← Quay lại trang sách

Chương 82

Vào buổi sáng, cơn dông không những không ngớt, mà lại còn tăng thêm đến mức không thể tháo nổi chiếc lều, nơi đức vua định dự ba khóa lễ misa như lệ thường hằng ngày kể từ khi bắt đầu cuộc hành quân. Đại quận công Witold phải chạy tới xin đức vua cho hoãn việc hành lễ đến thời điểm thích hợp hơn và không nên dừng cuộc hành quân. Cuối cùng, đề nghị của đại quận công cũng được chấp thuận, bởi cũng chẳng thể khác được.

Khi mặt trời mọc, toàn quân di chuyển như một làn sóng nham thạch, theo sau là một đoàn xe kéo dài miên man không dứt. Sau một giờ hành quân, gió hơi ngớt đi một chút, để các lá quân kỳ có thể mở cuộn ra. Và khi ấy, những cánh đồng rộng đến hút tầm mắt nhìn hầu như được bao phủ bởi những đóa hoa thẫm màu. Không mắt nào có thể bao quát khắp các đơn vị, và khu rừng dày đặc những lá quân kỳ mang các biểu trưng khác nhau, đang phần phật bay trên đầu các chiến đoàn tiến về phía trước. Những chiến đoàn của vùng đất Kraków tiến bước dưới một lá cờ đại màu đỏ với hình đại bàng trắng đội vương miện, là quân kỳ tối cao của cả vương quốc, biểu trưng tuyệt vời cho toàn thể quân đội. Lá quân kỳ ấy được giương cao bởi hiệp sĩ Marcin xứ Wrocimowice, gia huy Pólkozic, một hiệp sĩ cường tráng nổi tiếng khắp thế giới. Theo sau ông là các chiến đoàn hoàng gia, một mang cờ có chữ thập kép của Litva, một với biểu trưng Pogon [274] . Dưới cờ hiệu Thánh Jerzy là một đoàn rất đông các hiệp sĩ tình nguyện và lính đánh thuê, chủ yếu bao gồm người Séc và người Moravia. Rất đông chiến binh loại này tham gia cuộc chiến, bao gồm tất thảy tới bốn mươi chín chiến đoàn. Những đội quân này, nhất là đám lính bộ theo sau các hiệp sĩ cưỡi ngựa mang trường thương, có vẻ hoang dã, lộn xộn, nhưng lại chiến đấu rất quyết liệt, và thường đánh nhau bạo liệt điên khùng, đến mức khi phải đương đầu với họ, mọi loại bộ binh khác đều chọn cách chạy trốn như lũ chó nhà gặp phải một con nhím. Những lưỡi việt [275] , lưỡi phủ, lưỡi hái, và đặc biệt là liềm sắt đã trở thành những món vũ khí mà họ sử dụng thành thạo đến độ khủng khiếp. Họ đánh thuê cho tất cả những ai trả tiền, bởi vì nghề duy nhất của họ là chinh chiến, cướp bóc và tàn sát.

Cùng tiến bước bên cạnh những chiến binh Séc và Moravia là mười sáu chiến đoàn của vùng đất Ba Lan, bao gồm một đơn vị vùng Przemyśl, một từ Lwow, một từ Halick và ba chiến đoàn vùng Podolsk, dẫn theo sau là những đoàn bộ binh đông đảo của những vùng đất ấy, thường trang bị những lưỡi đòng có ngạnh [276] và lưỡi hái. Các quận công Janusz và Ziemowit xứ Mazowsze thống lĩnh các chiến đoàn thứ hai mươi mốt, hai mươi hai và hai mươi ba. Cùng hành quân với binh đoàn có hai mươi hai cha xứ và những trang chủ. Đó là ngài Jaśko xứ Tarnów, Jędrek xứ Tęczyn, Spytek Leliwy và Krzon xứ Ostrów, Mikołaj xứ Michałowice, Zbigniew xứ Brzezie, Krzon xứ Koziegłowy, Kuba xứ Koniecpol, Jaśko Ligęza, Kmita, Zakliko, ngoài ra có cả gia tộc Gryhty, Bobowski, Kożlich Rogi, và rất nhiều người khác, cùng tập hợp dưới một biểu trưng gia tộc chung và một chiến lệnh chung.

