không có vũ khí, nhưng chỉ cách đây khoảng một dặm, ngay trong lâu đài ông chủ Warcimowy, ta sẽ tìm cho lão một thanh gươm hoặc lưỡi rìu chiến, và ta sẽ đấu với lão. Cầu Chúa cho ta hạ gục lão, rồi sẽ phanh thây và đá đầu lão xuống hố phân!” Cụ cứ nhủ thầm như vậy và liếc nhìn tên Đức với vẻ thèm thuồng, mũi cụ giật giật như thể cảm nhận được mùi máu tươi. Hẳn cụ đã phải đấu tranh ghê gớm với mong muốn ấy, phải vật lộn gay go với chính mình, mãi tới khi cụ nghĩ ra rằng ông Jurand đâu phải chỉ cứu mạng sống và trả tự do cho gã tù binh này trong phạm vi địa giới, mà nếu cụ làm việc đó thì việc làm thánh thiện của ông sẽ mất ý nghĩa, phần thưởng thiên giới dành cho ông cũng sẽ bị cắt giảm ghê gớm, nên rốt cuộc cụ đã thắng được bản thân mình. Cụ bèn kìm ngựa và bảo:

- Đây là địa giới của chúng ta, đường đến chỗ ngươi không xa nữa. Ngươi hãy đi đi, và nếu nỗi đau đớn không dè bẹp ngươi, sấm sét của Chúa không đuổi kịp ngươi, thì con người sẽ không de dọa gì ngươi nữa đâu.

Nói xong, cụ quay ngựa, còn lão Thánh chiến đi tiếp, không nói lời nào, với vẻ mặt như đã hóa đá một cách hoang dã, như chẳng hề nghe thấy gì.

Và lão cứ tiếp tục đi như thể đang chìm trong một giấc ngủ mê trên con đường đã trở nên rộng rãi hơn.

Cơn dông chỉ tạnh một lúc, trời chỉ rạng ra trong một thoáng. Rồi trời tối sầm lại, như thể thế gian chìm vào bóng đen của chiều hôm, những đám mây xuống thấp, gần như che phủ ngay trên đỉnh rừng. Trên trời âm âm tiếng rì rầm đáng sợ, như tiếng rú rít sốt ruột và tiếng gầm gừ của những cơn sấm sét đang bị thiên sứ của dông bão ghìm lại. Nhưng chốc chốc, những ánh chớp chói lòa lóe lên chiếu sáng bầu trời đầy đe dọa và mặt đất đang sợ hãi, khi đó có thể nhìn thấy con đường trải rộng chạy dài giữa hai bức tường đen sẫm của rừng cây, trên đó, ở giữa lòng đường, một kỵ sĩ đơn độc trên lưng ngựa. Lão Zygfryd đi nửa mê nửa tỉnh, như bị hành hạ bởi cơn sốt nóng. Nỗi tuyệt vọng đã gặm nhấm linh hồn lão kể từ lúc Rotgier bị giết chết, một mớ hỗn độn trộn lẫn giữa nỗi thù hận, đau xót, những cảnh tượng kinh hoàng, sự giày vò lương tâm khiến tâm trí lão u mê suốt một thời gian dài, đến mức lão phải cố hết sức để khỏi phát điên, nhưng nhiều khi cũng phải chịu bó tay. Ấn tượng còn mới tinh là những vất vả của cuộc hành trình dưới bàn tay cứng rắn của chàng trai Séc, cái đêm bị giam ở Spychow, sự phấp phỏng về mạng sống, và trên tất cả là cách hành xử từ bi đầy ân sủng, chưa từng có, gần như siêu nhiên, khiến lão bàng hoàng, tất cả những chuyện ấy đã dồn ép lão đến cùng cực. Đôi khi ý nghĩ đông cứng lại, lão hoàn toàn không biết điều gì đang xảy ra với mình, nhưng sau đó cơn sốt nóng lại thức tỉnh lão, đồng thời đánh thức trong lòng lão cái cảm giác tuyệt vọng, tổn thất, mất mát - cảm giác rằng mọi thứ đã trôi qua, đã lụi tắt, đã kết thúc, đã xuất hiện cái lằn ranh mà chung quanh chỉ toàn bóng đêm và bóng đêm, là hư không, giống như một vực thẳm khủng khiếp đầy những nỗi kinh hoàng mà lão buộc phải đi tới.

