Chương 61
Sau đám tang Danusia, Zbyszko không ốm liệt giường, nhưng trở nên đờ đẫn. Thoạt tiên, vài ngày đầu, cũng không quá tệ: chàng đi lại, nói về hôn thê vừa mất, đến thăm ông Jurand và ngồi cạnh ông. Chàng cũng nói với linh mục Kaleb về việc ông Maćko bị cầm tù, cả hai quyết định cử cụ Tolima đến Prus và thành Malborg để dò hỏi về nơi ông Maćko bị giam và chuộc ông ra, sau khi thanh toán cả cho Zbyszko số lượng bạc mà họ đã thỏa thuận với Arnold von Baden và em trai hắn. Dưới hầm của Spychow không thiếu bạc mà ông Jurand đã làm ra hoặc đã thắng được, linh mục nghĩ rằng chỉ cần nhận đủ số bạc thì bọn hiệp sĩ Thánh chiến sẽ thả ngay lão hiệp sĩ, không yêu cầu chàng trai trẻ phải hiện diện.
- Ông hãy tới thành Plock, - linh mục dặn cụ Tolima khi tiễn cụ lên đường - xin quận công xứ ấy một thư thiết khoán. Nếu không, bất cứ gã chỉ huy nào cũng có thể bắt ông đấy.
- Vâng! Tôi biết lắm. - Cụ Tolima nói. - Bọn chúng còn có thể cướp bóc ngay cả những người có thư thiết khoán nữa kia.
Rồi cụ lên đường. Nhưng ngay sau đó, cha Kaleb thấy hối hận rằng đã không phái chính Zbyszko đi. Mặc dù cha sợ rằng trong những phút đầu đau đớn, chàng trai không thể cư xử bình tĩnh, hoặc có thể sẽ bùng nổ chống lại các hiệp sĩ Thánh chiến và sẽ bị nguy hiểm; cha cũng biết rằng sẽ rất khó để ngay lập tức chàng phải rời khỏi chiếc quan tài của người thân yêu, trong nỗi đau chưa phai mờ, lúc vừa phải rơi vào cảnh cô đơn ngay sau cuộc hành trình khủng khiếp và đau đớn như vậy từ Gotteswerder về Spychow. Tuy nhiên sau đó, cha lại thấy tiếc vì đã tính những điều ấy, khi càng ngày Zbyszko càng trở nên tệ hơn. Trước khi Danusia mất, chàng sống trong một nỗ lực tối cao, cố huy động tối đa mọi sức lực có được: chàng đi tìm khắp mọi miền đất nước, thách đấu, cứu bằng được người thiếu nữ của mình, đưa nàng vượt qua cả những vùng rừng hoang dã, thế mà đột nhiên tất cả đều kết thúc, như thể có ai đó đã phạt ngang một nhát kiếm, chàng chỉ còn nhớ mỗi một điều là tất cả đều trở nên vô vọng, mọi nỗ lực đều bỏ đi - và tất cả đã thực sự trôi qua, cùng với nó chàng đã mất đi một đoạn đời, mất đi niềm hy vọng, mất đi cái tốt đẹp, mất đi tình yêu, và chẳng còn lại một thứ gì.
Mỗi người đều sống cho ngày mai, mỗi người đều hướng đến một thứ gì đó và đều sắp xếp điều gì đó cho riêng mình trong tương lai, còn với Zbyszko ngày mai đã trở thành dửng dưng. Đối với tương lai, chàng cũng có cảm giác giống như Jagienka đã nói khi rời khỏi Spychow: “Hạnh phúc của tôi đã ở phía sau lưng, không phải ở trước mặt”. Nhưng thêm vào đó cảm giác bất lực, trống rỗng, khốn khổ trong lòng chàng lớn dần lên trên mảnh đất của nỗi đau đớn vô bờ và nỗi tiếc thương Danusia ngày càng nhiều hơn. Nỗi tiếc thương ấy chiếm lấy chàng, chế ngự lòng chàng, mỗi lúc một mạnh thêm lên, rốt cuộc trong tim Zbyszko không còn có chỗ cho bất cứ thứ gì khác. Chàng chỉ nghĩ về nỗi tiếc thương đó, dưỡng nuôi nó trong lòng và chỉ sống với một mình nó, vô cảm với mọi thứ khác, lòng chàng khép lại, như chìm vào cơn nửa tỉnh nửa mê, không biết đến những gì đang xảy ra xung quanh. Mọi quyền năng của tâm hồn và thể xác của chàng, tính nhanh nhẹn và dũng mãnh trước đây của chàng dường như đã rơi vào lãng quên. Ánh mắt và cử động của chàng giờ đây toát lên vẻ nặng nề của người già. Suốt ngày đêm chàng ngồi mãi trong hầm mộ bên quan tài Danusia, hoặc ngồi trên bức tường đất bao quanh nhà, sưởi ấm trong ánh nắng những giờ ban chiều. Đôi khi chàng lẩn thẩn đến nỗi quên không trả lời những câu hỏi được đưa ra. Cha Kaleb rất yêu mến chàng, bắt đầu sợ rằng nỗi đau này sẽ gặm mòn chàng như gỉ ăn mòn sắt, và cha buồn bã khi nghĩ là có lẽ sẽ tốt hơn nếu cử chính Zbyszko đến gặp bọn Thánh chiến để trả tiền chuộc.
