← Quay lại trang sách

Chương 9

Một buổi sáng, ngày mười bốn tháng Ba, hiệu Hạnh phúc các bà khánh thành cửa hàng mới của họ bằng cuộc triển lãm lớn những tân phẩm mùa hè trong ba ngày. Ở bên ngoài, một cơn gió bắc buốt lạnh thổi, người qua đường, bị bất chợt vì trời rét trở lại, gài cúc áo bành-tô. Lúc đó, cả một cơn xúc động sôi lên ở những cửa hàng nhỏ xung quanh; và người ta thấy áp vào cửa kính những bộ mặt nhợt nhạt của những người buôn bán nhỏ, họ chú ý đếm những chiếc xe đầu tiên dừng lại ở cửa hàng chính mới trên phố Neuve Saint Augustin. Cửa hàng đó, cao và sâu như cổng nhà thờ, trên có nhóm tượng Công nghiệp và Thương nghiệp bắt tay nhau giữa những biểu hiện phức tạp trên che mái rộng, thếp vàng tươi rói như rọi nắng xuống bờ hè. Bên phải, bên trái, những mặt cửa hàng màu trắng toát, chạy dài, ngoặt vào các phố Monsigny và La Michodière, chiếm cả khu, chỉ trừ phía đường Mười tháng Chạp, nơi mà Ngân hàng bất động sản sắp xây dựng. Suốt dọc cửa hàng như doanh trai ấy, khi những người buôn bán nhỏ ngẩng đầu lên thì họ thấy hàng hóa chất đống, qua những tấm gương không tráng để ánh ngày tràn vào, từ tầng dưới nhà lên đến gác hai. Và cái khối vuông đồ sộ ấy, cái hiệu bách hóa khổng lồ ấy che kín cả trời, họ tưởng như nó có phần nào đó gây ra cái lạnh buốt mà họ đang run lên, trong xó những quầy hàng giá lạnh của họ.

Trong khi đó, ngay từ lúc sáu giơ, Mouret đã có mặt để cho những lệnh cuối cùng. Ở chính giữa, theo trục của cửa chính, một gian rộng đi từ đầu nọ sang đầu kia, hai bên phải bên trái là hai gian hẹp hơn, gian Monsigny và gian Michodière. Các sân đều quây kính, biến thành những phòng lớn, và những cầu thang sắt đi từ tầng dưới nhà lên, những chiếc cầu sắt bắt đầu từ đầu nọ sang đầu kia, ở hai tầng gác. Kiến trúc sư, may mắn là người thông minh, một chàng trai thích thời buổi mới, chỉ dùng đá ở những tầng dưới mặt đất và những trụ góc, rồi dựng lên cả bộ suờn nhà bằng sắt, với những cột đỡ toàn bộ xà và rường. Các vòm đỡ sàn nhà, các vách ngăn bên trong đều bằng gạch. Chỗ nào cũng tranh thủ khoảng rộng, không khí và ánh sáng tràn vào, công chúng đi lại thoải mái, dưới những bộ khung đỡ mái thiết kế táo bạo mà lâu bền. Đó là tòa nhà thời của thương nghiệp hiện đại, vững mà nhẹ, xây cho cả một đám đông dân mua hàng. Ở tầng dưới nhà, trong gian trung tâm, sau quầy hàng xon [1] ở ngay cửa vào, đến quầy cà-vạt, găng, tơ lụa; Gian Monsigny dành cho hàng trắng và vải màu, gian Michodière là tạp hóa, áo mũ đan, dạ và len. Rồi đến gác một với các gian hàng may sẵn, quần áo lót, khăn san, đăng-ten, và những gian hàng mới khác; đồ trải giường, thảm, vải bọc đồ, tất cả những thứ hàng cồng kềnh khó vận chuyển thì được đưa lên gác hai. Vào lúc này, có ba mươi chín gian hàng, và số nhân viên là một nghìn tám trăm, trong đó có hai trăm phụ nữ. Cả một thế giới sinh trưởng ở đó, trong cuộc sống vang ầm của những buồng cao như giáo đường xây bằng kim loại.

Niềm say mê duy nhất của Mouret là khuất phục phụ nữ. Anh muốn họ làm bà chúa trong cửa hàng, anh xây dựng cho họ ngôi đền này để giữ họ lại tùy ý muốn của anh. Đó là tất cả sách lược của anh, chài mồi họ bằng những cách ân cần lịch sự, và lợi dụng mọi ước muốn của họ, khai thác nhiệt tình của họ. Vì vậy ngày đêm anh moi óc tìm tòi những phát hiện mới. Để đỡ mệt cho các bà sức yếu phải leo thang, anh cho thiết lập hai cầu thang máy đệm nhung. Vừa rồi anh lại mở một quầy giải khát đãi không mất tiền nước ngọt và bánh quy, và một phòng đọc sách, một gian đồ sộ, trang hoàng cực kỳ sang trọng, ở đó anh dám trưng bày cả tranh. Nhưng ý nghĩ sâu sắc nhất của anh, đối với các bà không ưa xa hoa, là chinh phục họ qua con cái họ; Anh không quản bỏ sức ra, lợi dụng mọi tình cảm, tạo nên một gian hàng cho thiếu nhi, hãm chân các bà mẹ khi đi qua bằng cách tặng các cháu nhỏ tranh ảnh và bóng. Thật là một sáng kiến tài năng cái món quà bóng đó, tặng cho mỗi bà mua hàng, những quà bóng đỏ, vỏ mịn bằng cao su, trên ghi hàng chữ lớn tên cửa hàng, và buộc nó ở đầu một sợi chỉ, thả bay trên không, đưa dạo qua các phố một thứ quảng cáo sinh động!

Sức mạnh lớn là quảng cáo Mouret bỏ ra mỗi năm tới ba trăm nghìn phrăng để in sổ danh mục hàng, đăng báo rao hàng và làm áp phích. Để đem bán tân phẩm mùa hè, anh đã ném ra hai mươi vạn sổ danh mục, trong đó năm vạn gửi ra nước ngoài, dịch ra mọi thứ tiếng. Bây giờ anh cho minh họa bằng tranh ảnh, thậm chí dán cả mẫu hàng lên các trang giấy. Thật là một cuộc bầy hàng lan tràn, hiệu Hạnh phúc các bà nổi bật trước mắt cả thế giới, lấn chiếm các bức tường, các báo chí, cho đến cả trên màn sân khấu.

Anh cho rằng phụ nữ không cưỡng lại được quảng cáo, nhất thiết họ sẽ đến nơi có ồn ào. Ngoài ra, anh còn chăng những cái bẫy khôn khéo hơn, anh phân tích người phụ nữ như một nhà luân lý học. Chẳng hạn khi anh phát hiện ra họ không cưỡng lại được việc bán rẻ, họ mua mà không cần dùng, khi họ tưởng mình được món hời; và dựa vào nhận xét đó, anh đặt ra phương thức bán hạ giá, anh hạ giá dần dần những hàng không bán được, ưng bán lỗ, trung thành với nguyên tắc luân chuyển hàng nhanh. Rồi, anh còn đi sâu hơn vào tâm lý phụ nữ, anh vừa nghĩ ra phương thức “trả lại hàng” một kiệt tác về cám dỗ quỷ quyệt [2] “Thưa bà, bà cứ lấy: bà sẽ trả lại hàng cho chúng tôi khi nào bà không ưng”. Thế là bà nào đang chần chừ thấy ở đó lý lẽ cuối cùng để tự bào chữa, khả năng chuộc lại một điên rồ: bà ta lấy hàng mà lương tâm yên ổn. Bây giờ, phương thúc bán hạ giá và trả lại hàng đi vào lề lối cổ điển của thương nghiệp mới.

Nhưng điều mà Mouret tỏ ra là bậc thầy không ai sánh kịp, đó là cách bố trí bên trong cửa hàng. Anh đề ra quy tắc là không để một góc nào của hiệu Hạnh phúc các bà trống không; ở khắp nơi, anh yêu cầu có ồn ào, có đám đông, có sự sống; là vì, anh nói, cuộc sống thu hút sự sống, sinh sôi nảy nở. Từ quy tắc đó anh rút ra đủ mọi cách áp dụng. Trước hết, phải để cho người ta chen nhau mà vào, phải làm thế nào để từ ngoài phố, người ta tưởng như có nổi loạn và, để có sự chen chúc đó, anh đặt chỗ bán xon ngay ở cửa vào, với những ngăn, những giỏ chất đầy hàng rẻ mạt; đến nỗi đám dân thường tụ tập, chắn cửa vào, khiến người ta nghĩ rằng cửa hàng chật ních khách, khi mà thường thường nó chỉ đóng có một nửa. Rồi, dọc theo các gian, anh có nghệ thuật làm bẩn đi những quầy hàng vắng khách, chẳng hạn quầy khăn san vào mùa hè và quầy vải hoa vào mùa đông, anh vây quanh nó bằng những quầy đông khách và làm nó chìm ngập trong tiếng ồn ào. Duy có anh nghĩ ra việc đặt ở gác hai các quầy bán thảm và đồ đạc, những quầy ít khách hơn mà nếu đặt ở tầng dưới nhà thì sẽ tạo ra những lỗ hổng lạnh ngắt. Ví thử tìm ra được cách, anh có thể để cho đường phố xuyên qua cửa hàng.

