← Quay lại trang sách

Chương 14

Phố Mười tháng Chạp, mới toanh, với những ngôi nhà màu trắng như phấn và những dàn dáo cuối cùng của vài công trình xây chậm, chạy dài dưới ánh nắng tháng Hai trong sáng, xe ngựa đi lại tấp nập, nghênh ngang chiếm lĩnh, giữa dòng ánh sáng cắt ngang bóng tối ẩm ướt của khu phố Saint Roch; và, giữa phố La Michodière và phố Choiseul, cả đám đông tập họp, chen chúc nhau do một tháng quảng cảo làm họ ngóng đợi, mắt ngước lên, miệng há hốc trước cái bề mặt đồ sộ của hiệu Hạnh phúc các bà, khánh thành vào thứ Hai đó, nhân dịp triển lãm lớn hàng vải trắng.

Trong vẻ tươi vui của nó, đây là một cuộc triển khai rộng lớn kiến trúc hợp sắc, tôn lên bằng màu vàng, báo hiệu cảnh náo nhiệt và rực rỡ của việc buôn bán bên trong, chèo kéo con mắt như một cuộc bầy hàng đồ sộ làm rực sáng những màu tươi thắm nhất. Ở tầng nhà dưới, để không làm át những vải bầy ở tủ kính, trang trí có mức độ: một nền đá hoa xanh nước biển; các trụ góc và cột đỡ phủ đá hoa đen, màu tối được những khung ánh vàng làm sáng lên; ngoài ra là những tấm gương không tráng đặt trong khung sắt, toàn những gương dường như ở tận nơi sâu các hành lang và các gian lớn ra trước ánh ban ngày của đường phố. Nhưng, càng lên cao, hàng bầy càng cháy sáng những màu rực rỡ. Trụ ngạch tầng nhà dưới trải ra những hoa ghép, một tràng hoa đỏ và xanh lơ, luân phiên với những tấm đá hoa, trên khắc tên hàng hóa, chạy dài vô tận bao quanh khu nhà khổng lồ. Rồi, nền gác một, bằng gạch tráng men, cũng đỡ những tấm gương của những cửa rộng, cao đến tận trụ ngạch đắp hình huy hiệu các thành phố nước Pháp, thếp vàng và các môtip đất nung tráng men cũng màu sáng như nền bên dưới. Cuối cùng, tít trên cao, đầu tường như nở rộ mùa hoa nồng nhiệt của toàn bộ bề mặt, những hoa ghép và những đồ sành lại xuất hiện với màu sắc thắm đậm hơn, kẽm ống xối thếp vàng nổi lên, trên chỏm xếp hàng một dãy tượng, biểu trưng những thành phố kỹ nghệ và thủ công lớn, hình dáng thon thả nổi lên trên nền trời. Và những kẻ tò mò đặc biệt kinh ngạc trước cửa chính giữa, cao như khải hoàn môn, cũng trang trí bằng vô vàn hoa ghép, đồ sành, đất nung, đỉnh cao là một nhóm biểu tượng rực rỡ thếp vàng, người Phụ nữ bận quần áo với cả bầy thần Ái tình nhỏ, tươi vui, uốn lượn xung quanh.

Khoảng hai giờ, một nhóm trật tự giải tỏa đám đông và trông cho xe đỗ. Tòa lâu đài đã xây xong, ngôi đền dựng lên vì sự tiêu hoang điên cuồng của thời thượng.