- Đi! Đi đi! - Một giọng nói bỗng đột ngột thì thầm bên tai lão.

Lão đưa mắt nhìn quanh và trông thấy thần chết. Một bộ xương người cưỡi trên một bộ xương ngựa, lướt nhẹ ngay cạnh lão, với những chiếc xương trắng toát va vào nhau lạo xạo.

- Ngươi đấy à? - Lão Thánh chiến hỏi.

- Ta đây. Đi đi!

Nhưng đúng vào lúc đó, lão lại thấy còn có một người bạn đồng hành ở phía bên kia: đi sát cạnh là hình hài giống như một người đàn ông, nhưng với khuôn mặt không phải mặt người mà là một cái đầu thú vật, với đôi tai dựng ngược, một cái mõm dài, nhọn, phủ lông đen.

- Ai đấy? - Lão Zygfryd hỏi.

Thay cho câu trả lời, kẻ đó nhe nanh và gầm lên.

Lão Zygfryd nhắm nghiền mắt, nhưng lập tức lão lại nghe thấy tiếng xương lạo xạo va nhau khủng khiếp hơn và giọng nói đã từng nghe lặp lại bên tai:

- Thời gian! Thời gian! Nhanh lên! Đi đi!

Lão nói:

- Tôi đi đây!…

Câu trả lời thốt ra từ ngực lão mà như thể nó được nói bởi kẻ nào khác.

Rồi dường như bị xô đẩy bởi một ngoại lực không thể cưỡng lại, lão xuống ngựa, tháo khỏi ngựa chiếc yên rất cao kiểu hiệp sĩ và bộ đây cương. Các bạn đồng hành của lão cũng xuống ngựa, không hề rời lão một chớp mắt, và cả ba cùng rời con đường đi đến rìa khu rừng, ở đó con quỷ đen vít một cành cây và giúp buộc bộ đây cương lên đấy.

- Quàng lên! - Thần chết thầm thì.

- Quàng lên! - Có tiếng nói thì thầm vọng xuống từ trên những ngọn cây.

Như thể bị chìm trong một giấc mơ, lão Zygfryd xỏ đầu kia của đây cương vào khóa, tạo thành một vòng thòng lọng, bước lên cái yên ngựa mà trước đấy lão mang đến đặt cạnh gốc cây, rồi tròng đây vào cổ.

- Đẩy cái yên ra!… Rồi! A a!

Bị chân gạt ra, cái yên lăn đi vài bước, và xác của lão hiệp sĩ Thánh chiến bất hạnh nặng nề thõng xuống.

Trong chớp mắt, dường như lão còn nghe một tiếng gầm khàn đặc, khi cái bóng ma gớm ghiếc ấy lao vào lão, đu đẩy thân người lão và bắt đầu dùng răng xé bộ ngực lão để cắn vào tận trái tim. Đôi mắt tắt dần của lão còn thấy một chuyện khác: thần chết tan biến dần thành một đám mây trắng, từ từ trôi về phía lão, vây bọc lão, bao quanh, nhấn chìm, và cuối cùng che khuất tất cả bằng một bức màn khủng khiếp, bất khả xuyên thấu.

Lúc đó, cơn dông bùng nổ với một sự cuồng nộ vô bờ. Sấm giáng xuống giữa đường với một tiếng nổ ầm vang khủng khiếp như thế mặt đất đang chìm xuống. Cả khu rừng gập mình dưới gió. Tiếng ầm ào, tiếng gào rú, tiếng gió rít, tiếng rên rỉ của những thân cây và tiếng răng rắc của những cành bị gãy đổ vang động đến tận chốn thẳm sâu của khu rừng. Những làn sóng mưa bị gió lốc đẩy đi che mờ cả thế gian, và chỉ trong những ánh chớp lóe sáng màu máu mới có thế nhìn thấy cái xác của lão Zygfryd lắc lư man dại lơ lửng trên đường.