Chính lúc này, Mouret đang trải qua cơn sốt cảm hứng. Chiều hôm thứ Bảy, khi anh ngắm nhìn lần cuối cùng việc chuẩn bị cho cuộc đem bán lớn vào thứ Hai mà người ta lo lắng từ một tháng nay, chợt anh nhận thấy cách sắp đặt tuyệt đối lôgích, một bên là vải vóc, bên kia là hàng may sẵn, một trật tự thông minh khiến khách hàng tự mình tìm ra hướng đi. Xưa kia anh đã mơ ước trật tự đó, trong đám lộn xộn nơi cửa hàng chật chội thời bà Hédouin; thế mà, giờ đây anh cảm thấy nao núng khi thực hiện nó. Đột nhiên, anh la lên rằng phải phá hết cái đó cho anh. Chỉ còn bốn mươi tám tiếng đồng hồ, mà vấn đề là phải dọn cả một bộ phận cửa hàng. Nhân viên kinh hoàng, bị thúc đẩy, phải qua hai đêm và cả ngày Chủ nhật, giữa một đám rối tinh ghê gớm. Ngay sáng hôm thứ Hai, một giờ trước lúc mở cửa, hàng hóa vẫn còn chưa đặt vào chỗ. Chắc chắn là ông chủ phát điên, không ai hiểu ra làm sao cả, mọi người đều thất kinh.

- Thôi! Mau tay lên! - Mouret la, với cái vững tin bình tĩnh của thiên tài - Này đây những bộ đồ này phải mang lên trên kia cho tôi... Và đồ Nhật Bản đã đặt nó gần cầu thang chính giữa chưa?... Cố gắng lần cuối cùng, các bạn ạ, rồi lát nữa các bạn sẽ thấy cuộc bán ra sao!

Bourdoncle cũng đã có mặt ở đó từ sớm tinh mơ. Hắn cũng không hơn gì người khác, hắn chẳng hiểu gì cả và mắt rõi nhìn ông giám đốc với vẻ lo lắng. Hắn không dám đặt câu hỏi với anh vì biết sẽ được đáp lại cách nào, trong những lúc anh lên cơn như thế. Thế rồi, hắn nhất quyết, hắn dịu dàng hỏi:

- Có thật cần thiết phải đảo lộn tất cả như vậy, một hôm trước ngày trưng bày không?

Lúc đầu, Mouret nhún vai, không đáp. Rồi, khi hắn cả gan nằng nặc, thì anh nổi đóa.

- Để cho khách hàng dồn tất cả vào một góc, phải không? Tôi đã có ý nghĩ hay hớm của một gã hình học! Tôi sẽ không bao giờ hết ân hận... Tôi phân bố đám đông, ông hiểu chưa. Một bà vào, đi thẳng tới chỗ họ muốn, đi từ chiếc váy cộc đến chiếc áo dài, từ áo dài đến măng-tô, rồi rút lui, chẳng bị lạc một chút nào?... Thế là không một bà nào để ý ngắm nhìn cửa hàng!

- Nhưng mà, - Bourdoncle có nhận xét - bây giờ ông làm rối hết cả và phân tán ra khắp nơi, nhân viên sẽ rạc cẳng để dẫn người mua hàng từ gian này sang gian khác.

Mouret làm một cử chỉ ngạo mạn.

- Tôi cóc cần cái đó! Họ còn thanh niên, như thế càng khỏe... Họ đi dạo thì càng tốt! Càng có vẻ nhiều nhân viên, càng thêm tấp nập. Cho họ chen nhau, mọi sự sẽ tốt đẹp!

Anh cười, anh chịu giải thích ý của anh, hạ thấp giọng:

- Này! Bourdoncle, hãy chú ý đến kết quả... Điều thứ nhất, khách hàng đi lại luôn như vậy họ có phần tản ra khắp nơi, số người như tăng lên và khiến họ rối óc; điều thứ hai, vì phải dẫn họ từ đầu nọ sang đầu kia, vì họ muốn mua vải lót áo sau khi mua áo chẳng hạn, đi lại khắp như thế làm sao cho họ thấy cửa hàng to lên gấp mấy lần; điều thứ ba, bắt buộc họ phải qua những gian hàng mà có lẽ họ sẽ không đặt chân tới, cám dỗ, níu họ lại khi đi qua, thế là họ xiêu; điều thứ tư...

Bourdoncle cười theo anh. Thế là Mouret, phấn chấn, ngừng lại để hét bảo nhân viên phục vụ:

- Tốt lắm, các bạn ơi! Bây giờ cho nhát chổi, thế là tươm!

Nhưng, khi quay đầu lại, anh bắt gặp Denise. Anh và Bourdoncle đang ở gian hàng may sẵn, và đúng lúc anh tách nó làm hai, đưa áo dài và trang phục lên gác hai. Denise xuống trước nhất, giương mắt, bỡ ngỡ vì những sắp xếp mới.

- Sao vậy? - Cô khẽ nói - Dọn chỗ à?

Cô ngỡ ngàng làm cho Mouret thích thú, anh ưa những màn kịch đột biến. Denise trở lại hiệu Hạnh phúc các bà ngay từ những ngày đầu tháng Hai, và cô vui mừng ngạc nhiên thấy nhân viên có lễ độ, gần như kính trọng. Nhất là bà Aurélie tỏ ra khoan hậu; Marguerite và Clara thì dường như cam chịu; đến cả lão Jouve cũng khom lưng, vẻ lúng túng, như muốn xóa bỏ cái kỷ niệm xấu xa trước kia. Chỉ cần Mouret nói một lời, mọi người thì thầm, đưa mắt nhìn theo cô. Và, trong cái không khí hòa nhã chung đó, cô chỉ hơi mếch lòng vì nỗi buồn kỳ lạ của Deloche và những nụ cười khó hiểu của Pauline.

Khi đó, Mouret vẫn nhìn cô vui vẻ mừng rỡ.

- Cô tìm gì đấy? - Cuối cùng anh hỏi.

Denise đã không trông thấy anh, cô hơi đỏ mặt. Từ hôm cô trở lại, anh tỏ ra quan tâm đến cô khiến cô rất cảm động. Cô không hiểu tại sao Pauline đã kể tỉ mỉ với cô những chuyện tằng tịu giữa ông chủ và Clara, ông ta gặp cô kia ở đâu, ông ta trả cô kia cái gì; và cô nhắc lại chuyện đó luôn luôn, thậm chí mách thêm rằng ông ta có một nhân tình khác, cái bà Desforges ấy, mà cả cửa hàng đều biết rõ. Những chuyện như thế làm cho Denise xao xuyến. Trước mặt anh, cô lại cảm thấy nỗi sợ xưa kia một sự khó chịu trong đó lòng biết ơn vật lộn với mối căm giận.

- Dọn chỗ xong chưa đấy. - Cô khẽ nói.

Bấy giờ, Mouret tới gần cô để nói nhỏ hơn với cô:

- Chiều nay, sau cuộc bán, mời cô lại phòng tôi. Tôi có điều muốn nói với cô.

Cô bối rối cúi đầu, không nói gì. Cô liền vào gian hàng, mọi nhân viên bán hàng khác đã đến cả. Nhưng Bourdoncle đã nghe thấy Mouret nói, và anh ta mỉm cười nhìn anh. Thậm chí khi chỉ còn hai người, anh ta dám nói:

- Lại cái cô ấy! Anh chớ coi thường, cuối cùng là có thể sinh chuyện đấy!

Mouret vội vã tự bào chữa, che giấu sự xúc động của mình dưới cái vẻ vô tình bề trên.

- Hãy mặc nó đấy, một chuyện bông lơn! Cái người phụ nữ ếm tôi chưa ra đời đâu, anh bạn ạ!

Và, sắp mở cửa, anh vội bỏ chạy để nhìn qua một lần cuối cùng các quầy hàng. Bourdoncle lắc đầu. Cái cô Denise giản dị, dịu dàng đó bắt đầu làm anh ta lo lắng. Một lần đầu, anh ta đã thắng, bằng cách đuổi tàn nhẫn. Nhưng bây giờ cô lại xuất hiện, anh ta coi cô như kẻ thù đáng gờm, anh câm lặng trước mặt cô, lại chờ đợi.

