Chương 66
Ông Maćko và Zbyszko ôm ghì nhau thật chặt suốt hồi lâu, bởi cả hai luôn yêu thương nhau, và trong những năm gần đây, những cuộc phiêu lưu cùng nhau và nỗi bất hạnh chung đã khiến tình yêu thương ấy càng lớn thêm lên. Vừa thoạt trông thấy cháu trai, lão hiệp sĩ đã đoán ra rằng Danusia không còn trên đời, nên ông không hỏi gì, chỉ ôm chầm lấy cháu, muốn nhờ sức mạnh của cái ôm để nhắn nhủ rằng chàng không hoàn toàn mồ côi, bên chàng vẫn còn một linh hồn luôn gần gũi, sẵn sàng cùng chàng sẻ chia mọi nỗi thống khổ.
Khi những dòng lệ tuôn chảy đã làm nỗi buồn đau vợi bớt, sau một khoảng im lặng dài, ông Maćko mới cất tiếng hỏi:
- Thế bọn chúng lại cướp con bé lần nữa, hay nó chết trên tay anh?
- Nàng chết trên tay cháu ngay tại Spychow. - Chàng trai trả lời. Và chàng vừa kể mọi chuyện đã xảy ra, vừa than khóc làm câu chuyện bị ngắt quãng, ông Maćko chăm chú lắng nghe và cũng than thở, sau rốt ông hỏi:
- Ông Jurand vẫn còn sống chứ?
- Khi cháu ra đi, cha vẫn còn sống, nhưng có lẽ cha cũng chẳng còn trên gian thế bao lâu, chắc cháu sẽ không được gặp lại cha lần nữa.
- Có lẽ tốt hơn là anh không nên ra đi.
- Nhưng sao cháu có thể để chú ở đây được?
- Vài tuần sớm hay muộn hơn thì cũng vậy thôi mà!
Nhưng Zbyszko nhìn ông chăm chú rồi hỏi:
- Chú bị ốm phải không? Nom chú hệt như xác chết ấy. [238]
- Dù mặt trời có sưởi ấm trên mặt đất, nhưng dưới hầm thì luôn lạnh lẽo và nhất là ẩm ướt kinh khủng, vì ở chung quanh lâu đài toàn là vùng sông nước. Chú cứ tưởng chú bị rêu mọc khắp người. Cũng chẳng có gì để thở. Từ tất thảy những điều ấy, vết thương cũ lại tái phát - anh nhớ không… hồi ở Bogdaniec mới lành lại sau khi uống mỡ gấu ấy mà.
- Cháu nhớ, - Zbyszko nói, - lần đó cháu đi săn hải ly với Jagienka. Thế bọn chó đẻ giam chú dưới lòng đất à?
Ông Maćko lắc đầu và trả lời:
- Nói thật, chúng nó cũng chẳng muốn thấy mặt chú, vậy mới khổ chứ. Chúng nó căm hận đại quận công Witold và dân Żmudź, nhưng còn căm ghét những người như ta đến giúp họ hơn nhiều. Chú đã hoài công giải thích lý do tại sao lại lọt tới vùng dân Żmudź. Nếu đến giờ chúng chưa chặt đầu chú, thì một là do tiếc khoản tiền chuộc, vì anh biết đấy, chúng quý tiền hơn việc báo thù, hai nữa, chúng muốn có trong tay bằng chứng rằng vua Ba Lan phái người giúp dân ngoại đạo. Biết là dân nghèo Żmudź đang mong được rửa tội để cải đạo, miễn không phải nhờ tay chúng, nên bọn ta mới đến đó, nhưng bọn Thánh chiến vờ như không biết, và cứ rêu rao chỉ trích họ ở mọi triều đình, và cùng với họ chúng chỉ trích cả vua ta nữa.