Ngày hôm sau, cũng trên chính con đường ấy, lại có một đoàn người đông đảo. Dẫn đầu là Jagienka cùng với Sieciechówna và chàng trai Séc, theo sau là những chiếc xe chở hàng, có bốn gia nhân vũ trang bằng kiếm và cung nỏ bao quanh. Mỗi xà ích đều có một ngọn lao và một lưỡi rìu đặt cạnh, không kể những cái chàng nạng và khí cụ hữu ích khác. Cần phải vũ trang để phòng chống những loài thú hoang, cũng như lũ cướp thường xuyên lảng vảng vùng biên Thánh chiến, nạn cướp đã từng bị vua Jagiełło cay đắng lên án trong các thư gửi đại thống lĩnh và chính ngài đã lên án trực tiếp tại các hội nghị ở Raciąz.

Có những người thành thạo, được vũ trang phòng thủ tốt, không cần phải e dè bọn cướp, nên cả đoàn có thể tiến tới đầy tự tin mà không sợ hãi. Sau cơn dông bão hôm qua là một ngày thật kỳ diệu, tươi mới, tĩnh lặng và trong sáng đến nỗi ở những nơi không có bóng râm, người đi đường phải nheo mắt vì ánh sáng quá dồi dào. Không một chiếc lá xao động trên cây, những giọt nước mưa to tướng đọng trên cây lung linh muôn sắc cầu vồng trong ánh mặt trời. Chúng lấp lánh trong đám rừng thông như vô số những viên kim cương to lớn. Cơn mưa đã khiến những con suối nhỏ tràn ra đường, chảy lao xao vui nhộn xuống nơi thấp hơn, tạo thành những hồ nước nhỏ và nông trong các chỗ trũng. Cả vùng đẫm sương, ẩm ướt, nhưng vui tươi rạng rỡ vào buổi sáng tinh khôi. Trong một buổi sáng như vậy, niềm vui dâng trào trong trái tim con người, vì vậy những người đánh xe và gia nhân đang thầm ca hát trong lòng, ngạc nhiên trước sự im lặng đang chế ngự những người dẫn đầu đoàn.

Họ im lặng, bởi một mối lo đang đè nặng trong lòng Jagienka. Một thứ gì đó vừa kết thúc trong đời cô, một cái gì đó đã tan vỡ, và cô gái, dù vốn không mấy nhanh trí trong suy nghĩ và khó có thể diễn tả rành mạch những gì đang xảy ra trong lòng cùng những gì đang nghĩ, vẫn cảm thấy rằng mọi thứ, mà cho đến nay cô đã sống vì chúng, đã tan vỡ và uống phí vô ích, mọi hy vọng đã tan biến như làn sương sớm đang tan trên đồng, cô sẽ phải từ chối mọi thứ, sẽ phải buông bỏ mọi thứ, sẽ phải quên hết mọi thứ và sẽ phải bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới. Cô cũng nghĩ rằng điều ấy không hoàn toàn là dở khi đó là ý của Chúa, không thể khác được, nhưng cô quá buồn, và cho dù có thế nào thì mọi chuyện cũng không thể tốt đẹp được như phần đời vừa mới kết thúc đây.