Anh ta đuổi kịp Mouret lúc đó đang la ở bên dưới, trong gian lớn Saint Augustin, đối diện với cửa ra vào:

- Người ta bất chấp cả tôi nữa sao! Tôi đã bảo bày những chiếc dù viền màu lơ... Bỏ hết những cái này đi, mau lên!

Anh không nhân nhượng, một kíp nhân viên phục vụ phải bày lại những chiếc dù. Thấy khách hàng đến, thậm chí anh cho đóng cửa lại một lúc; và anh nhắc sẽ không mở cửa nếu cứ để những dù màu lơ ở giữa. Như thế cách bố trí của anh sẽ bị phá. Những tay bày hàng nổi tiếng, Hutin, Mignot, và những kẻ khác, đến xem, trố mắt ra; nhưng họ làm vẻ không hiểu, vì họ thuộc trường phái khác.

Cuối cùng, cửa mở và sóng người tràn vào. Ngay giờ đầu, trước khi cửa hàng chật khách, ở phòng trước, người ta đã chen chúc nhau đến mức phải nhờ cảnh binh can thiệp để bờ hè thông trở lại. Mouret đã tính toán đúng: tất cả các bà nội trợ, một đám đông nghịt những bà tiểu tư sản và bà đội mũ trùm tấn công vào hàng bán dịp may, bán xon và những rẻo vải, bầy ra tận ngoài phố. Những bàn tay nối tiếp giơ lên mân mê các “hàng treo” ở cửa vào, một mảnh chúc bâu bảy xu, một mảnh vải len pho bông chín xu, nhất là một mảnh orléans ba mươi tám xăngtim, vét túi nhà nghèo. Người ta huých vai nhau, xô đẩy chí chết xung quanh những ngăn và những giỏ hàng bán hạ giá, đăng-ten sáu xăngtim, băng năm xu, nịt tất ba xu, găng, váy ngắn, cà-vạt, bít tất ngắn và bít tất sợi dài vợi đi, biến mất, như bị một đám đông háu ăn ngốn nuốt. Mặc dù trời lạnh, số thư ký bán ở giữa trời ngoài đường không tài nào làm xuể. Một bà to tướng thét lên. Hai đứa con gái nhỏ suýt chết ngạt.

Cả buổi sáng đám đông chen chúc tăng lên. Khoảng một giờ phải xếp hàng dài chặn ngang phố như thời kỳ nổi loạn. Vừa lúc bà De Boves và con gái là cô Blanche đứng ở bờ hè trước mặt, đang lưỡng lự, thì bà Marty, cũng mang theo con gái là Valentine, đến gần.

- Đông quá, hả! - Bà De Boves nói - Trong kia người ta tự sát... Đáng lẽ tôi không tới, tôi đang mệt, rồi dậy đi cho thoáng.

- Ấy, tôi cũng thế - Bà kia nói - Tôi đã hứa với nhà tôi đi thăm bà chị, ở Montmartre... Thế là, qua đây, tôi nhớ ra cần đến ít giải áo. Mua ở đây thì cũng như ở nơi khác, phải không? Chà! Tôi sẽ chẳng tiêu một xu! Vả lại, cũng chẳng cần đến cái gì.

Tuy nhiên, mắt họ vẫn không rời cửa vào, họ bị quyến rũ và cuốn theo ngọn gió của đám đông.

- Không, không, tôi không vào đâu, hãi lắm - Bà De Boves lẩm bẩm - Blanche, ta đi thôi, ta sẽ chết bẹp mất.

Nhưng giọng nói mỗi lúc một yếu, dần dà bà nhượng bộ với ý muốn thiên hạ vào thì mình cũng vào, và nỗi sợ hãi của bà tan trong sự thu hút không cưỡng được của đám đông chen chúc. Bà Marty cũng xiêu lòng. Bà nhắc:

- Nắm lấy áo mẹ, Valentine.. Chà! Hay quá, chưa bao giờ tôi thấy thế này. Người ta thúc mình. Không biết có cái gì bên trong!

Mấy bà đó, bị tình thế lôi cuốn, không thể lùi được nữa. Như những dòng sông cuốn hút vào chúng những dòng nước lạc lõng trong lưu vực, dường như lớp sóng khách hàng ùa tràn vào phòng trước, lôi cuốn người qua đường ngoài phố, thu hút dân chúng từ bốn phía Paris. Các bà tiến lên rất chậm, bị ép chật đến hết thở, buộc phải đứng thẳng vì chạm vào những vai, những bụng mà họ cảm thấy nóng ấm; và ý muốn được thỏa màn khiến họ thích thú với cuộc đi vào vất vả, nó càng kích thích tò mò của họ. Cả một đám bát nháo các phu nhân bận đồ lụa, các bà tiểu tư sản mặc áo tang, các cô gái tóc trần, tất cả bị kích động, bị nung nấu bởi cùng một dục vọng. Một số đàn ông bị chìm ngập vào đám yếm khăn, lo lắng nhìn xung quanh. Một chị vú em, với khổ người đẫy đà nhất, nâng bổng đứa bé, nó cười khoái trí. Và một bà gầy gò đi một mình, phát cáu, văng ra những lời bẩn thỉu, kêu ca người đi bên cạnh thúc cả vào người.

- Mình tưởng đến để lại váy ở đây. - Bà De Boves lặp lại.

Câm lặng, mặt còn tươi vì không khí ngoài trời, bà Marty kiễng chân để tranh thủ nhìn thấy trước, qua đầu mọi người, phía sâu trong cửa hàng mở rộng dần. Đôi mắt xám của bà lim dim như mắt mèo từ chỗ sáng lóa vào nơi tối, và da thịt bà tươi mát, con mắt nhìn tinh của người tỉnh táo.

- Chà! Xong. - Bà vừa nói vừa thở phào.

Hai bà ra khỏi đám chen nhau, đang ở gian lớn Saint Augustin. Họ rất đỗi ngạc nhiên thấy nó hầu như vắng ngắt. Nhưng họ thấy người khoan khoái như từ mùa đông ngoài phố bước vào mùa xuân. Khi mà ở bên ngoài gió buốt thổi cùng những cơn mưa thì trong những gian hàng hiệu Hạnh phúc đã là mùa đẹp ấm áp với những bông vải mỏng, vẻ tươi sáng của những màu dịu, cái vui thôn dã của những kiểu, áo mùa hè và những chiếc dù.

- Nhìn kia! - Bà De Boves la lên, ngây người, mắt ngước lên.

Đó là nơi trưng bày dù. Những chiếc dù mở rộng tròn như những chiếc khiên, che trùm cả gian lớn, từ lỗ cửa lắp kính trên trần cho tới tường bằng gỗ sồi đánh bóng. Theo những đường vòng cung của các tầng gác trên, và dọc theo những cột, chúng trùm thành như những tràng hoa; trên những bao lơn của hành lang, cho đến lan can cầu thang, chúng kéo dài thành những đường sít sao; và khắp nơi, xếp bày một cách cân xứng, chúng tô các bức tường đủ màu rực rỡ, đỏ, xanh ve, vàng, trông như những đèn lồng Venise [3] cỡ lớn thắp sáng trong một cuộc hội hè đồ sộ nào. Ở các góc, có những môtíp phức tạp, những ngôi sao kết bằng dù ba mươi chín xu, với các màu sáng, lơ nhạt, trắng kem, hồng dịu, như những đèn đêm chiếu lờ mờ; còn ở bên trên, những chiếc dù Nhật Bản cỡ lớn trên vẽ hạc màu vàng bay trong một nền trời đỏ thắm, rực sáng như đám cháy.

Bà Marty tìm một lời để tỏ lòng hân hoan mà chỉ thốt ra được mấy tiếng.

- Cảnh thần tiên!

Rồi, bà tìm hướng:

- Xem nào, giải áo thì ở gian tạp hóa... Tôi mua giải xong là chuồn.

- Tôi đi theo bà - Bà De Boves nói - Này Blanche, ta chỉ tạt qua cửa hàng thôi đấy nhé!

Nhưng, ngay từ cửa vào các bà đã lạc hướng. Họ quay sang tay trái; và, vì người ta đã dọn gian tạp hóa đi chỗ khác, họ rơi vào giữa gian hàng vải xếp tổ ong, rồi giữa gian đồ trang sức. Ở các hành lang che kín, trời oi bức, nóng như trong nhà kính, nhớp nháp và hấp hơi, sặc mùi nhàn nhạt của vải vóc, và trong đó tắt nghẹt tiếng dậm chân của dám đông. Thế là các bà lại quay ra cửa, ở đó người ta không ngớt, làm thành một dãy dài vô tận những đàn bà và trẻ con bên trên rập rờn những bóng đỏ như đám mây. Bốn vạn quả bóng được chuẩn bị, có những nhân viên phục vụ đặc biệt giữ việc phân phát. Trong đám người mua ra về người ta tưởng như trên không, ở đầu những sợi chỉ vô hình, cả một đám bong bóng xà phòng to lớn đang bay, phản chiếu đám cháy của những dù. Cửa hàng sáng trưng lên.