Kể đến đây, ông Maćko nghẹt thở, phải ngừng một lát lấy hơi, rồi mới nói tiếp:
- Chú tưởng đã chết rục dưới lòng đất rồi chứ. Chỉ mình hiệp sĩ Arnold von Baden bênh vực chú, dẫu chung quy y cũng chỉ muốn thu tiền chuộc. Nhưng y không có địa vị đáng kể trong bọn chúng, chúng mắng nhiếc y là đồ gấu. May mà qua Arnold, de Lorche biết được chuyện về chú, cậu ta đã gay gắt to tiếng cãi nhau với bọn chúng. Chú không biết cậu ta có nói với anh điều đó không, vì cậu ta thường giấu những việc làm tốt của mình… Ở đây, bọn chúng coi cậu ta là người có vai vế, bởi vì thời trước, từng có một người họ de Lorche được trọng vọng trong Giáo đoàn, thêm nữa cậu ta lại có gia thế danh giá và là người giàu có. Cậu ta nói với chúng rằng cậu ta là tù binh của chúng ta, nếu họ cứa cổ chú hoặc để chú chết đói, chết rét, thì anh sẽ cắt cổ cậu ta. Cậu ta dọa hội đồng thánh giáo là sẽ loan tin cho các triều đình phương Tây rằng quân Thánh chiến đã đối xử ra sao với các hiệp sĩ đeo đai. Bọn chúng sợ nên đưa chú đến bệnh xá, nơi có khí trời và đồ ăn ngon hơn.
- Cháu sẽ không nhận một xu nào của de Lorche, xin Chúa cứu giúp!
- Nhận tiền của kẻ thù thì sướng, còn bạn bè thì phải bỏ qua, - ông Maćko nói, - mà chú nghe đã có thỏa thuận với đức vua về trao đổi tù nhân, anh không phải trả tiền chuộc chú nữa.
- Hà! Thế còn lời hứa hiệp sĩ của chúng ta thì sao? - Zbyszko hỏi. - Thỏa thuận thì thỏa thuận, chứ Arnold vẫn có thể cáo buộc chúng ta là dối trá.
Nghe thấy thế, ông Maćko quan ngại, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Nhưng có thể mặc cả được chút ít chứ?
- Ta phải tự trọng. Chẳng lẽ bây giờ ta lại kém giá đi?
Ông Maćko lại càng lo, nhưng mắt ông thể hiện nhiều hơn sự ngưỡng mộ và tình yêu thương dành cho Zbyszko.
“Nó biết trọng danh dự!… Bẩm sinh nó là thế mà.” Ông thầm nhủ.
Bất giác ông thở dài. Zbyszko nghĩ chắc ông tiếc món tiền chuộc phải trả cho von Baden, chàng bèn nói:
- Chú biết đấy! Vẫn đủ tiền mà, miễn là tai họa đừng nặng quá.
- Chúa sẽ biến họa thành phúc cho anh! - Lão hiệp sĩ cảm động thốt lên. - Mà chú cũng chẳng còn sống mấy nữa trên đời.
- Chú đừng nói thế! Chú sẽ khỏe lại, chỉ mong gió thuận chiều cho ta.
- Gió à? Gió uốn cây non nhưng bẻ gãy cây già.
- Đó! Cây của chú chưa bị mục đâu, còn lâu mới già. Đừng buồn!
- Chú cũng muốn cười để anh vui, nhưng chú còn một lý do nữa để phải lo, mà thật ra không chỉ với chú thôi, mà với tất cả chúng ta.
- Lý do gì ạ? - Zbyszko hỏi.
- Anh có còn nhớ cái lần bị chú mắng ở trại của quận công Skirwoiłło vì tội nói nhiều về thế lực của quân Thánh chiến không? Trên chiến trường thì dân ta rắn lắm, nhưng bây giờ có dịp ở gần, chú mới nhìn kỹ bọn chó đẻ ở nơi này!…
Đến đây, ông Maćko hạ giọng, như thể sợ ai đó nghe thấy:
- Bây giờ chú mới thấy anh đúng, chứ không phải chú. Cầu Chúa che chở, lực lượng chúng nó kinh quá, mạnh quá! Đám hiệp sĩ của ta ngứa ngáy tay chân chỉ muốn tấn công bọn Đức càng sớm càng hay, nhưng đâu có biết rằng tất cả các dân tộc, tất cả các vị vua đều đang ủng hộ bọn Thánh chiến, rằng chúng có nhiều tiền của hơn, được luyện tập tốt hơn, thành trì vững chắc hơn, khí giới hùng mạnh hơn. Xin Chúa che chở!… Ở quê ta và cả ở đây, mọi người đều nói rằng phải tiến tới cuộc chiến, đại chiến sẽ nổ ra, nhưng khi nó nổ ra, cầu Chúa thương cho vương quốc, cho dân tộc chúng ta!