- Cần phải có một chuyện động trời gì đó mạnh như bão lốc tác động đến anh ta, - cha nói với một thầy tu quê mùa, vì cũng chẳng còn biết tâm sự với ai gần gũi hơn, - chứ nếu không chắc anh ta chết mất.
Còn vị tu sĩ quê mùa thì khuyên một cách rất khôn ngoan, ví von rằng khi một người bị hóc xương, để chữa khỏi thì tốt nhất nên cho anh ta một cái nện vào sau gáy.
Mãi chẳng có chuyện gì to tát xảy ra, tuy nhiên vài tuần sau đấy, hiệp sĩ de Lorche bất ngờ ghé thăm. Việc gặp hiệp sĩ làm Zbyszko lay động, bởi chàng nhớ lại cuộc hành quân đến vùng Żmudź và việc đánh cướp Danusia. Hiệp sĩ de Lorche cũng không ngần ngại nhắc lại những ký ức đau buồn. Khi được biết nỗi bất hạnh của Zbyszko, hiệp sĩ đã cùng chàng đến cầu nguyện bên quan tài của Danusia, liên tục nói về nàng, và vừa là thi sĩ vừa là ca công, chàng làm ra một khúc ca về nàng, và giữa đêm khuya, bên cửa dẫn vào hầm mộ, chàng vừa gảy đàn luýt vừa hát khúc ca ấy thảm thiết não nuột đến nỗi dù Zbyszko không hiểu nghĩa ca từ, chỉ qua giai điệu cũng đã phải khóc mãi đến sáng. Rồi quá mệt mỏi vì than khóc và đau đớn, chàng chìm vào một giấc ngủ khá dài, và khi tỉnh giấc, có thể thấy nỗi đau dường như đã vơi đi theo dòng nước mắt, trông chàng đã khá hơn, khỏe khoắn hơn hôm trước và ánh mắt đã có hồn. Chàng cũng rất vui với hiệp sĩ de Lorche, cảm ơn đã ghé thăm, rồi hỏi làm sao biết tin về bất hạnh của chàng.
Hiệp sĩ đáp qua lời thông dịch của cha Kaleb, rằng mình đã biết về cái chết của Danusia khi ở thành Lubawa gặp cụ Tolima trong nhà giam của lãnh binh, nhưng vẫn phải đi đến Spychow để chịu làm tù binh của Zbyszko.
Tin cụ Tolima bị bắt khiến cả Zbyszko lẫn cha linh mục đều hết sức ngạc nhiên. Họ hiểu rằng thế là khoản tiền chuộc đã mất, vì trên đời không có chuyện gì khó khăn hơn là móc họng bọn hiệp sĩ Thánh chiến để đồi lại khoản tiền mà bọn chúng đã cướp được. Do đó, cần phải đi lần nữa, mang theo khoản tiền chuộc thứ hai.
- Gay rồi! - Zbyszko kêu lên. - Ông chú tội nghiệp của con cứ đợi hoài ở đó và nghĩ rằng con đã quên mất ông rồi! Con phải đến ngay với chú ấy.
Rồi chàng quay sang hiệp sĩ de Lorche:
- Anh có biết mọi sự xảy ra thế nào không? Anh có biết ông ấy đang ở trong tay của quân Thánh chiến?
- Tôi biết, - de Lorche trả lời, - bởi tôi đã gặp ông ấy ở thành Malborg, và đó là lý do tại sao tôi lại đến đây.
Cha Kaleb than thở.
- Chúng ta sai rồi, - cha nói, - nhưng lúc đó chẳng ai còn đầu óc tỉnh táo cả… Tôi cũng đã trông mong quá nhiều vào trí tuệ ông Tolima. Tại sao ông ấy không đến Plock, và không có thư thiết khoán mà lại đến gặp bọn cướp kia!