- Thiên hạ đông quá - Bà De Boves tuyên bố - Chẳng còn biết mình ở chỗ nào nữa.

Tuy nhiên, các bà ấy không thể đứng giữa dòng xoáy ở cửa, người ra người vào xô lẫn nhau. May mắn viên thanh tra Jouve đến cứu họ. Lão ta đứng ở phòng trước, nghiêm trang, chú ý, nhận mặt từng bà đi qua. Lão chuyên giữ gìn trật tự bên trong, dò kẻ cắp và đặc biệt theo dõi các bà bụng chửa, khi thấy cơn sốt trong con mắt họ khiến lão lo ngại.

- Tạp hóa, thưa các bà? - Lão ta ân cần hỏi - Đi sang tay trái, đây kia! Sau gian mũ áo đan. Bà De Boves cảm ơn. Nhưng bà Marty ngoảnh lại, không thấy Valentine ở bên. Bà đang lo thì bắt gặp con gái đã ở xa tít đầu gian lớn Saint Augustin, mê mệt trước một bàn giới thiệu hàng, trên đó chất đống những cà vạt phụ nữ mười chín xu. Mouret áp dụng phương thức giới thiệu hàng, những hàng lớn tiếng rao bán, bà khách bị níu lại và bị vét túi, vì anh sử dụng tất cả mọi cách quảng cáo, anh bất cần sự kín đáo của một số đồng nghiệp, theo ý họ thì hàng hóa phải tự nó chào mời. Những tay bán hàng đặc biệt, dân Paris lười biếng và tán dóc, bằng cách đó bán chạy một số lớn những vật nhỏ mà xấu.

- Ối! Mẹ kìa, - Valentine khẽ nói - trông những cà vạt... Ở góc có thêu con chim.

Viên thư ký rao hàng cam đoan là toàn tơ, rằng người sản xuất đã vỡ nợ, và sẽ không còn dịp nào may như thế nửa.

- Mười chín xu, sao lại thế được! - Bà Marty nói, bà cũng bị cám dỗ như có con gái - Chà! Tôi có thể mua hai chiếc, chẳng phải vì thế mà vỡ nợ.

Bà De Boves vẫn khinh khỉnh. Bà ghét lối giới thiệu, một viên thư ký chào mời bà khiến bà bỏ chạy. Bà Marty lấy làm lạ, bà không hiểu nỗi kinh hãi tâm thần vì lời rao hàng đó, về bản chất, bà thuộc loại khác, bà vào hạng phụ nữ thích được cưỡng ép, được mơn trớn vì sự tặng biếu công khai, với cái thú được đặt bàn tay lên khắp cả và được kề cà tán gẫu.

- Bây giờ, - Bà lại nói - mau đi mua giải áo... Tôi cũng chẳng muốn xem gì nữa.

Nhưng khi đi qua gian khăn quàng và gian găng tay, bà lại mềm lòng. Ở đó dưới ánh sáng tản mạn, hàng bầy màu rực rỡ và vui trông thật mê ly. Những quầy hàng sắp đặt cân xứng, trông như những luống hoa, biến gian lớn thành như một vườn cảnh Pháp, ở đó có đủ cung bậc những màu hoa dịu dàng tươi vui. Bầy trần trên gỗ, trong những hộp cactông để mở, bên ngoài những ngăn đầy ứ, foulard như nở rộ phô màu đỏ thắm của phong lữ, màu trắng sữa của dã yên, màu vàng của cúc, màu thiên thanh của mã tiên; và, trên cao, trên những gióng đồng treo thành tràng một mùa hoa khác, những khăn quàng cổ vắt lên, những băng xổ ra, cả một đường dây rực rỡ chạy dài, leo quấn vào cột, được nhân lên qua những tấm gương. Nhưng cái thu hút đám đông, đó là, ở quầy găng, một nhà ván Thụy Sĩ kết toàn bằng găng: một kiệt tác của Mignot đòi hỏi hai ngày công. Trước hết những găng đen làm thành tầng dưới nhà; rồi đến găng màu rơm, màu réséda, màu tiết bò, phân phối để trang trí, viền những cửa sổ, vạch ra những lan can, thay những tấm ngói.

- Thưa bà muốn gì? - Mignot hỏi khi thấy bà Marty đứng sững trước cái nhà ván - Đây là găng Thụy Điển giá một phrăng bảy nhăm hạng nhất.

Hắn có lối giới thiệu ráo riết, từ cuối quầy hàng chào mời khách qua lại làm rầy họ vì lễ phép. Thấy bà lắc đầu từ chối, hắn tiếp tục:

- Găng Tyrol, một phrăng hai nhăm... Găng Turin cho trẻ em, găng thêu các màu...

- Không, cảm ơn, tôi chẳng cần gì. - Bà Marty tuyên bố.

Nhưng hắn cảm thấy giọng bà yếu đi, thế là hắn tấn công mạnh hơn và đặt ngay ra trước mắt bà những găng thêu; và bà không cưỡng lại được phải mua một đôi. Rồi, thấy bà De Boves mỉm cười nhìn mình, bà đỏ mặt lên.

- Tôi như trẻ con, hả?... Nếu tôi không mau đi mua giải áo rồi phới liền thì hỏng mất.

Chẳng may ở gian tạp hóa chật ních người đến mức bà không hỏi mua được. Cả hai người đợi đến mười phút, họ đang cáu tiết thì bắt gặp bà Bourdelais đi với ba con khiến họ quan tâm. Bà này với tư cách người đàn bà đẹp và thực tiễn, ung dung giải thích rằng bà muốn cho lũ trẻ đi xem. Madeleine lên mười, Edmond lên tám, Lucien lên bốn; và chúng cười khoái trí, đây là cuộc đi chơi rẻ tiền đã hứa từ lâu.

- Trông thật ngộ, tôi phải mua một chiếc dù đỏ. - Đột nhiên bà Marty nói, bà dậm chân, sốt ruột đứng mãi đó mà không làm gì.

Bà chọn mua một chiếc dù mười bốn phrăng năm mươi. Bà Bourdelais, sau khi theo dõi việc mua và đưa mắt chê trách, thân mật nói:

- Bà chị hấp tấp dại quá. Một tháng nữa, bà chị mua sẽ chỉ mất mười phrăng. Như tôi thì chúng đừng hòng!

Và bà giảng cả một lý thuyết về người nội trợ đảm đang. Các cửa hàng thế nào rồi cũng hạ giá; vậy chỉ có việc chờ đợi. Bà chẳng muốn để bị họ bóc lột, mà chính bà lợi dụng những dịp may thật sự của họ. Thậm chí bà còn ranh mãnh với họ, bà khoe chưa bao giờ để cho họ lãi một đồng xu nào.

- Thôi, - Cuối cùng bà nói - tôi đã hứa cho đám nhóc này xem ảnh, ở trên kia, trong phòng khách... Mời bà chị cùng đi, bà còn chán thì giờ.

Thế là, bà Marty ngả theo, quên cả vải áo, còn bà De Boves thì từ chối, bà ưng đi vòng một lượt ở tầng dưới. Vả lại các bà đó hy vọng sẽ lại gặp nhau ở trên kia. Bà Bourdelais đang tìm cầu thang thì bắt gặp một thang máy; thế là bà đẩy con vào đó, cho cuộc đi chơi được trọn vẹn. Bà Marty và Valentine cũng bước vào cái lồng chật chội, ở đó người ta đứng thật sát vào nhau; nhưng những tấm gương, những ghế bọc nhung, cái cửa bằng đồng đồ sộ có khắc chạm khiến họ chú ý đến mức lên tới gác một lâu rồi mà họ không cảm thấy cái máy lướt nhẹ. Vả, một thú vị khác đón họ ở gian hàng đăng-ten. Khi qua trước nơi giải khát, bà Bourdelais không khỏi cho cả đám nhãi nốc xirô. Đây là một phòng vuông, với một quầy rộng bằng đá hoa, ở hai đầu có hai vòi nước mạ bạc để chảy ra một dòng nước nhỏ; Phía sau, trên những chiếc bàn con, xếp những hàng chai. Ba nhân viên phục vụ luôn tay lau và rót đầy những cốc. Để giữ trật tự khách hàng giải khát, bắt buộc phải để họ nối đuôi nhau như ở trước rạp hát bằng một rào chắn bọc nhung. Đám đông chen nhau ở đó. Có người, mất cả thận trọng trước những món ăn không mất tiền đó, nhồi nhét đến phát ốm.

- Thế nào họ đâu rồi? - Bà Bourdelais kêu lên, khi ra khỏi đám đông và lấy mùi-soa lau mặt cho các con.