Tới đây, ông đưa hai tay ôm lấy cái đầu gầy guộc, chống khuỷu tay lên đầu gối và im bặt.
Zbyszko nói:
- Chú thấy đấy. Đấu tay đôi thì có người của ta mạnh hơn chúng, nhưng nếu nói đến đại chiến thì chính chú cũng tính được sự thể sẽ thế nào.
- Ôi, chú đã thấy! Cầu Chúa cho các vị sứ giả hoàng gia cũng thấy được ra, nhất là hiệp sĩ xứ Maszkowice.
- Cháu đã thấy ông ấy chau mày. Ông ấy là tay tổ cự phách nhất về chiến tranh, người ta bảo rằng không ai trên thế giới hiểu rõ chiến tranh như ông ấy.
- Nếu đúng vậy thì có lẽ chiến tranh sẽ không xảy ra.
- Nếu bọn Thánh chiến thấy rằng chúng mạnh hơn thì chiến tranh sẽ xảy ra. Chú cho cháu được nói thẳng nhé: dù có chuyện gì đi nữa, thì xin cứ cho xảy ra ngay đi, chứ dân ta không thể sống như thế này được nữa…
Rồi đến lượt Zbyszko cúi gục đầu, như thể không chịu nổi sự khốn khổ của chính mình và của mọi người, còn ông Maćko nói:
- Thật tiếc cho vương quốc đáng kính, chỉ e Chúa sẽ trừng phạt chúng ta vì tội quá khinh suất. Anh có nhớ đám hiệp sĩ trước nhà thờ lớn ở Wawel hồi ngay trước lễ misa, khi anh suýt bị chặt đầu rồi lại không bị chặt, đã dám lớn tiếng tuyên chiến cả với Tymur Thọt, chủ nhân bốn mươi vương quốc, kẻ đã tạo ra cả những núi đầu người… Với họ, quân Thánh chiến chỉ là cái đinh! Họ muốn cùng lúc tuyên chiến với tất cả mọi người - mà đó có thể là tội phạm thánh.
Nhớ lại hồi ức đó Zbyszko túm lấy mái tóc màu vàng của mình, vì đột nhiên thấy buồn đau vô hạn, chàng gào lên:
- Lúc đó ai đã cứu cháu thoát lưỡi gươm đao phủ, nếu không phải là nàng! Lạy Chúa Giêsu! Danusia của tôi!… Chúa ơi!…
Rồi chàng giật tóc, cắn nắm tay để cố bóp nghẹt nỗi thổn thức, trong cơn đau nhói bất ngờ trào lên vò xé trái tim.
- Cháu ơi! Hãy tin Chúa!… Nín đi nào! - Ông Maćko kêu lên. - Cháu làm gì thế? Thôi đi nào! Nín đi cháu!…
Nhưng suốt hồi lâu, Zbyszko không sao bình tâm, mãi tới khi ông Maćko - người vẫn còn rất yếu, chợt xỉu đi, loạng choạng rồi ngã xuống ghế bất tỉnh, chàng mới vội đặt ông nằm trên chiếc ghế, đổ vào miệng ông chút rượu được viên quản thành tặng, và ngồi canh cho đến khi vị hiệp sĩ già ngủ thiếp đi.
Hôm sau, họ thức dậy muộn, cảm thấy sảng khoái và tươi tỉnh hơn.
- Chà, - ông Maćko nói, - có lẽ chưa đến lúc chết, giờ chú nghĩ chỉ cần một làn gió đồng nội mát rượi là chú sẽ có thể ngồi ngay lên lưng ngựa.
- Hai vị sứ giả sẽ còn ở đây vài ngày nữa, - Zbyszko nói, - vì ngày càng có nhiều người kéo tới hỏi họ về tù binh bị bắt ở Mazowsze hoặc Wielkopolska, nhưng chú cháu ta thì có thể lên đường khi nào chú muốn và cảm thấy đủ sức.
Ngay lúc đó Hlava bước vào.