Và nỗi đau vô lượng bóp chặt trái tim cô, cho cái quá khứ đã khép chặt một lần và mãi mãi, khiến dòng lệ dâng tràn đôi mắt cô. Nhưng cô không muốn khóc, bởi vì không có nó thì cô cũng đã cảm thấy một nỗi xấu hổ thêm vào toàn bộ gánh nặng đang vò xé linh hồn cô. Cô thà chưa bao giờ rời khỏi Zgorzelice, để giờ đây không phải trở về từ Spychow. Bởi cô đến chốn này không chỉ vì không biết phải làm gì sau cái chết của cha tu viện trưởng, không phải chỉ để bọn Cztan và Wilk không có lý do tấn công vào Zgorzelice, mà vì một lý do khác mà cô không dám thừa nhận ngay cả với chính mình! Không! Ông Maćko biết điều đó, dẫu ông tiếp nhận cô không phải vì vậy, và Zbyszko chắc chắn cũng biết. Nghĩ đến điều đó, đôi gò má cô cháy rực và trái tim cô tràn đầy cay đắng. “Mình đã không đủ cứng rắn,” cô tự nhủ với lòng mình, “và bây giờ mình phải nhận điều mà mình đáng gánh chịu.” Thêm vào nỗi đau đớn, sự bất định của ngày mai, nỗi buồn cắn rứt trong tim, nỗi đau vô bờ về quá khứ, cô còn phải chịu thêm nỗi sỉ nhục.

Dòng suy nghĩ nặng nề bị gián đoạn bởi một người đàn ông tiến đến từ phía ngược lại. Chàng trai Séc, với con mắt cảnh giác trước tất cả mọi điều, thúc ngựa tiến về phía người kia, và qua cánh nỏ trên vai, túi da lửng và túm lông chim giẻ cùi cài trên mũ, chàng nhận ra đó là một thổ dân trong vùng.

- Này, ông là ai? Hãy dừng bước đã! - Chàng vẫn hỏi cho chắc.

Còn ông ta vội vã bước tới với khuôn mặt kích động, giống như khi có điều gì đó khác thường phải báo tin, và ông gọi to:

- Có ai đó treo cổ ở kia, ngay trước mặt các vị!

Chàng Séc lo đó là trò của bọn cướp đường, liền vội hỏi:

- Xa không?

- Chỉ một tầm nỏ. Ngay trên đường.

- Có ai khác không?

- Không ai cả. Tôi đã đuổi một con sói đang ngửi hơi cái xác.

Lời đề cập đến con sói đã làm Hlava yên tâm, bởi điều đó chứng tỏ chung quanh chỗ đó vắng người và không phải lo bị phục kích.

Còn Jagienka thì bảo:

- Hãy xem có chuyện gì.

Hlava giục ngựa tiến lên trước, nhưng lát sau đã quay trở lại còn vội hơn.

- Lão Zygfryd treo cổ! - Chàng kêu lên, dừng ngựa ngay trước mặt Jagienka.

- Nhân danh Cha, Con và Thánh Thần! Lão Zygfryd? Tên Thánh chiến á?

- Thánh chiến! Lão treo cổ bằng đây cương!

- Tự lão à?

- Hẳn là tự lão, vì cái yên ngựa nằm ngay sát đấy. Nếu là bọn cướp, chỉ cần giết lão và lấy cái yên mang đi, vì nó rất đáng giá.

- Làm sao chúng ta qua bây giờ?

- Đừng qua đó ta đừng đi qua chỗ đó! - Anulka Sieciechówna vốn nhát gan, bật khóc. - Lão sẽ bám theo chúng ta đấy!

Jagienka cũng có chút sợ hãi, vì cô tin rằng gần xác người tự tử sẽ luôn tụ hội các hồn ma quái đản, nhưng Hlava, vốn là người mạnh mẽ và không sợ bất cứ điều gì, liền nói:

- Thôi đi! Tôi đã đến sát gần lão, thậm chí còn lấy ngọn lao chạm vào người lão ta mà có thấy ma quỷ nào bám vào đầu vào cổ tôi đâu.

- Ngươi chớ báng bổ! - Jagienka thốt lên.

- Tôi không nói diêu, - chàng Séc nói, - bởi tôi tin vào quyền năng của Chúa. Nhưng nếu các người sợ, thì ta có thể đi cắt rừng để tránh.