Nhưng bà trông thấy bà Marty và Valentine ở tít xa, tận cuối một chỗ hành lang khác, cả hai đang ngập mình ở một chỗ bày váy ngắn, và lại mua nữa. Thế là hết, mẹ và con bị lối cuốn mất hút vào cơn cuồng nhiệt tiêu tiền.

Cuối cùng, khi tới phòng đọc sách và viết thư, bà Bourdelais đặt Madeleine, Edmond và Lucien trước một chiếc bàn lớn; rồi tự bà tìm trong một tủ sách những album ảnh mang đến cho chúng. Vòm gian phòng dài thếp vang khắp cả, ở hai đầu hai lò sưởi đồ sộ đối diện nhau; những bức tranh tồi đóng khung rất sang treo đầy tường; và giữa những cột, trước mỗi lỗ cửa hình cánh cung nhìn ra các gian hàng, có bày những chậu sành Ý trồng cây xanh cao. Cả một công chúng im lặng quây quanh bàn ngổn ngang những báo chí, và giấy mực. Có những bà tháo găng, viết thư trên những giấy có dấu hiệu nhà hàng mà họ lấy bút gạch xóa tiêu đề đi. Vài ông, ngả người sâu trong ghế bành, đọc báo. Nhưng có nhiều người ở đó mà chẳng làm gì cả: những ông chồng đợi vợ thả đi các gian hàng, mấy thiếu phụ kín đáo rình đón nhân tình, những bậc bố mẹ bị ký thác như ở nơi treo áo để đến lấy lúc ra về. Và đám dân đó ngồi ẻo lả, nghỉ ngơi, đưa mắt nhìn qua các lỗ cửa đến những chiều sâu của các hàng lang và gian hàng lớn, từ đó tiếng người xa xa vẳng tới, giữa tiếng ngòi bút đưa khe khẽ và tiếng sột soạt của tờ báo.

- Kìa! Bà chị đấy à! - Bà Bourdelais nói - Tôi không nhận ra bà chị nữa.

Bên cạnh mấy đứa trẻ, một bà vùi đầu vào những trang tạp chí. Đó là bà Guibal. Bà ta hình như bực mình về cuộc gặp gỡ. Nhưng bà bình tĩnh lại ngay, và nói rằng bà lên ngồi nghỉ một tí, để thoát khỏỉ chen chúc ở đám đông. Và, khi bà Bourdelais hỏi bà có phải đến để mua sắm không thì bà ta trả lời với vẻ uể oải, khép mí mắt lại để che giấu tham lam ích kỷ trong con mắt nhìn:

- Ô! Không... Trái lại, tôi đem trả lại hàng. Phải, những cái màn cửa mà tôi không vừa lòng. Nhưng mà đông quá, tôi phải chờ để vào gian hàng.

Bà ta chuyện trò, cho rằng phương thức trả lại hàng rất là thuận tiện; trước kia, bà chẳng mua bao giờ, còn bây giờ thì đôi khi cũng bị cám dỗ. Sự thật là bà ta mua năm thứ thì trả lại bốn, bà bắt đầu nổi tiếng ở các quầy hàng, vì cách mua bán kỳ lạ, họ đánh hơi thấy bà mãi mãi bất bình để đem trả lại từng món hàng một, sau khi giữ ở nhà nhiều ngày. Nhưng bà ta vừa nói mà vừa không rời mắt khỏi cửa phòng khách; và bà có vẻ nhẹ mình khi bà Bourdelais quay về phía các con để giải thích ảnh cho chúng. Hầu như cũng lúc đó ông De Boves và Paul de Vallagnosc bước vào. Ông bá tước, làm ra vẻ dẫn chàng trai đi thăm cửa hàng mới, ông liếc nhanh con mắt trao đổi với bà ta; rồi bà ta lại vùi đầu đọc báo, y như bà không trông thấy ông.

- Kìa! Paul! - Có người nói đằng sau mấy ông kia.

Đó là Mouret, đang đi, kiểm tra một lượt các nơi. Họ bắt tay nhau, và anh hỏi ngay:

- Bà nhà ta có hạ cố đến không?

- Trời! Không, - Bá tước đáp - mà bà ấy rất tiếc. Bà ấy đau, chà! Chẳng có gì hệ trọng.

Nhưng đột nhiên ông ta giả bộ trông thấy bà Guibal. Ông liền rời chỗ để đến gần, còn hai ông kia thì chỉ chào bà ta từ xa. Bà ta cũng làm cái trò ngạc nhiên. Paul mỉm cười; rốt cuộc anh ta hiểu ra, anh khẽ kể cho Mouret nghe làm thế nào mà anh gặp bá tước ở phố Richelieu, ông ta cố tránh anh và rồi có ý nghĩ kéo anh tới Hiệu Hạnh phúc, lấy cớ là nhất thiết phải đi xem nơi đây. Từ một năm nay, cái bà đó ra sức bòn rút của ông ta tiền bạc và thú vui, mà không viết thư bao giờ, chỉ hẹn hò ở những nơi công cộng, nhà thờ, nhà bảo tàng, cửa hiệu để thông đồng với nhau.

- Tôi xem hình như ở mỗi cuộc hẹn hò, họ thay đổi buồng khách sạn - Chàng trai nói khẽ - Tháng trước ông ta đi thanh tra, cứ hai ngày ông ta lại viết cho vợ một bức thư, từ Blois, từ Libourne, từ Tarbes; thế mà tôi tin chắc rằng đã trông thấy ông ta vào một nhà trọ tư sản ở Batignolles... Mà trông kìa! Trước mặt bà ta trông ông ấy thật đẹp, với vẻ chững chạc của quan chức! Nước Pháp xưa! Anh bạn ạ, nước Pháp xưa.

- Thế còn việc cưới xin của cậu? - Mouret hỏi.

Paul, không rời mắt khỏi bá tước, trả lời rằng họ vẫn chờ cho một bà cô chết đi. Rồi, vẻ đắc thắng:

- Cậu thấy, hả? Ông ấy cúi xuống và khẽ dặn bà ta một địa chỉ. Bà ta thì nhận với vẻ mặt đức hạnh trần đời: cái bà tóc đỏ hoe tế nhị, vẻ vô tâm này thật là một phụ nữ ghê gớm... À này, cửa hàng cậu tuyệt đấy!

- Chà! - Mouret mỉm cười nói - Các bà này mà vào đây chẳng phải ở nhà mình mà là ở nhà họ.

Rồi anh bông đùa. Tình yêu như con chim én, đem lại hạnh phúc cho mọi nhà. Cố nhiên, anh biết họ lắm, những cô gái sục sạo các quầy hàng, những bà ngẫu nhiên gặp một bạn trai; nhưng nếu họ không mua thì họ cũng làm cho đông người và làm ấm cửa hàng. Vừa nói chuyện anh vừa dẫn bạn học cũ đi, anh đặt anh ta ở ngưỡng cửa phòng khách, trước gian lớn trung tâm, với những gian nối tiếp nhau trải ra dưới chân họ. Đằng sau họ, phòng khách vẫn giữ vẻ tĩnh mịch của nó với những tiếng ngòi bút khẩn trương viết và tiếng báo sột soạt. Một ông già ngủ ngay trên tờ báo Moniteur. Ông De Boves ngắm tranh, với ý đồ rõ ràng đánh lạc con rể tương lai vào đám đông. Và giữa cảnh yên tĩnh đó, duy bà Bourdelais làm vui lũ trẻ ầm ĩ như ở xứ sở bà chinh phục được.

- Cậu xem đấy, họ ở nhà họ. - Mouret vừa nhắc lại, vừa khoát tay chỉ đám đông phụ nữ chật ních ở các gian hàng.

Đúng lúc, bà Desforges vừa xuýt bỏ lại áo măng-tô giữa đám đóng, rốt cuộc vào được và đi ngang qua phòng lớn thứ nhất. Rồi, tới gian hàng lớn ở giữa, bà ngước mắt lên. Thật như trung tâm nhà ga, xung quanh quầy lan can của hai tầng gác, ngang dọc những cầu thang treo, cầu bay. Cầu thang sắt lượn hai vòng, phô bầy đường cong táo bạo, tăng số cầu thang; cầu bay lao trong không chạy thẳng, rất cao; và cả đám sắt kết hợp ở đó, dưới ánh sáng trắng nhờ của những trần kính, một kiến trúc nhẹ nhàng, một kiểu ren phức tạp qua đó ánh sáng lọt vào, sự thể hiện một lâu đài mơ mộng của thời hiện đại, một tháp Babel [4] chồng chất những tầng gác, khuếch trương các phòng, mở ra những khoảng nhìn lên các tầng khác và những phòng khác, đến vô cùng. Vả chăng sắt ngự trị khắp nơi, viên kiến trúc sư trẻ tuổi đã có sự trung thực và can đảm không cải trang nó dưới một lớp sơn giả làm đá hay gỗ. Ở bên dưới, để khỏi làm hại đến hàng hóa, trang trí có mức độ với những khoảng lớn bằng phẳng, màu nhàn nhạt, rồi, sườn sắt càng lên cao, những đầu cột càng trở nên phong phú, những đầu đinh tán thành hình những bông hoa, những chân quỳ và những trụ chạm trổ phong phú; cuối cùng ở trên cao, màu sơn rực rỡ, xanh ve và đỏ, giữa vàng vung vãi, vàng từng đợt, vàng nở rộ, cho đến trần kính với những kính tráng men vàng dát vàng. Dưới hành lang có mái, gạch để lộ trên vòm cũng tráng những màu sặc sỡ. Nghệ thuật ghép hình và đồ sành cũng được đưa vào trang trí, khiến cho những trụ ngạch vui mắt, với những nét tươi làm sáng lên vẻ nghiêm trang của toàn bộ; còn những cầu thang, với lan can bọc nhung đỏ, có ghép một vành đai cắt bằng sắt mài, bóng lên như thép của một bộ áo giáp.