Nó ngự trị, nó bao trùm dưới bóng của nó cả một khu phố. Vết thương bên sườn nó, do sự phá hủy căn nhà nát của Bourras, đã hoàn toàn lên da lành lặn, đến nỗi không tìm ra vết của mụn cơm cũ; bốn bề mặt trải dài theo bốn đường phố, không kẽ hở, với cái thế biệt lập ngang tàng. Ở bên hè kia, từ khi Baudu vào ở một nhà hưu dưỡng, hiệu Vieil Elbeuf đã đóng cửa quầy kín như một nhà mồ đằng sau những tấm cửa không ai tháo ra nữa; dần dần những bánh xe hàng làm bắn nước lên, những áp-phích che khuất chúng, gắn chúng lại, cả một làn sóng quảng cáo dâng lên, y như xẻng đất cuối cùng đắp lên nền thương nghiệp cũ kỹ; và giữa mặt cửa hàng chết đó, vấy bẩn vì khạc nhổ của đường phố, sặc sỡ những quảng cáo rách nát ầm ĩ của Paris, trải rộng như một lá cờ cắm trên một mảnh đất bị chinh phục, một tấm áp-phích mênh mông màu vàng, tươi rói, viết chữ cao hơn nửa thước [1] báo tin cuộc đem bán lớn của hiệu Hạnh phúc các bà. Người ta tưởng như gã khổng lồ, sau những cuộc khuếch trương liên tiếp, đâm xấu hổ và ghê tởm vì khu phố đen tối là nơi nó khiêm tốn sinh ra, và sau này nó bóp chết, vừa quay lưng để lại phía sau nó bùn nhơ của đường phố chật hẹp, phô bày bộ mặt hãnh tiến của nó ở phía con đường ồn ào và nắng chói chang của Paris mới. Giờ đây, như tranh quảng cáo chỉ rõ, nó béo tốt lên, như con yêu truyện cổ tích, với đôi vai đe dọa xua tan cả những tầng mây. Trước hết, ở bình diện thứ nhất bức tranh, phố Mười tháng Chạp, các phố La Michodière và Monsigny, đầy những hình đen nhỏ li ti, mở rộng ra vô chừng, như mở lối cho khách nàng toàn thế giới. Rồi đến chính những tòa nhà mênh mông một cách phóng đại, nhìn theo đường chim bay với hệ thống mái nhà hình dung những gian hàng lợp bên dưới, những sân lót kính ở đó người ta đoán ra những phòng lớn, cả mặt hồ vô tận gương và kẽm lấp loáng dưới ánh mặt trời. Phía xa, Paris trải ra, nhưng là một Paris thu nhỏ, bị con quái vật ngốn mất: những nhà, đứng bên cạnh với vẻ tiều tụy của nhà tranh, rải rác phía sau như đám bụi ống khói lờ mờ; những đền đài như tan ra, bên trái hai gạch vẽ ra Nhà thờ Đức Bà, bên phải một dấu hỏi hình dung Viện phế binh, và ở cuối, Đền danh nhân, e thẹn và mất hút, không to hơn chiếc thấu kính. Chân trời mờ bụi, chỉ là cái khung bị xem thương, cho tới những điểm cao Châtillon, đồng quê rộng lớn, những nơi xa tít bị chìm đắm biểu thị cảnh nô lệ.

Từ sáng, mỗi lúc thêm náo nhiệt. Chưa có một cửa hiệu nào khuấy động thành phố bằng quảng cáo ầm ĩ đến như thế. Bây giờ hiệu Hạnh phúc tiêu mỗi năm ngót sáu mươi vạn phrăng tiền áp phích, rao hàng, giới thiệt đủ loại, số danh bạ gửi đi lên tới bốn mươi vạn, người ta xé hơn mười vạn phrăng vải để làm mẫu hàng. Hẳn hoi một cuộc lấn chiếm những tờ báo, những bức tường, lỗ tai công chúng, như một chiếc kèn đồng quỷ quái không ngừng thổi ra bốn phương trái đất tiếng ồn ào của những cuộc đem bán lớn. Và, từ nay bề mặt của cửa hàng, mà người ta chen chúc nhau ở phía trước trở thành quảng cáo sinh động, với vẻ sang trọng sặc sỡ và thếp vàng của hiệu bách hóa, những tủ kính thênh thang để trình bầy cả bài thơ xống áo phụ nữ, những biển hàng nhan nhản, sơn, khắc, đẽo, từ các biển đá hoa ở tầng dưới, đến các lá tôn trên vành cung trên mái nhà, trải ra màu vàng của những vải căng kẻ tên cửa hiệu chữ màu thiên thanh, nổi bật trong bầu trời xanh. Để mừng cuộc khánh thành, người ta bầy thêm những đồ trần thiết, những cờ; mỗi tầng gác được trang hoàng những cờ lệnh, cờ hiệu mang huy chương các thành phố chính của nước Pháp; trong khi đó, trên cao tít, cờ nước ngoài trên ngọn cột phấp phới trong gió. Cuối cùng, ở bên dưới, triển lãm hàng trắng bầy trong các tủ kính, rực sáng chói lòa. Duy chỉ có hàng trắng, các bộ hành trang trọn vẹn, với bên trái, một núi khăn trải giường, bên phải, màn treo và mù soa xếp thành tháp nhọn, làm mỏi con mắt; và, giữa “hàng treo” ngoài cửa, những tấm vải gai, chúc bâu, mousseline, buông xuống từng lớp, như tuyết sụt lở, là những bức hình mặc quần áo dựng đứng, những tờ cartông màu lơ nhạt trình bày một cô dâu và một bà bận đồ khiêu vũ, cả hai cao lớn như người thật, bận đồ vải thật, đăng-ten và lụa, mỉm cười với bộ mặt vẽ sơn. Những dàn vô công rồi nghề quây vòng tròn tan họp liên tục; một thèm muốn dâng lên từ đám đông bàng hoàng.