Nghe thấy thế, hiệp sĩ de Lorche nhún vai:
- Thư thiết khoán mà ích gì! Cả quận công xứ Plock cũng như chính bản thân các vị ở đây chưa chịu đủ đau khổ vì chúng sao? Vùng cận biên luôn luôn là nơi của những trận chiến và những cuộc tấn công, bởi vì các vị đâu chịu thua chúng. Một viên lãnh binh, mà thôi, ngay cả một viên lý trưởng cũng đều làm mọi thứ ông ta muốn, và chẳng ai chịu thua ai về tính cường đạo…
- Thế thì cụ Tolima càng phải đến Plock.
- Ông ta cũng muốn làm điều đó nhưng bọn chúng bắt cóc ông khi dừng ngủ đêm trên đường qua biên giới. Chúng đã giết ông rồi nếu ông không nói rằng ông đang mang tiền cho một lãnh binh ở Lubawa. Ông ấy đã tự cứu mình, nhưng viên lãnh binh giờ đây là nhân chứng như ông Tolima nói.
- Thế chú Maćko sao rồi? Có khỏe không? Chúng không định cứa cổ chú ấy chứ? - Zbyszko hỏi.
- Ông ấy vẫn khỏe. - De Lorche nói. - Chúng nó căm “vua” Witold và những người đã giúp dân Żmudź lắm, nên hẳn đã chặt đầu vị hiệp sĩ cao tuổi rồi, nếu chúng không tiếc khoản tiền chuộc. Vi lý do đó anh em nhà von Baden bảo vệ ông ấy, và cuối cùng là kỳ họp hội đồng thánh giáo về tính mạng của chính tôi, nếu họ dám thí mạng tôi thì giới hiệp sĩ ở Handria, ở Geldria và cả Burgundia sẽ nổi lên chống lại họ… Anh biết đấy, tôi là người ruột thịt của bá tước Geldria.
- Thế tại sao lại liên quan đến cái đầu anh? - Zbyszko ngạc nhiên ngắt lời.
- Cũng là vì anh đấy. Tôi đã nói ở thành Malborg: “Các ông mà cứa họng lão hiệp sĩ trang Bogdaniec, thì chàng hiệp sĩ trẻ sẽ cứa họng tôi…”
- Tôi sẽ không làm thế! Lạy Chúa cứu giúp!
- Tôi biết anh sẽ không làm thế, nhưng bọn chúng lại sợ điều đó, và ông Maćko sẽ được an toàn. Chúng nói với tôi rằng anh cũng đã bị bắt, các hiệp sĩ nhà von Baden thả cho anh đi vì lời hứa hiệp sĩ của anh, vì vậy tôi không cần đến trình diện anh. Nhưng tôi đã bảo chúng rằng khi anh bắt được tôi, anh vẫn là người tự do. Và anh đã có tôi! Một khi tôi còn nằm trong tay anh, chúng sẽ không làm gì anh và ông Maćko. Anh đã trả tiền chuộc cho anh em nhà von Baden, thì hãy yêu cầu chúng trả số tiền gấp đôi gấp ba ngần ấy để chuộc tôi. Chúng sẽ phải trả. Tôi nói thế không phải tôi nghĩ rằng tôi có giá trị hơn anh, mà để đánh vào lòng tham của chúng, thứ mà tôi coi thường. Ngày trước tôi hoàn toàn không hiểu gì về chúng, nhưng giờ đây chúng khiến tôi kinh tởm. Tôi sẽ đi đến vùng Đất Thánh, để tìm kiếm cuộc phiêu lưu ở đó, bởi vì tôi không muốn phục vụ bọn chúng lâu hơn nữa.
- Hay ngài hãy ở lại chỗ chúng tôi, thưa ngài. - Cha Kaleb nói. - Tôi nghĩ đằng nào cũng thế, bởi tôi không nghĩ rằng họ sẽ trả tiền chuộc cho ngài đâu.
- Nếu chúng không trả tiền, tự tôi sẽ trả. - De Lorche nói. - Tôi đến đây với rất nhiều hành lý cùng những cái xe đầy hàng, và những gì trên đó là đủ rồi…
Cha Kaleb dịch lại những lời đó cho Zbyszko, giá có ông Maćko thì chắc sẽ không bỏ qua, nhưng vốn còn trẻ và ít lo nghĩ về sở hữu tài sản nên Zbyszko chỉ nói:
- Thề trên danh dự của tôi! Sẽ không xảy ra những điều anh nói. Anh là một người anh em, một người bạn, tôi sẽ không đòi bất cứ khoản tiền chuộc nào của anh.