Mặc dù đã biết sự bố trí mới, bà Desforges vẫn đứng lại, bàng hoàng trước cảnh hoạt động náo nhiệt hôm đó ở gian trung tâm rộng mênh mông. Ở dưới, chung quanh bà, đám đông như dòng nước xoáy liên tục, mà cả hai luồng ra và vào kéo dài tới tận gian hàng tơ lụa: đám đông vẫn còn rất hỗn tạp, tuy rằng, về quá trưa, các bà sang trọng đến nhiều hơn, giữa những bà tiểu tư sản và nội trợ: nhiều bà bận đồ tang với khăn trùm mặt lớn, vẫn những vú em lạc lối khuỳnh rộng tay để che chở lũ trẻ nhỏ. Và cả cái biển người đó, những chiếc mũ sặc sỡ, những đầu tóc trần, màu hung hay màu đen, cuồn cuộn từ đầu này đến đầu kia gian phòng, lộn xộn và mờ nhạt giữa đám vải vóc rực sáng rung rinh. Ở khắp nơi, bà Desforges chỉ nhìn thấy những chiếc biển lớn, với chữ số to, làm thành những vệt thô kệch nổi bật trên những tấm vải màu tươi rói, lụa mượt mà, len sẫm. Từng chồng băng gãy nhọn, flanelle làm thành bức tường nhô ra như mũi đất cao, khắp nơi những tấm gương khiến cho gian hàng lùi xa, soi bóng hàng bầy và từng mảng công chúng, những bộ mặt lộn ngược, những bả vai và cánh tay cụt một nửa; trong khi đó ở bên trái bên phải, hai bên hành lang mở ra những khoảng trống, hàng trắng như những vung tuyết, hàng áo mũ đan như những hốc sâu lốm đốm, cho tới những nơi xa xôi hẻo lánh ánh sáng lọt qua lỗ cửa kính nào đó, ở đây đám đông chỉ còn là một đám bụi người. Rồi, khi bà Desforges ngước mắt lên thì, dọc theo những cầu thang, trên cầu bay, quanh lan can của mỗi tầng gác là cả một đám dân đi lên liên tục và rì rầm như du hành trong không, giữa những đường cắt của bộ sườn kim loại đồ sộ vẽ hình đen trong ánh sáng tản mạn của mặt kính tráng men. Những đèn treo lớn thếp vàng từ trần thả xuống; la liệt nào thảm, nào lụa thêu, nào vải dát vàng buông rủ và cờ rực rỡ căng trên bao lơn; từ đầu nọ sang đầu kia đăng-ten phơ phất, mousseline phập phồng, tơ lụa chiến thắng, những tượng người giả nửa thân mang áo được tôn lên, và bên trên đám hỗn tạp đó, tít trên cao, gian bán giường cheo leo, bầy những giường sắt nhỏ có đệm căng màu trắng, như một buồng ngủ nhà trọ, bâng khuâng trong tiếng dậm chân của khách hàng ở những gian hàng càng lên cao càng vắng vẻ.

- Bà muốn mua nịt tất rẻ? - Một nhân viên bán hàng mời bà Desforges khi thấy bà đứng yên - Toàn to, hăm chín xu.

Bà không thèm trả lời. Chung quanh bà những lời giới thiệu hàng the thé càng bừng bừng. Nhưng bà muốn tìm hướng. Két của Albert Lhomme ở bên trái; hắn nhận ra bà ta và dám nở một nụ cười hòa nhã, không chút vội vàng giữa cả lô hóa đơn vây quanh, trong khi đó, đằng sau hắn, Joseph quần quật với hộp dây không kịp gói hàng. Bấy giờ bà nhận ra hướng, gian tơ lụa phải ở trước mặt bà. Nhưng mất mười phút bà mới tới nơi vì người càng đông lên. Trên không, ở đầu các sợi chỉ vô hình, những quả bóng đỏ càng nhiều hơn, chụm lại thành những đám mây hồng nhẹ nhàng trôi ra phía các cửa, tiếp tục đổ ra khắp Paris, và bà ta phải cúi đầu dưới bóng bay khi lũ trẻ xin thả lên với sợi chỉ quấn ở bàn tay nhỏ của chúng.

- Sao, thưa bà, bà cũng chịu khó tới! - Bouthemont vui vẻ la lên khi trông thấy bà Desforges.

Bây giờ viên quầy hàng trưởng, được chính Mouret giới thiệu tới nhà bà, đôi khi cũng tới đó uống trà. Bà thấy anh ta tầm thường, nhưng rất hòa nhã, chất người sung huyết mà bà thấy là lạ hay hay. Vả lại, bữa trước, anh ta đã thẳng thừng kể câu chuyện trai gái giữa Mouret và Clara, không tính toán, chỉ do ngu ngốc của chàng trai thô bạo thích cười nhộn; thế là, day dứt vì ghen tuông, giấu nỗi lòng bị tổn thương dưới vẻ kiêu kỳ, bà ta đến để biết rõ cô gái đó, một cô bán hàng ở quầy may sẵn, anh ta chỉ nói thế thôi mà không chịu nói rõ tên.

- Bà có muốn gì ở quầy chúng tôi không?

- Tất nhiên là có rồi, nếu không tôi đã chẳng đến... Ông có thứ lụa mỏng làm foulard [5] đeo buổi sáng không?

Bà hy vọng anh ta cho biết tên cô gái, vì nhất thiết bà muốn trong thấy cô ta. Lập tức anh gọi Favier; và anh trở lại nói chuyện với bà, trong khi chờ đợi gã bán hàng phục vụ xong một bà khách, đúng là cái “bà xinh đẹp”, con người đẹp tóc hung vàng mà cả quầy thỉnh thoảng vẫn nói tới, nhưng không biết gì về cuộc đời, thậm chí cả tên bà ta nữa. Lần này thì bà ta bận đồ đại tang. Kìa! Bà ta để tang ai vậy, chồng hay là cha? Chắc không phải cha vì nếu thế bà phải rầu rĩ hơn. Như vậy đó chẳng phải một cô gái trăng hoa, như người ta đồn, bà ấy có chồng thật sự. Tuy nhiên, trừ phi là bà để tang mẹ. Trong mấy phút, mặc dù bận tíu tít, quầy hàng vẫn trao đổi những giả thuyết.

- Mau lên ông ơi, khó chịu quá! - Hutin la với Favier, anh này vừa dẫn khách hàng ra két trở về - Khi nào có cái bà ấy là ông cứ lai rai... Bà ấy thì cóc biết đến ông.

- Không bằng tôi cóc biết bà ấy. - Tay bán hàng mếch lòng đáp.

Nhưng Hutin đe báo cho ban giám đốc, nếu anh ta không tôn trọng khách hàng hơn. Hắn trở thành ghê gớm, nghiêm khắc đến riết róng, từ khi quầy hàng vào hùa để đưa hắn lên thay chân Robineau. Thậm chí hắn trở nên rất khó chịu, sau những lời hứa hẹn đối đãi thân tình để mua chuộc đồng nghiệp, đến mức giờ đây họ ngấm ngầm ủng hộ Favier chống lại hắn.

- Thôi, ông đừng cãi nữa - Hutin lại nghiêm khắc nói - Ông Bouthemont yêu cầu ông lấy foulard, hoa thật sáng.