Cái điều khiến người tò mò tập hợp quanh hiệu Hạnh phúc các bà càng đông, đó là một tai nạn mà cả Paris nói đến, hiệu Bốn Mùa bị cháy, cái cửa hiệu mà Bouthemont mở gần Viện ca kịch ngót ba tuần nay. Báo chí đăng đầy chi tiết: lửa bén vì một cuộc nổ hơi ban đêm, các cô bán hàng mặc sơ-mi hoảng chạy. Bouthemont dũng cảm cứu năm cô mang trên vai. Nhưng những thiệt hại lớn đã được giấu kín và công chúng bắt đầu nhún vai mà bảo rằng cách quảng cáo đó thì tuyệt vời. Nhưng lúc này, sự chú ý đổ dồn về phía hiệu Hạnh phúc, được khêu lên bằng những chuyện đồn đại, đến trở thành ám ảnh, vì những hiệu bách hóa đó mỗi ngày càng thêm quan trọng đối với đời sống công cộng. Cái tay Mouret ấy thật là tốt số! Paris chào đón ngôi sao của anh, chạy tới để trông thấy anh đứng vững, vì bây giờ lửa đã phải quét đi sự cạnh tranh dưới chân anh; và, người ta đã đoán trước số lãi của mùa bán hàng, người ta đánh giá làn sóng náo nhiệt mở rộng, tràn về phía cửa hiệu anh, do hiệu đối thủ bắt buộc phải đóng cửa. Có lúc, anh đã cảm thấy lo ngại, bối rối vì thấy một phụ nữ chống lại anh, cái bà Desforges ấy, mà sự nghiệp của anh có phần nhờ bà ta mới lên được. Cái kiểu làm tài chính tài tử của nam tước Hartmann, đầu tư vào cả hai công việc, cũng làm anh thêm bực. Rồi thì, anh đặc biệt bực mình vì đã không có ý nghĩ thần tình như Bouthemont: tay sành sỏi này vừa rồi chẳng đã xin được ban phúc cho cửa hiệu nơi linh mục nhà thờ Madeleine với cả đám tùy tùng tu sĩ của ông ta đi theo, một đám nghi lễ kỳ lạ, một đám rước tôn giáo long trọng diễu từ gian tơ lụa đến gian bán găng, Chúa sa vào xiêm áo và yếm khán phụ nữ; thế mà cũng chẳng ngăn được tất cả bốc cháy, nhưng cái đó có giá trị ngang hàng triệu lối quảng cáo, nó là đòn đánh mạnh vào đám khách hàng thượng lưu. Từ bữa đó, Mouret mơ ước đón Tổng giám mục.