- Ngươi có biết các sứ giả đang làm gì không?
- Họ đi thăm Thượng Thành và nhà thờ. - Chàng Séc đáp. - Đích thân viên quản thành dẫn họ đi, sau đó họ đến phòng ăn lớn dùng bữa trưa do đức đại thống lĩnh mời.
- Thế ngươi làm gì từ sáng?
- Con xem bọn lính bộ đánh thuê người Đức cùng các chỉ huy đang luyện tập, và so với người Séc của chúng con.
- Ngươi còn nhớ quân lính Séc cơ à?
- Con đã bị hiệp sĩ Zych trang Zgorzelice bắt từ nhỏ, nhưng vẫn còn nhớ họ rất rõ, vì con mê những chuyện đánh đấm ấy từ khi còn bé.
- Thế sao?
- Không có gì! Lính bộ Thánh chiến thì mập và được tập tành đúng cách lắm, nhưng chúng giống như lũ bò, còn lính Séc của chúng con giống như sói. Nếu có chuyện gì xảy ra thì ông chủ biết đấy: bò không ăn thịt sói, còn sói thì thích chén thịt bò.
- Quả thế, - ông Maćko thốt lên, - ai phạm phải dân mày thì như dính phải gai nhím.
- Khi giáp chiến, một hiệp sĩ đi ngựa địch được cả mười lính bộ. - Zbyszko nói.
- Nhưng chỉ lính bộ mới có thể chiếm thành Marienburg. - Viên hộ vệ đáp lại.
Cuộc trò chuyện về lính bộ tạm dừng ở đó nhưng vẫn tiếp nối dòng suy tư của mình, ông Maćko bảo:
- Này, Hlava, hôm nay, khi nào tao thấy đủ sức thì ta sẽ đi ngay nhé.
- Đi đâu ạ? - Chàng Séc hỏi.
- Về Mazowsze. Về trang Spychow. - Zbyszko nói.
- Rồi anh sẽ ở nhà chứ?…
Ông Maćko nhìn Zbyszko có ý hỏi, bởi từ nãy giờ họ chưa bàn đến chuyện sẽ làm gì tiếp. Chàng trai trẻ hẳn là đã có quyết định, nhưng không muốn làm ông chú buồn, nên nói tránh di:
- Trước tiên, chú phải khỏe hẳn đã.
- Rồi sau đó?
- Sau đó? Chú sẽ quay về Bogdaniec. Cháu biết, chú yêu Bogdaniec lắm.
- Còn anh?
- Cháu cũng yêu nó chứ.
- Chú không bảo anh đừng đến chỗ ông Jurand, - ông Maćko chậm rãi nói, - vì nếu chết, ông ấy phải được chôn cất thật tử tế, nhưng anh hãy chú ý những gì chú dặn, bởi anh còn trẻ, chưa đủ hiểu biết. Mảnh đất Spychow thật bất hạnh. Anh có thể gặp điều tốt lành - nhưng là ở nơi khác, còn ở đó không có gì khác đâu, ngoài những lo lắng và buồn phiền trĩu nặng.
- Chú nói phải, - Zbyszko nói, - nhưng còn linh cữu của Danusia thì…
- Thôi đi nào! - Ông Maćko kêu lên, sợ Zbyszko lại bất ngờ bị nỗi đau giày vò như hôm qua.
Nhưng khuôn mặt của chàng trai chỉ có nỗi buồn.
- Ta sẽ bàn sau. - Lát sau chàng nói. - Dù sao về đến Plock, chú cũng phải nghỉ ngơi đã.
- Sẽ không thiếu người chăm sóc cho ông chủ. - Hlava nói.
- Phải rồi, - Zbyszko nói, - chú có biết là Jagienka đang ở đó không? Cô ấy đang là cung nữ của quận chúa Ziemowitowa. Mà chính chú đã đưa cô ấy đến đó mà. Cô ấy cũng đã đến Spychow. Cũng lạ là hồi ở chỗ quận công Skirwoiłło, chú không nói gì với cháu về cô ấy.