Sieciechówna van xin cô chủ đi đường vòng, nhưng Jagienka ngẫm nghĩ một lát rồi bảo:

- Này! Thấy người chết mà không chôn cất là không được! Đó là nghĩa vụ của Ki-tô hữu, theo chỉ dụ của Chúa Giêsu, hơn nữa lão cũng là một con người.

- Nhưng lão ta là một thằng Thánh chiến, một tên đao phủ, một kẻ sát nhân! Để lũ quạ và chó sói chăm lo cho lão.

- Đừng nói vớ vẩn! Đức Chúa Trời sẽ phán xét những tội lỗi của lão, còn ta hãy làm việc của mình. Cũng sẽ chẳng có điều ác nào bám theo ta, nếu chúng ta làm trọn điều răn thánh thiện.

- Ha! Vậy hãy thuận theo ý cô chủ. - Chàng Séc nói.

Rồi chàng ra mệnh lệnh cho đám gia nhân, họ miễn cưỡng làm theo với vẻ ghê tởm. Nhưng vì sợ Hlava, họ bèn gom mang đi các thứ xẻng cuốc, chàng nạng và rìu để đào hố. Chàng trai Séc cùng đi với họ để làm gương, và sau khi làm dấu thánh, chàng tự tay cắt dây cương treo cái xác.

Mặt lão Zygfryd tái xanh trong khí lạnh và trông khá khủng khiếp, vì đôi mắt lão vẫn mở trừng trừng rất kinh hoàng, miệng há ra như thể cố đớp hơi thở cuối cùng. Họ nhanh chóng đào một cái hố cạnh đấy và dùng cán chàng nạng đẩy cái xác xuống hố, mặt úp xuống đất, rồi sau khi chôn lấp, họ bắt đầu tìm mấy phiến đá, vì theo phong tục lâu đời, mộ kẻ tự tử phải được yểm đè bằng đá, nếu không đêm đêm sẽ thức dậy quấy nhiễu du khách.

Đá thì không thiếu, cả trên đường lẫn trong đám rừng cây rêu phủ, nên chỉ lát sau một nấm mộ của lão hiệp sĩ Thánh chiến được đắp lên, rồi Hlava dùng rìu khắc dấu thánh giá vào thân cây thông, không phải dành cho lão Zygfryd, mà để hồn ma bóng quỷ đừng tụ tập tại nơi này, sau đó họ quay về với đoàn.

- Hồn lão đã ở dưới hỏa ngục, còn thân xác đã nằm trong đất - Chàng nói với Jagienka. - Bây giờ ta có thể đi.

Và họ lên đường. Tuy nhiên khi đi ngang qua, Jagienka rứt một nhành lá thông ném lên phiến đá, và theo gương cô chủ mọi người cũng làm thế, theo phong tục cổ xưa.

Họ đi mãi hồi lâu trong im lặng, ngẫm nghĩ về lão hiệp sĩ - tu sĩ tàn độc này, về hình phạt đã đến với lão, cuối cùng Jagienka nói:

- Công lý của Thiên Chúa không tha lão. Thậm chí không nên dành cho lão lời cầu nguyện ‘Yên nghỉ đời đời”, bởi đối với lão thì không thể có lòng thương xót.

- Tâm hồn cô chủ vẫn tràn đầy lòng thương xót, nên mới lệnh chôn cất lão ta. - Chàng Séc nói.

Và rồi chàng bắt đầu nói với một chút ngần ngừ:

- Người ta đồn rằng… mà không! Có thể không phải dân thường, mà các ông bà phù thủy nói rằng các dây thừng hoặc đây treo cổ mang lại may mắn trong tất cả mọi việc, nhưng tôi không lấy dây treo cổ của lão Zygfryd, vì tôi trông đợi hạnh phúc không phải từ phép ma thuật, mà từ quyền năng của Chúa Giêsu.

Jagienka không nói gì, mãi về sau, thở dài nhiều lần, cô thốt ra như thể tự nói với chính mình:

- Hey! Hạnh phúc của ta đã ở sau lưng rồi, không còn phía trước nữa đâu!