Bấy giờ, ba giờ điểm trên chiếc đồng hồ đặt bên trên cửa vào. Cuộc chen chúc buổi quá trưa diễn ra với ngớt mười vạn khách hàng chết ngạt trong các hành lang và các gian hàng lớn. Bên ngoài, xe đỗ suốt từ đầu đến cuối phố Mười tháng Chạp; và phố Viện ca kịch, một đám đông khác chiếm nơi đường cụt, ở đó sẽ bắt đầu đại lộ tương lai. Xe hàng thường xen với xe song mã tư nhân, xà ích chờ đợi giữa đám bánh xe, ngựa xếp hàng hí lên, rung dây hàm thiếc lấp lánh dưới ánh nắng. Những dây nối đuôi luôn luôn thay đổi, giữa tiếng gọi của đám người hầu, súc vật xô đẩy tự chúng cũng siết chặt hàng, trong khi những xe mới đến luôn luôn bổ sung. Người đi bộ từng đoàn hoảng hốt chạy như bay vào những nơi trú, bờ hè đen kịt người biến hút theo con đường rộng và thẳng. Và một tiếng ầm ầm dâng lên giữa những ngôi nhà trắng, dòng người cuồn cuộn, bên trên là hồn Paris lan tỏa, một hơi thở lớn và êm mà mọi người cảm thấy cái vuốt ve mênh mông.

Trước một tủ kính bà De Boves, với cô con gái Blanche đi theo, cùng với bà Guibal nhìn bầy một đám bộ đồ may lược.

- Ồ! Bà chị xem kìa, - Bà ta nói - những bộ đồ vải, giá mười chín phrăng bảy nhăm!

Trong những hộp cartông, các bộ đồ gấp lại, một dải lụa thắt quanh, chỉ để phô ra những phụ sức, thêu xanh đỏ; và ở góc mỗi hộp có ảnh một người trẻ tuổi, vẻ như công chúa, mặc bộ đồ mới nguyên.

- Trời! Nó chẳng ra gì đâu! - Bà Guibal khẽ nói -Vào tay thì rách liền.

Bây giờ, hai bà trở nên thân nhau, từ ngày ông De Boves bị bệnh thống phong cột vào ghế. Bà phu nhân chịu đựng ba nhân tình, ưng để chuyện diễn ra trong nhà còn hơn, vì như thế bà có lợi được một ít tiền túi, những món tiền mà ông chồng làm ngơ cho bà cuỗm, vì bản thân ông cũng cần được bà bỏ qua.

- Nào ta vào đi - bà Guibal lại nói - Phải xem họ trưng bầy... Ông rể của bà hẹn bà ở trong đó phải không?

Bà De Boves không đáp, con mắt lơ đãng, vẻ chăm chú vào dãy xe nối đuôi, từng chiếc một mở cửa và thả khách hàng ra.

- Vâng - Cuối cùng Blanche nói, giọng ẻo lả - Anh Paul phải đón bọn cháu khoảng bốn giờ ở phòng đọc sách, khi anh ở bộ về.

Họ đã cưới từ một tháng nay, và Vallagnosc, sau ba tuần đi nghỉ ở miền Nam, vừa trở lại sở. Người thiếu phụ đó có vóc của bà mẹ, da thịt phốp pháp, vẻ như đẫy ra vì lấy chồng.

- Mà kìa, bà Desforges kia kìa! - Bà bá tước la lên, mắt nhìn một chiếc xe song mã đang dừng lại.

- Ồ! Thật ư? - Bà Guibal khẽ nói - Sau bao nhiêu chuyện đó... Bà ấy chắc đang còn khóc vì vụ cháy hiệu Bốn Mùa.

Nhưng đúng là Henriette. Bà ta trông thấy các bà này, tiến lên một cách vui vẻ, che giấu nỗi thất bại dưới phong cách thoải mái của người thượng lưu.

- Trời! Tôi muốn được xem tận nơi. Trăm nghe không bằng một nhìn, phải không?... Ồ bọn tôi với ông Mouret vẫn là chỗ thân, mặc dầu người ta bảo ông ấy tức giận từ khi tôi dính vào cái cửa hàng đối thủ... Tôi thì chỉ có một điều không tha thứ cho ông ấy, đó là ông ấy đẩy đến việc cưới xin, bà biết không? Gã Joseph với cô De Fontenailles mà tôi bảo trợ...