Ở giữa gian hàng có trưng bầy tơ lụa mùa hè làm cả gian lớn sáng lên một ánh bình minh, như mặt trời mọc giữa những màu sắc tinh tế nhất của ánh sáng, màu hồng nhạt, màu vàng non, màu lơ trong vắt, cả giải cầu vòng phấp phới. Đó là lụa foulard mịn như mây lụa chéo go. Ấn Độ nhẹ hơn lông từ các cây bay ra, lụa vẽ Bắc Kinh mượt như làn da mịn của trinh nữ Trung Quốc. Lại còn có pongée Nhật Bản, tussor và corah Ấn Độ, không kể hàng tơ nhẹ của ta, lụa sọc màu, lụa carô nhỏ, lụa giả có hoa, đủ mọi thứ hoa tân kỳ làm người ta nghĩ đến mấy bà ăn mặc diêm dúa đi dạo buổi sáng tháng Năm, dưới những cây lớn ở vườn hoa.

- Tôi lấy thứ này, hàng Louis XIV vẽ cụm hồng. - Cuối cùng bà Desforges nói.

Và, trong khi Favier đo vải, bà ta lần cuối cùng cố mời Bouthemont đứng cạnh bà.

- Tôi lên gian may sẵn bây giờ để xem măng-tô du lịch... Cái cô bán hàng mà ông nói ấy tóc hung phải không?

Viên quầy hàng trưởng đâm lo vì bà ta nài nỉ mãi, nên chỉ mỉm cười. Nhưng vừa lúc đó, Denise đi qua. Cô vừa trao cho Liénard, ở quầy len mérinos, bà Boutarel cái bà ở tỉnh lẻ, lên Paris mỗi năm hai lần để vung khắp các quầy hàng hiệu Hạnh phúc tiền mà bà ta xén cắt vào chi tiêu nội trợ. Lúc đó, thấy Favier đã cầm chiếc foulard của bà Desforges, Hutin, muốn ngăn trở anh ta, liền hãm anh ta lại.

- Không cần, để cô đây làm ơn dẫn bà đi.

Denise bối rối, sẵn lòng nhận gói hàng và phiếu trả tiền. Cô không thể gặp mặt đối mặt với chàng trai mà không cảm thấy nỗi xấu hổ, vì hắn như nhấc cô một lỗi lầm xưa. Tuy nhiên, cô cũng chỉ là có lỗi trong ước mơ.

- Ông cho tôi biết, - Bà Desforges hỏi khẽ Bouthemont - có phải cái cô ả vụng về này không? Thế ra ông ấy đã cho cô ta trở lại?... Mà chính cô này lại là người trong chuyện ấy!

- Có thể. - Viên quầy hàng trưởng đáp, miệng vẫn mỉm cười, và nhất quyết không chịu nói sự thật.

Bấy giờ, Denise đi trước, bà Desforges chậm chạp lên cầu thang. Cứ vài giây bà ta lại phải dừng lại để khỏi bị sóng người đi xuống lôi cuốn theo. Trong sự rung chuyển sống động của toàn ngôi nhà, những gióng sắt dưới chân cũng lay mạnh, như thể run lên trong hơi thở của đám đông. Ở mỗi bậc thang, một tượng người giả, đứng vững, bất động phô trương một thứ quần áo, trang phục, bành tô, áo ngủ; Người ta tưởng đâu hai hàng lính ở một cuộc diễu binh thắng trận nào đó, với chiếc cán gỗ nhỏ y như cán dao găm, cắm sâu vào vải tuyết đỏ, làm chảy máu nơi vết cứa ở cổ.

Bà Desforges rốt cuộc lên tới gác một, vừa lúc một đợt xô dẩy mạnh hơn những đợt khác buộc bà phải đứng yên một lúc. Bây giờ ở dưới chân bà là những gian hàng tầng dưới nhà, cả đám đông mua hàng tràn khắp mà bà vượt qua. Đây là một cảnh tượng mới, những đầu người nhìn thâu tóm như biển cả, che lấp những yếm áo, lúc nhúc như hoạt động của một tổ kiến. Những tấm biển trắng chỉ còn là những nét mỏng, những chồng băng bẹp dí, mũi đất flanelle trở thành bức tường hẹp chia cắt gian hàng, còn những thảm và lụa thêu chăng trên các bao lơn bây giờ rủ ở dưới chân bà như những lá cờ rước treo dưới giảng đài nhà thơ. Phía xa bà trông thấy những góc hành lang bên, như từ sườn cao của một gác chuông người ta nhận ra những góc phố xung quanh, với người qua lại như những vật đen cử động. Nhưng cái làm bà ta ngạc nhiên đặc biệt, khi mắt bà đã mỏi mệt vì bị chói lòa bởi màu sắc rực rỡ tán loạn, đó là, lúc bà khép mí mắt lại, bà càng có cảm giác về đám đông hơn qua tiếng rạt rào như nước triều dâng và qua hơi người nóng ấm tỏa ra. Một làn bụi mỏng từ sân bay lên sặc mùi phụ nữ, mùi quần áo lót và gáy, mùi váy và tóc, một mùi thấm thía, xâm nhập, nó như mùi hương trầm của ngôi đền này đựng lên để tôn thờ thân hình họ.

Trong lúc đó, Mouret đứng trước phòng đọc sách, cùng với Vallagnosc, hít thở cái mùi đó, say sưa vì nó, và lặp lại:

- Họ ở nhà trọ, mình biết có những bà ở đây cả ngày, ăn gatô và viết thư từ... Mình chỉ còn lo chỗ ngủ cho các bà.

Lời bông đùa ấy làm cho Paul mỉm cười, anh ta, với mối ưu phiền của tư tưởng bi quan, vẫn thấy cái hung hăng vì chuyện xống áo của đám người đó là ngu ngốc. Khi anh ta đến bắt tay bạn học cũ, anh bỏ đi hầu như bất bình vì thấy bạn sống quá say sưa giữa đám dân đỏm dáng của mình. Liệu có cô nào trong bọn họ, với đầu óc và trái tim trống rỗng, sẽ mách anh sự ngu xuẩn và vô vị của cuộc đời? Thì đúng là hôm đó, Octave hình như mất cái thăng bằng thoải mái của anh, anh là người quen thổi nhiệt tình cho khách hàng với vẻ duyên dáng điềm nhiên của tay ảo thuật, thế mà anh lâm vào cơn cuồng nhiệt nhóm lên dần dần ở các gian hàng. Từ lúc anh trông thấy Denise và bà Desforges leo trên cầu thang lớn, anh nói to hơn, vô tình mà múa may; và, vẫn giả bộ không quay đầu về phía họ, lòng anh càng bừng bừng khi cảm thấy họ đến gần. Mặt anh khởi sắc, cặp mắt anh có chút gì là sự mê mẩn cuống cuồng thường thấy, chập chờn dai dẳng ở con mắt khách mua hàng.

- Họ phải xoáy của cậu dữ lắm. - Vallagnosc lẩm bẩm, khi anh ta thấy những vẻ gian giảo trong đám đông.

Mouret dang rộng hai tay.

- Anh bạn ơi, quá sức tưởng tượng.

Và hăm hở, phấn chấn vì có chuyện để nói, anh đưa ra vô số những chi tiết, kể những sự kiện, phân chia ra thành từng loại. Trước hết, anh nói về những kẻ cắp chuyên nghiệp, bọn này gây thiệt hại ít thôi và cảnh binh biết chúng hầu hết. Rồi đến những kẻ cắp vì thói cuồng si, một sa đọa của thèm muốn, một bệnh tâm thần mới mà một thầy thuốc trị bệnh điên đã phân loại, khi nhận thấy đó là kết quả ác tính của sự cám dỗ do các cửa hàng lớn gây nên. Cuối cùng là những bà có chửa ăn cắp một cách chuyên biệt: chẳng hạn ở một người, cảnh binh đã phát giác hai trăm bốn mươi tám đôi găng hồng, xoáy ở khắp các quầy hàng Paris.

- Thì ra vì thế mà phụ nữ ở đây có những con mắt đến kỳ! - Vallagnosc khẽ nói - Tôi trông họ có vẻ mặt tham lam và xấu hổ của những con vật rồ dại... Thật là một trường học thật thà ngộ nghĩnh!

- Chà! - Mouret đáp - Đuổi họ về nhà cũng chẳng ăn thua, thế mà không nhẽ cứ để mặc họ giấu hàng của mình trong áo măng-tô mang đi... Mà lạ là những bà cực kỳ danh giá. Tuần trước bọn mình có chuyện với bà chị một dược sĩ và vợ một vị cố vấn Tòa án. Cũng phải cố gắng dàn xếp chuyện đó thôi.

Anh ngừng lời để chỉ viên thanh tra Jouve chính lúc đó đang theo dõi một bà có mang, ở quầy băng bên dưới. Người đàn bà đó, bụng to tướng rất đau vì bị công chúng xô đẩy, có một bà bạn đi theo chắc là để bảo vệ bà kia khỏi những va chạm quá mạnh, và cứ mỗi lần bà ta dừng lại trước một gian hàng, Jouve không rời mắt bà, trong khi bà bạn đứng bên lục lọi thoải mái những ngăn hàng.