Rồi họ ôm lấy nhau và cảm thấy một mối dây mới đã liên kết họ với nhau. Hiệp sĩ de Lorche mỉm cười và nói:
- Hay lắm. Nhưng chớ để cho bọn Đức biết điều đó bởi nếu không chúng sẽ hành hạ ông Maćko. Các vị thấy không, chúng sẽ phải trả, vì chúng sợ nếu làm khác đi thì tôi sẽ loan báo cho các cung đình và giới hiệp sĩ rằng chúng chỉ vờ ra vẻ rất hân hoan chào đón các hiệp khách, nhưng nếu có ai bị rơi vào cảnh tù đày, chúng sẽ quên ngay. Hiện giờ Giáo đoàn đang rất cần lấy lòng hiệp khách bởi vì chúng sợ Witold, và còn sợ dân Ba Lan cùng vị vua của họ.
- Vậy thì được, - Zbyszko nói, - anh hãy ở lại đây hoặc đi bất cứ nơi nào anh muốn ở Mazowsze, còn tôi sẽ đến thành Malborg lo cho ông chú tôi, và tôi sẽ tỏ ra rất tàn ác đối với anh.
- Thề có Thánh Jerzy! Xin hãy làm thế! - De Lorche nói. - Nhưng trước hết, xin anh hãy nghe những gì tôi nói đã. Ở thành Malborg người ta đồn rằng đức vua Ba Lan sẽ trở về Plock để gặp đại thống lĩnh ở ngay Plock hoặc một nơi nào khác gần biên giới. Bọn Thánh chiến đang khao khát điều đó bởi vì chúng muốn biết liệu đức vua có giúp đỡ đại quận công Witold không, nếu ông ta công khai tuyên chiến với chúng vì chuyện Żmudź. Ha! Chúng tinh ranh như loài rắn, nhưng lại gặp phải tay tổ còn khôn hơn ở chính ngài Witold nọ. Giáo đoàn e sợ ông ta, bởi chẳng ai biết ông đang nghĩ gì và sẽ làm gì. “Ông ta trả cho chúng ta Żmudź,” chúng nói trong hội đồng thánh giáo, “nhưng lại vẫn kề thanh gươm ấy vào cổ chúng ta. Chỉ cần ông ta nói một lời là bạo loạn sẽ bùng lên!” Và quả thực thế. Lúc nào đấy tôi phải đến cung đình của ông ta mới được. Sẽ có thể thách đấu tay đôi, hơn nữa, tôi cũng nghe nói rằng nhiều thanh nữ ở đấy đẹp xinh như thiên thần vậy.
- Ngài có nói, thưa ngài, rằng đức vua Ba Lan sẽ đến thành Plock? - Cha Kaleb ngắt lời.
- Vâng, đúng vậy. Hãy để anh Zbyszko gia nhập triều đình đức vua. Đại thống lĩnh đang muốn lấy lòng đức vua và sẽ không từ chối điều gì. Các ngài biết đấy, một khi cần điều gì, thì không ai có thể khiêm nhường hơn các hiệp sĩ Thánh chiến. Hãy để Zbyszko tham gia đoàn tùy tùng, hãy để anh ấy kể lại câu chuyện của chính mình, hãy để anh ấy lớn tiếng kêu về cách hành xử vô luật pháp. Có mặt đức vua và giới hiệp sĩ Kraków, vốn lừng danh ở mọi nơi và những ý kiến phán xử của họ thường lan rộng khắp giới hiệp sĩ, chúng sẽ chịu nghe anh ấy theo một cách khác hẳn.
- Lời khuyên tuyệt vời! Lạy thánh giá cứu thế! Tuyệt vời! - Linh mục thốt lên.
- Vâng, - de Lorche thừa nhận, - và không thiếu gì cơ hội. Hồi ở Malborg, tôi nghe nói sẽ có các đại tiệc, các giải đấu, bởi vì hiệp khách ngoại quốc rất muốn được giao đấu với các hiệp sĩ của cung đình. Lạy Chúa! Có hiệp sĩ Jan xứ Aragonia - người mạnh nhất trong giới hiệp sĩ Ki-tô giáo cũng sẽ đến. Các ngài không biết ư? Hình như từ mãi Aragonia, ông ấy đã gửi găng tay cho hiệp sĩ Zawisza của ta, để trong các cung đình người ta không còn nói rằng trên đời này có người thứ hai sánh ngang ông ta.