- Sao? Xong rồi à? - Bà De Boves ngắt lời - Gớm chết!

- Vâng, bà chị ạ, mà chỉ để đạp bọn ta xuống. Tôi biết ông ấy, ông ấy muốn bảo rằng lũ con gái nhà thượng lưu của chúng ta chỉ đáng lấy đám nhân viên phục vụ cửa hàng của ông ấy.

Bà ta hăng lên. Cả bốn người vẫn đứng ở bờ hè, giữa đám xô đẩy chỗ cửa vào. Tuy nhiên, dần dần bị sóng người lôi cuốn, họ chỉ còn buông mình theo dòng người như bị nhấc bổng lên khi qua cửa, mà không hay biết gì, họ nói chuyện càng to để nghe rõ. Bây giờ, họ hỏi nhau tin tức bà Marty. Người ta kể rằng cái ông Marty tội nghiệp, sau những cảnh xung đột trong gia đình, vừa mắc bệnh cuồng danh: ông ta vốc đầy tay của cải trên trái đất, ông ta moi rỗng những mỏ vàng, chất đầy những xe bò kim cương và đá quý.

- Cái nhà ông tội nghiệp! - Bà Guibal nói - Lúc nào cũng thật xơ xác, với vẻ khúm núm của người dạy học thuê!... Còn bà vợ!

- Bà ấy, bây giờ đang moi tiền một ông chú, - Henriette đáp - cái ông chú già tốt bụng, sau khi góa vợ, rút lui về ở nhà bà ấy... Mà, thế nào bà ấy chẳng tới đây, bọn ta sẽ gặp thôi.

Các bà bỗng sững lại vì ngạc nhiên. Trước mặt, các ngôi hàng trải ra, những ngôi hàng rộng nhất thế giới, như lời quảng cáo nói. Bây giờ, hành lang lớn trung tâm chạy suốt đầu này đến đầu kia, mở ra phố Mười tháng Chạp và phố Neuve Saint Augustin, còn bên phải và bên trái, như hai bên giáo đường nhà thờ, hành lang Monsigny và hành lang Michodière, hẹp hơn, cũng chạy thông dọc suốt hai phố. Từng chỗ, các gian lớn mở rộng những ngã tư, giữa khung sắt của cầu thang treo và cầu bay. Bây giờ người ta đảo lộn bố trí bên trong, hàng bán xon đặt ở phía phố Mười tháng Chạp, tơ lụa ở giữa, găng tay chiếm phía cuối, gian Saint Augustin; và, từ tiền đình danh dự mới, ngước mắt lên, vẫn thấy gian bán giường chuyển từ đầu này sang đầu kia gác hai. Con số to lớn những gian hàng lên tới năm mươi; nhiều gian, mới toanh, được khánh thành hôm đó; những gian khác trở nên lớn quá, chỉ phải đơn giản tách làm đôi để dễ bán hàng; và, trước sự tăng tiến liên tục của kinh doanh ngay nhân viên, trong mùa mới, cũng vừa phải đưa lên số ba nghìn bốn nhăm người.