Và mặt đất dưới chân họ cũng muôn màu như thế, những đồng cỏ nở hoa sặc sỡ chào mùa xuân. Cả một làn sóng ngựa, một làn sóng người, bên trên là một rừng tua tủa những lưỡi đòng nhọn hoắt với những ngọn quân kỳ đầy màu sắc như những bông hoa nhỏ, còn tiếp sau, chìm trong đám mây bụi, là đoàn bộ binh của các thành đô và làng mạc. Biết là sẽ tiến vào một trận chiến cực kỳ khủng khiếp, nhưng họ hiểu đó là điều cần thiết, vì vậy họ tiến bước với những trái tim hào sảng.

Ở cánh phải có các đơn vị quân binh của đại quận công Witold, dưới các chiến kỳ đủ màu sắc khác nhau, nhưng cùng mang biểu trưng Truy Kích của người Litva. Không cặp mắt trần tục nào có thể bao quát tất cả các đoàn quân, trải rộng hơn một dặm Đức trên những cánh đồng và các khu rừng.

Trước buổi trưa, khi đến gần các làng Logdau [277] và Tannenberg [278] , toàn quân dừng lại ở bìa rừng. Đây có vẻ là nơi tốt và an toàn để nghỉ ngơi, tránh các cuộc tấn công bất ngờ, bởi vì ở phía bên trái, nó bị ngăn cách bởi mặt nước của hồ Dąbrowskie, còn bên phải là hồ Luben, còn trước mặt đoàn quân trải rộng một cánh đồng với khoảng không gian rộng chừng một dặm. Ở giữa không gian ấy là cánh đồng cỏ xanh mát Grunwald, hơi dốc một chút về phía tây, còn xa hơn nữa thấp thoáng ẩn hiện những mái rạ bạc màu và vùng gò bãi hoang vắng của làng Tannenberg. Từ gò cao, có thể dễ dàng thấy được kẻ thù nếu chúng tiến vào rừng, nhưng người ta đồ rằng sớm nhất thì ngày hôm sau điều đó mới có thể xảy ra. Quân đội chỉ dừng lại ở đây một lúc, nhưng vốn rất cẩn trọng, hiệp sĩ Zyndram xứ Maszkowice đã quan sát trật tự đội hình ngay khi đang hành quân, và cho dừng trong tư thế sẵn sàng đối phó với mọi sự có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Theo mệnh lệnh, trước đó người ta đã cử các kỵ sĩ phóng những con chiến mã lẹ làng và nhanh nhẹn về phía Grunwald, Tannenberg và xa hơn nữa, để do thám địa hình khu vực, trong khi đó, họ dựng một chiếc lều nguyện trên bờ cao bên hồ Luben để đức vua có thể dự các lễ misa theo thông lệ hằng ngày.