- Ồ! Hắn sẽ tóm được thôi, - Mouret lại nói - hắn biết hết mọi mánh khóe của họ.

Nhưng giọng nói anh run lên, anh cười gượng gạo. Cuối cùng, Denise và Henriette, mà anh không ngừng theo đó, đã tới sau anh, sau khi phải rất chật vật mới ra khỏi đám đông. Và anh quay lại, chào bà khách hàng một cách kín đáo như một người bạn, không muốn làm mang tiếng một phụ nữ khi hãm chân họ lại giữa đám đông người. Thế nhưng, bà này cảnh giác, nhận ra rất rõ con mắt anh nhìn bao trùm Denise trước tiên. Chắc chắn rồi, cô gái này là tình địch mà bà ta đã tò mò muốn đến xem mặt.

Ở gian hàng may săn, các cô bán hàng rối tít mù. Hai cô đã bị ốm, còn bà Frédéric, quầy hàng phó, đã thản nhiên xin thôi việc, hôm trước bà ra két để thanh toán, từ bỏ hiệu Hạnh phúc một cách đột ngột, y như bản thân hiệu Hạnh phúc ruồng bỏ nhân viên của họ. Từ buổi sáng, trong cơn sốt bán hàng, người ta chỉ bàn tán mỗi chuyện đó. Clara, được giữ lại ở quầy hàng do chuyện vớ vẩn của Mouret, cho cái việc đó là “bảnh”: Marguerite thì kể chuyện Bourdoncle tức giận; còn bà Aurélie thì, phật ý, tuyên bố rằng đúng là bà Frédéric ít ra phải báo trước cho bà ta biết, vì không ai hiểu được một sự giấu diếm như vậy. Tuy bà này chẳng bao giờ tâm sự với ai, người ta ngờ rằng bà ta bỏ ngành tân phẩm để lấy tay chủ một nhà tắm phía chợ lớn.

- Bà muốn một áo măng-tô du lịch, phải không ạ? - Denise hỏi bà Desforges sau khi mời bà ta ngồi.

- Phải. - Bà này đáp gọn lỏn, cố ý tỏ ra xấc xược.

Gian hàng được bố trí lại với vè nghiêm trang phong phú, với những tủ cao bằng gỗ sồi chạm, những tấm gương rộng như pannô, một chiếc thảm giả nhung đỏ làm dịu tiếng chân dậm liên tục của khách hàng. Trong khi Denise đi tìm măng-tô du lịch, bà Desforges nhìn xung quanh, thấy bóng mình trong một tấm gương thế là bà ngồi ngắm mình. Thì ra bà đã già rồi, người ta lừa bà để kiếm bất cứ cô gái nào? Tấm gương soi toàn bộ gian hàng với cảnh náo nhiệt của nó; nhưng bà ta chỉ trông thấy bộ mặt tái nhợt của mình, bà không nghe thấy Clara, ở phía sau bà, đang kể Frédéric, cái cách bà này đi lươn, sáng và chiều, xuyên qua đường Choiseul, để làm người ta tưởng bà ta ở đâu bên phía tả ngạn.

- Đây là những kiểu mới nhất của chúng tôi - Denise nói - Chúng tôi có nhiều màu.

Cô bầy ra bốn năm chiếc măng-tô. Bà Desforges nhìn một cách khinh khỉnh; và cứ mỗi chiếc đưa ra bà lại càng thêm khe khắt. Tại sao đặt những nếp này làm cho áo bó lại? Còn chiếc này, vai vuông, cứ ngỡ như bị nhát rìu, phải không nào? Mất công đi du lịch, chẳng ai ăn mặc như lính tẩy [6].

- Cho xem thứ khác, cô ơi.

Denise giở áo ra, rồi lại gấp lại, cố giữ để không có một cử chỉ bực mình. Và chính thái độ bình tĩnh kiên trì đó càng làm cho bà Desforges thêm tức. Mắt bà ta vẫn liên tục quay về tấm gương ở trước mãt. Bây giờ thì bà nhìn trong đó thấy mình đứng bên cạnh Denise, và bà so sánh. Có thể nào mà người ta lại ưng cái cô ả vớ vẩn này hơn mình? Bà ta nhớ lại, cô ả này chính là kẻ mà trước đây bà đã trông thấy lúc mới tập việc, với cái vẻ ngốc nghếch, vụng về như con bé chăn ngỗng vừa mới ở quê ở tỉnh. Chắc chắn là hôm nay cô ra có tư thế hơn, với vẻ kiêu hãnh và chửng chạc trong chiếc áo lụa. Nhưng mà, xoàng ơi là xoàng, tẻ ơi là tẻ!

- Để tôi lấy bà xem những kiểu khác. - Denise thản nhiên nói.

Khi cô quay lại, cảnh lúc nãy tái diễn. Rồi thì, cái dạ này nặng quá và chẳng ra gì. Bà Desforges quay đi, cất cao giọng, cố để cho bà Aurélie chú ý, hy vọng làm cho bà này quở mắng cô gái. Nhưng, từ khi trở lại, cô đã dần dần chinh phục được gian hàng, và bây giờ cô ở đây như ở nhà mình, thậm chí bà gian hàng trưởng công nhận cô có những đức tính hiếm hoi của người bán hàng, tính dịu dàng kiên trì, lòng vững tin tươi cười. Vì vậy bà Aurélie khẽ nhún vai, và không chịu can thiệp.

- Hay bà vui lòng chỉ rõ loại nào? - Denise lại hỏi, với sự kiên nhẫn lịch sự mà không gì làm được.

- Nhưng mà vì cô chẳng có cái gì hết! - Bà Desforges la lên.

Bà ta ngừng lời, ngạc nhiên cảm thấy có bàn tay đặt lên vai bà. Đó là bà Marty mà cơn điên tiêu tiền lôi cuốn đi khắp cửa hàng. Bà ta mua đến nhiều, từ cà vạt, găng thêu, và dù đỏ, đến nỗi nhân viên bán hàng cuối cùng vừa mới phải đặt lên một chiếc ghế gói hàng có cơ làm gẫy cánh anh ta, và anh ta kéo lê chiếc ghế đi trước bà, trên ghế chất đống những váy ngắn, khăn mặt, màn cửa, một chiếc đèn, ba chiếc thảm chùi chân.

- Này! - Bà ta nói - Bà chị mua áo măng-tô du lịch đấy à?

- Ồ! Trời ơi! Không - Bà Desforges đáp - Áo tồi quá.

Nhưng bà Marty vớ ngay được một chiếc măng-tô có sọc, mà bà thấy không đến nỗi tồi. Cô con gái là Valentine đã ngắm nghía rồi. Thế là Denise gọi luôn Marguerite để tống món hàng đi một kiểu áo năm ngoái, mà cô này, được bạn liếc mắt làm hiệu giới thiệu như một dịp đặc biệt. Khi cô ta cam đoan đã hạ giá đến hai lần, và từ một trăm năm mươi frăng rút xuống một trăm ba mươi, nay lại xuống còn một trăm mười, thì bà Marty không cưỡng nổi sự cám dỗ của hàng rẻ tiền. Bà ta mua luôn, nhân viên bán hàng đi theo bà, đặt lên chiếc ghế và cả đống phiếu trả tiền kèm theo hàng hóa.

Trong khi đó, đằng sau mấy bà, giữa cuộc bán xô đẩy, vẫn tiếp tục những lời dông dài về bà Frédéric.

- Bà ấy có ông nào, thật à! - Một cô bán hàng nhỏ bé mới vào làm, hỏi.

- Chàng nhà tắm mẹ kiếp! - Clara đáp - Phải coi chừng mấy bà góa kín miệng đến thế.

Bấy giờ, trong khi Marguerite biên phiếu áo, bà Marty quay đầu lại, và, mấp máy mắt chỉ Clara, bà thầm thì với bà Desforges:

- Bà chị biết không, ông Mouret vớ vẩn đấy.

Bà kia, ngạc nhiên, nhìn theo Clara, rồi lại nhìn sang Denise, và đáp:

- Không phải ả lớn, ả bé kia!

Và, vì bà Marty không dám quả quyết gì nữa, bà Desforges cất cao giọng nói thêm, với vẻ khinh miệt của bà lớn đối với ả hầu buồng:

- Có thể cả bé và lớn, ả nào muốn thì làm.

Denise nghe tiếng. Cô ngước cặp mắt trong trắng lên nhìn cái bà làm mếch lòng cô như vậy, mà cô không quen. Chắc hẳn đó là con người mà người ta đã nói với cô, cái bà bạn mà ông chủ vẫn gặp ở bên ngoài. Trong con mắt nhìn nhau, bấy giờ Denise tỏ vẻ tự trọng đến rầu rĩ, vẻ thật thà ngây thơ, đến mức làm cho Henriette đâm ngượng ngùng.

-