Cái làm cho các bà dừng lại, đó là quang cảnh kỳ vĩ của cuộc trưng bầy hàng trắng lớn. Chung quanh các bà, trước hết có tiền đình, một gian rộng với những tấm gương sáng, lát họa ghép, ở đó hàng rẻ tiền chèo kéo đám đông hau háu. Rồi những hành lang chạy sâu, giữa một màu trắng toát, một khoảng trời bắc cực, cả một xứ sở tuyết, trải mênh mông những cánh đồng phủ da chồn trắng, chất đống những tảng băng sáng chói ánh mặt trời. Người ta lại thấy ở đây hàng trắng ở tủ kính bên ngoài, nhưng rực lên, đồ sộ cháy sáng từ đầu đến cuối con tàu to lớn, với ngọn lửa trắng bùng của một đám cháy đang hăng. Duy một màu trắng, hết thảy mặt hàng trắng của các gian hàng, loạn trắng, một tinh cầu trắng tỏa ánh cố định, thoạt đầu làm lóa mắt không phân biệt chi tiết, giữa màu trắng độc nhất đó. Không bao lâu, con mắt quen đi: bên trái, hành lang Monsigny chạy dài với vải gai và chúc bâu chất thành những mũi đất trắng, khăn trải giường, khăn mặt, mù-soa xếp thành những tảng đá trắng; còn ở hành lang Michodière, bên phải, với các gian tạp hóa, mũ áo đan và len dạ, thì trưng bầy những kết tạo trắng bằng khuy xà cừ, một cảnh trí lớn dựng bằng bít tất trắng, cả một gian phủ molleton trắng, từ xa rọi tới một đợt ánh sáng. Nhưng tiêu điểm ánh sáng tỏa ra đặc biệt từ hành lang trung tâm, với băng và khăn choàng, với găng tay và tơ Lụa. Các quầy hàng biến mất dưới màu trắng của tơ lụa và ruy-băng, găng tay và khăn choàng. Quanh các cột sắt nhỏ leo lên những băng xếp nếp mousseline trắng; từng đoan lại thắt những foulard trắng. Các cầu thang đều phủ vải trắng, vải may chần và vải chéo go luân phiên, chạy dài theo lan can, bao quanh các gian hàng, cho tới gác hai; và màu trắng leo lên đó chắp cánh, chen nhau và mất hút, như một đàn thiên nga bay. Rồi màu trắng rũ xuống từ những vòm cao như đám lông tơ rơi xuống, như làn tuyết to bông: chăn trắng, mền đắp chân trắng, treo cao, phấp phới, như những cờ phướn nhà thờ; những dải đăng-ten dài vắt ngang, như những đàn bướm trắng lơ lửng, xôn xao mà ngưng đọng, đăng-ten run rẩy khắp nơi, bay lượn như đàn con Đức bà Đồng Trinh trong bầu trời mùa hè, làm nhộn không trung bằng hơi thở màu trắng. Và, kỳ diệu, án thờ của cuộc sùng bái màu trắng đó là ở trên quầy hàng tơ lụa, trong gian lớn, một lều vải làm bằng màn trắng, từ lớp kính trần buông xuống. Mousseline, sa mỏng, đăng-ten thưa mỹ nghệ, chảy từng đợt nhẹ, còn những hàng tuyn thêu, hết sức phong phú, và những tấm lụa phương Đông, dát bạc dùng làm nền trang trí đồ sộ đó, có cái gì vừa như khám thờ, vừa như phòng thuê. Người ta tưởng đâu một chiếc giường trắng lớn, đồ sộ và tinh khôi, như trong truyện cổ tích, đang chờ nàng công chúa tuyết trinh, người sẽ phải đến một ngày nào đó, toàn quyền, với khăn trùm màu trắng của cô dâu.

- Ôi chao! Kỳ diệu! - Các bà đó nhắc - Phi thường!

Các bà mải mê vì bài ca màu trắng đó, mà bao nhiêu vải trong cửa hàng đều cất tiếng ca. Mouret chưa bao giờ làm cái gì quy mô đến thế, đây là sáng kiến của thiên tài trong nghệ thuật bầy hàng. Dưới những hàng trắng như sụt lở đó, trông vẻ ngoài bừa bộn của vải vóc, như moi từ các ngăn ra quăng bừa bãi ở đó, có một âm tiết điều hoa, màu trắng liên tiếp và triển khai với đủ mọi sắc thái, nảy sinh, lớn lên, nở ra với sự hợp tấu phức tạp của một nhịp đuổi bậc thầy, mà sự triển khai liên tục lôi cuốn mọi tâm hồn theo một đà bay mỗi lúc một mở rộng. Duy một màu trắng, mà không bao giờ vẫn màu trắng ấy, đủ mọi màu trắng, chen lấn nhau, đối chọi nhau, bổ sung cho nhau, đi tới bản sắc của ánh sáng. Nó khởi phát từ màu trắng đục của chúc bâu và của gai, màu trắng xỉn của flanelle và dạ; rồi đến nhung, lụa, xatanh, một phổ hệ đi lên, màu trắng dần dần sáng lên, kết thúc với những tia lửa nhỏ ở những vết rạn của nếp gấp; và màu trắng bay bổng ở những màn trong suốt, nhất là tuynh, mỏng tang, như nốt cùng cực và mất hút; còn ánh bạc của những tấm lụa Đông phương thì cất lời ca cao nhất, ở cuối nơi phòng khuê đồ sộ.