- Con bé không chỉ đến trang Spychow thôi đâu, nếu không nhờ nó, chưa chừng bây giờ ông Jurand vẫn đang chống gậy mò mẫm trên đường, hay đã gục ở đâu đó dọc đường. Chú đã đưa con bé đến Plock theo di ngôn của cha tu viện trưởng, còn chú không kể chuyện con bé với anh, có kể thì mọi chuyện cũng vẫn thế, vì hồi đó anh như mất hồn, chẳng để ý đến chuyện gì cả.
- Cô ấy yêu mến chú hết mực. - Zbyszko nói. - Ơn Chúa, những lá thư ấy không cần dùng đến, nhưng chính cô ấy đã cầu quận chúa viết thư xin tha cho chú và nhờ chính tay quận chúa đưa cho các sứ giả Thánh chiến.
- Cầu Chúa ban phước cho con bé, trên đời không ai tốt hơn nó! - Ông Maćko thốt lên.
Cuộc trò chuyện bị gián đoạn bởi các hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice và Powała xứ Taczew, vì biết tin ông Maćko bị ngất hôm qua nên hôm nay họ ghé thăm.
- Sáng danh Chúa Giêsu Ki-tô! - Hiệp sĩ Zyndram cất tiếng chào và bước qua cửa. - Hôm nay ngài thế nào?
- Chúa phù hộ! Đỡ hơn một chút rồi! Zbyszko nói rằng chỉ cần có làn gió mát thổi là tôi sẽ khỏe ngay.
- Chứ sao!… Ngài sẽ khỏe! Mọi thứ sẽ ổn thôi. - Hiệp sĩ Powała nói.
- Tôi cũng đã nghỉ ngơi đủ rồi! - Ông Maćko trả lời. - Không như các ngài, nghe nói phải dậy từ sáng sớm.
- Đầu tiên, cư dân ở đây đến để nhận diện tù binh, - hiệp sĩ Zyndram nói, - sau đó chúng tôi đi thăm các tài sản của quân Thánh chiến: cả Tiền Thành và hai thành khác.
- Tài sản quá lớn, lâu đài quả là quá giàu! - Ông Maćko buồn rầu lẩm bẩm.
- Hẳn là giàu rồi. Trong nhà thờ có cả đồ trang sức Ả Rập, các hiệp sĩ Thánh chiến bảo rằng họ đã học được cách chế tác đá quý từ dân Sicily, còn từng căn phòng trong các lâu đài đều rất độc đáo, với những cột chống đơn hay thành cụm. Rồi ngài sẽ được tận mắt thấy cái đại trai phòng thật hoành tráng. Và khắp mọi nơi đều có công sự phòng thủ vững chắc, chưa từng thấy ở bất cứ đâu. Những bức tường thành, những viên đạn đá lớn không thể tưởng. Quả thật, được nhìn rất thích…
Hiệp sĩ Zyndram nói tất cả chuyện đó vui vẻ đến nỗi ông Maćko dâm ra ngạc nhiên nhìn ông và hỏi:
- Ngài thấy chúng giàu có, kỷ cương, thấy cả quân đội, lẫn khách khứa?
- Họ đã cho chúng tôi thấy mọi thứ, tưởng như hiếu khách, nhưng thực ra là muốn làm chúng tôi sợ đến rụng cả tim.
- Thế rồi sao?
- Rồi Chúa sẽ ban cho cuộc chiến, chúng sẽ bị đuổi đi, qua núi cao biển cả, về lại nơi mà từ đó chúng đã đến đây.
Đến lúc này, ông Maćko kinh ngạc, quên cả bệnh tình, đứng bật dậy.
- Sao thế, thưa ngài? - Ông bật ra. - Họ đồn rằng ngài có trí tuệ sắc sảo lắm… Tôi đến phải xỉu khi thấy lực lượng của chúng… Vì Chúa! Ngài đang tính toán gì thế?
Tới đây, ông quay sang cháu trai.
- Zbyszko, bảo mang rượu vang họ gửi biếu ra đây. Xin mời các ngài ngồi cả xuống, và xin ngài hãy nói tiếp, bởi không thầy thuốc nào có thể cấp thứ dược phẩm tốt hơn để chữa bệnh của tôi như ngài đâu.