Đức vua Jagiełło, đại quận công Witold, các quận công Mazowsze và hội đồng quân sự đều vào lều. Cả giới hiệp sĩ hàng đầu đều tập trung trước lều, để cầu Chúa trước ngày quyết định và cũng để được chiêm ngưỡng long nhan đức vua. Họ thấy đức vua mặc một chiếc áo choàng hành quân màu xám, với khuôn mặt nghiêm trang, hiện rõ vẻ lo lắng, nặng nề. Năm tháng chỉ làm thay đổi chút ít dáng vẻ của đức vua, chưa khiến mặt ngài có những nếp nhăn, cũng không làm bạc tóc, mái tóc mà giờ đây bằng một động tác nhanh nhẹn, ngài hất vào sau vành tai, hệt như lúc Zbyszko được gặp đức vua lần đầu ở Kraków. Đức vua bước đi hơi nghiêng xuống, như thể bị cái trọng trách khủng khiếp đè nặng trên vai, và như đang chìm trong một nỗi u buồn sâu thẳm. Trong quân, người ta đồn nhau rằng đức vua đã khóc bởi biết những dòng máu Ki-tô giáo sẽ phải tuôn ra. Quả thực như thế, đức vua Jagiełło rùng mình trước cuộc chiến, nhất là với những kẻ mang hình thánh giá trên áo choàng và trên chiến kỳ, bởi ngài toàn tâm khao khát hòa bình. Hoài công các lãnh chúa Ba Lan, thậm chí cả các ông Ścibor và Gara - những vị khách người Hungary - cố thuyết phục ngài về thói tự tôn và kiêu ngạo vô lối của các hiệp sĩ Thánh chiến, việc đại thống lĩnh Ulryk sẵn sàng thách chiến với cả thế giới; hoài công đặc sứ Piotr Korzbóg mà đức vua phái đi thương thuyết trở về đã thề trên thập giá thiêng của Chúa và trên gia huy mang hình con cá của gia tộc ông, rằng Giáo đoàn không hề muốn nghe nói đến hòa bình, và khi viên lãnh binh vùng Gniew, bá tước von Wende, là người duy nhất khuyên nên giữ hòa hiếu, thì tất cả bọn chúng đã sỉ nhục và thóa mạ ông ta - đức vua vẫn hy vọng rằng kẻ thù sẽ hiểu được tính đúng đắn trong yêu sách của ngài, sẽ biết tiếc máu người và sẽ chấm dứt mối hận thù kinh khủng này bằng một thỏa hiệp công bằng.

Vì vậy, lúc này khi bước đến lều nguyện để cầu Chúa, tâm hồn thuần phác và nhân từ của đức vua bị giày vò bởi một nỗi phiền muộn lớn lao. Trước đây, Jagiełło đã từng đến vùng đất Thánh chiến của lửa và sắt, nhưng ngài đã làm chuyện đó với tư cách đại quận công xứ Litva ngoại giáo, còn bây giờ, khi đã là vua Ba Lan và tín đồ Ki-tô, khi phải nhìn thấy làng mạc bị đốt cháy, tro tàn, máu và nước mắt, ngài bị chế ngự bởi nỗi e sợ cơn giận của Đức Chúa Trời, nhất là khi biết đó mới chỉ là sự khởi đầu của cuộc chiến. Giá như có thể chỉ dừng lại ở đó! Nhưng hôm nay, hay ngày mai thôi, các vương quốc sẽ va nhau và mặt đất sẽ lại sũng ướt máu. Dẫu kẻ thù quá vô luân, nhưng chúng vẫn mang trên áo choàng hình cây thánh giá và được che chở bởi những thánh tích vĩ đại và linh thiêng, đến nỗi chỉ mới nghĩ đến thôi người ta đã phải kinh sợ mà thụt lui. Nghĩ đến bọn Thánh chiến là toàn quân e sợ, không phải vì mũi tên, lưỡi gươm sắc hay rìu bén, mà người Ba Lan nào cũng đều sợ phạm đến các thánh tích. “Làm sao tôi dám vung tay lên đầu đại thống lĩnh, khi mà y mang theo bình đựng thánh tích dưới áo giáp, trong đó chứa xương cốt thiêng liêng và mẩu gỗ cây thánh giá của Đấng Cứu Rỗi!” Các hiệp sĩ vốn không bao giờ biết sợ đã thốt lên. Dẫu chính đại quận công Witold đã dấy lên ngọn lửa chiến tranh, đã hối hả lao mình vào cuộc chiến, nhưng trái tim mộ đạo của đức vua vẫn không tránh khỏi quằn quại khi nghĩ đến các thế lực thiên giới mà Giáo đoàn đã dùng để che đi sự vô luân của chúng.