Sự xuất hiện của hiệp sĩ de Lorche, với cách nhìn và toàn bộ cuộc trò chuyện khiến cho Zbyszko tỉnh thức khỏi trạng thái vô hồn thảm thương mà trước đây chàng từng bị chìm sâu, giờ đây chàng rất thích thú lắng nghe tin. Chàng biết chuyện hiệp sĩ Jan xứ Aragonia, vì mỗi hiệp sĩ đều phải biết và ghi nhớ danh xưng của tất cả các chiến binh nổi tiếng nhất, mà danh tiếng của giới quý tộc xứ Aragonia, nhất là của hiệp sĩ Jan, đã vang rền khắp thế gian.
Không một hiệp sĩ nào địch nổi ông trên các đấu trường, riêng người Moor [223] thì cứ thấy bộ giáp phục của ông là đã trốn chạy, nói chung mọi người đều cho rằng ông là người số một trong giới hiệp sĩ Ki-tô giáo.
Vì vậy, nghe tin về ông, tâm hồn hiệp sĩ ham chinh chiến bừng dậy trong lòng Zbyszko, chàng bắt đầu chăm chú hỏi cho rõ:
- Ông ấy thách đấu với hiệp sĩ Zawisza Đen à?
- Hình như đã một năm rồi kể từ ngày ông ấy gửi găng tay đến đây và hiệp sĩ Zawisza gửi lại găng của mình.
- Thế thì chắc hiệp sĩ Jan xứ Aragonia thể nào cũng sẽ đến.
- Chắc hay không chưa biết, nhưng có nhiều tin đồn về việc ấy. Bọn hiệp sĩ Thánh chiến đã gửi thư mời ông ta từ lâu.
- Xin Chúa cho được thấy việc ấy!
- Cầu Chúa! - De Lorche nói. - Và nếu hiệp sĩ Zawisza có bị thua - điều mà cũng có thể dễ dàng xảy ra - thì ông vẫn đáng được ngợi ca tuyệt đỉnh, vì đã được hiệp sĩ Jan xứ Aragonia gửi lời thách đấu, à không, là ngợi ca cho toàn thể dân tộc của các anh nữa.
- Để rồi xem! - Zbyszko nói. - Tôi chỉ nói: cầu Chúa cho được thấy.
- Tôi cũng cầu thế.
Tuy nhiên, mong muốn của họ lần này không thành hiện thực, các biên niên sử xưa thuật lại rằng trận đấu tay đôi giữa hiệp sĩ Zawisza với hiệp sĩ Jan xứ Aragonia mãi đến mười mấy năm sau đó mới xảy ra tại Perpignano, với sự hiện diện của hoàng đế Zygmunt, Giáo hoàng Benedykt XIII, vua Aragonia, cùng nhiều vị quận công và các hồng y. Bằng mũi giáo đầu tiên, hiệp sĩ Zawisza Đen xứ Garbów đã hạ gục con ngựa của đối phương và giành chiến thắng tuyệt đối. Song lúc này Zbyszko và de Lorche vẫn vui mừng, nghĩ rằng ngay cả khi hiệp sĩ xứ Aragonia không thể có mặt đúng ngày hẹn, thì họ cũng sẽ được chứng kiến những hành động nghĩa hiệp, vì ở Ba Lan không thiếu các hiệp sĩ không chịu thua ông Zawisza, còn trong số các vị khách Thánh chiến thì luôn có thể tìm được các nhà vô địch hàng đầu của Pháp, Anh, Burgundia và Italia, sẵn sàng đấu với bất kỳ ai để chứng tỏ ưu thế của mình.
- Anh nghe này. - Zbyszko nói với de Lorche. - Vắng chú Maćko tôi buồn lắm, muốn chuộc chú ấy ra ngay, vì vậy sáng mai tôi sẽ lên đường đến Plock. Còn anh, sao phải ở lại đây? Bề ngoài anh đang là tù binh của tôi, thì hãy đi với tôi, anh sẽ được gặp đức vua và quần thần.
- Tôi cũng chỉ muốn đề nghị chuyện đó, - de Lorche nói, - vì đã từ lâu tôi muốn được gặp giới hiệp sĩ của nước anh, mà nhất là khi tôi được nghe nói rằng đám thanh nữ của triều đình giống tiên nữ hơn người trần thế.
- Đó là anh mới chỉ nói về cung đình đại quận công Witold thôi đấy. - Zbyszko bảo.