Zbyszko cũng rất háo hức, tự tay đặt một bình rượu với mấy chiếc cốc, rồi họ ngồi quanh bàn và hiệp sĩ xứ Maszkowice nói tiếp:
- Công sự phòng thủ cũng chưa là gì, tay người xây được lên, thì tay người cũng có thể phá đi. Cái gì gắn kết một đống gạch? - Vôi vữa! Còn gắn kết con người? - Lòng yêu thương.
- Chúa ơi! Lời ngài ngọt như mật, thưa ngài! - Ông Maćko kêu lên.
Hiệp sĩ Zyndram ấm lòng vì lời khen ngợi, và nói tiếp:
- Trong đám dân chúng nơi đây, kẻ thì có anh em, người có con, người này có họ hàng, người khác lại là thông gia bên phía chúng ta. Bọn lãnh binh các tỉnh thành biên giới bắt họ đi cướp phá vùng đất của ta, nhiều người của họ mất mạng hoặc bị chúng ta bắt. Dân cư ở đây được tin về thỏa ước giữa đức vua và đại thống lĩnh, nên đến gặp chúng tôi ngay từ sáng, đọc tên các tù binh, ký lục của chúng ta đã ghi lại đầy đủ. Có một thợ đóng thùng, là thị dân giàu người Đức, có nhà ở thành Malborg, rốt cuộc đã nói: “Để được phụng sự đức vua và vương quốc của các ngài, tôi sẵn sàng hiến dâng không chỉ tài sản, mà cả cái đầu tôi nữa.” Tôi gạt đi, cho rằng anh ta chỉ là quân Judas [239] . Nhưng sau đó một cha xứ từ Oliwa đến hỏi tin về người anh ruột và nói:
“Có thật là các ngài sẽ đánh nhau với các đấng bề trên người Phổ của chúng tôi? Các ngài có biết rằng cư dân ở đây, khi nói vương quốc là nghĩ về đức vua của các ngài không?” Rồi sau đó có hai quý tộc đến hỏi về đứa con trai đang bị giam ở một lãnh địa gần Sztum; có cả những thương nhân từ thành Gdańsk, có thợ thủ công, cả những người thợ đã đúc chiếc chuông ở Kwidzyn, có đủ mọi loại hạng người - và tất cả đều nói những lời tương tự.
Tới đây, hiệp sĩ xứ Maszkowice dừng lời, đứng lên kiểm tra xem có kẻ nào nghe trộm ngoài cửa không, rồi trở lại, ông hạ giọng, nói:
- Tôi đã hỏi rất kỹ. Dân Phổ, cả linh mục, quý tộc, thị dân lẫn phú nông đều căm ghét quân Thánh chiến. Ghét chúng không chỉ có riêng những người dân nói tiếng ta hay tiếng Phổ, mà cả người Đức. Ai phải phục dịch thì cứ phục dịch - nhưng với họ dịch hạch còn dễ chịu hơn là quân Thánh chiến. Ô, thế đấy…
- Nhưng chuyện ấy thì liên quan gì với sức mạnh quân Thánh chiến? - Ông Maćko vẫn lo lắng hỏi.
Hiệp sĩ Zyndram đưa tay xoa vầng trán rộng của mình, ngẫm nghĩ một lúc, như thể tìm một cách so sánh, rồi mỉm cười và hỏi:
- Ngài đã từng ra đấu trường tỷ thí chưa?
- Đã đấu không chỉ một lần. - Ông Maćko trả lời.
- Thế ngài nghĩ sao? Liệu ngài có hạ được ngay trong hiệp đầu một hiệp sĩ, dẫu là khỏe nhất, nhưng lại có dây thắng yên và bàn đạp đã bị cắt dứt?
- Hẳn rồi!
- Đấy, ngài thấy chưa: Giáo đoàn là một gã hiệp sĩ như thế.
- Chúa ơi! - Zbyszko kêu lên. - Ngay trong sách chắc cũng chẳng thể đọc được một điều gì hay hơn!
Còn ông Maćko xúc động đến nỗi giọng nói hơi run:
- Chúa sẽ trả công cho ngài. Thưa ngài, tôi nghĩ trên đầu của ngài, thợ làm giáp phục đã phải đo ni tấc để làm chiếc mũ sắt, bởi vì chẳng có chiếc nào làm sẵn mà vừa được cả.