Trong khi đó, các ngôi hàng hoạt động, đám đông bao vây những cầu thang máy, người ta chen nhau ở quầy giải khát và phòng đọc sách báo, cả một quần dân du hành giữa những khoảng không phủ tuyết. Và đám đông như nhuộm màu đen, tưởng đâu những người trượt tuyết trên một mặt hố Ba Lan, trời tháng Chạp. Ở tầng dưới nhà, là một làn sóng sầm tối, náo động của nước triều rút, trong đó chỉ nhận ra những bộ mặt nhẹ nhõm, hoan hỉ của phụ nữ. Rồi ở các đường gẫy của cột kèo sắt, dọc các cầu thang, trên các cầu bay, là một cuộc leo bất tuyệt của những hình người nhỏ bé như lạc giữa những đỉnh cao phủ tuyết. Một hơi nóng nhà kính, ngột ngạt, làm sửng sốt trước những chiều cao băng giá đó. Trên trần nhà, thếp vàng vung vãi, những kính khảm vàng, và những cửa sổ hình hoa thị màu vàng tướng như một đợt nắng lóa lên trên đỉnh Alpes [2] của cuộc triển lãm hàng trắng lớn.

- Nào, - Bà De Boves nói - phải tiến lên chứ. Không thể đứng mãi đây được.

Từ lúc bà ta vào, viên thanh tra Jouve, đứng ở gần cửa, không rời mắt khỏi bà. Khi bà quay lại, bốn mắt gặp nhau. Rồi, khi bà lại ra đi, lão ta đã để bà đi trước một chút, và theo dõi bà từ xa, không ra vẻ quan tâm đến bà hơn nữa.

- Này, - Bà Guibal vừa nói vừa dừng lại trước két số một, giữa sự xô đẩy - những hoa violette kia, ý kiến ngộ đấy!

Bà ta nói đến món quà tặng mới của hiệu Hạnh phúc các bà, một ý kiến mà Mouret gây ầm ĩ trên báo chí, những bó hoa violette trắng, mua hàng ngàn từ Nice về và phân phát cho khách hàng, bất cứ ai mua một chút gì. Gần mỗi két, nhân viên phuc vụ mặc áo dấu đưa quà, dưới sự giám sát của một viên thanh tra. Và dần dần khách hàng mang hoa, cửa hàng nhan nhản những điểm trắng, các bà dẫn theo một mùi hoa thơm ngát.

- Ừ, - Bà Desforges, giọng ghen tuông, khẽ nói - ý kiến hay.

Nhưng, vừa lúc các bà định bỏ đi, thì họ nghe thấy hai nhân viên bán hàng bông đùa về hoa violette. Một gã cao gầy ngạc nhiên: thế ra đám cưới ông chủ với cô quầy hàng trưởng trang phục đã thành rồi à? Còn một gã béo lùn thì đáp chẳng ai biết bao giờ, nhưng hoa thì vẫn cứ mua.

- Sao! - Bà De Boves nói - Ông Mouret lấy vợ à?

- Tin đầu tiên đó - Henriette làm điệu dửng dưng đáp... Vả lại, thì cũng phải kết thúc ở đó chứ.

Bà bá tước đảo mắt nhìn bà bạn mới. Bây giờ, cả hai người hiểu tạo sao bà Desforges đến hiệu Hạnh phúc các bà, mặc dầu cuộc đoạn tuyệt có cọ sát. Chắc hẳn, bà ta bị khuất phục bởi nhu cầu không cưỡng được nhìn xem và đau khổ.

- Tôi ở lại đây với bà chị, - Bà Guibal bảo bà ta, tính tò mò ở bà thức dậy - Chúng ta sẽ lại gặp bà De Boves ở phòng đọc sách.

- Như vậy, phải đấy - Bà này tuyên bố - Tôi, tôi có việc ở gác một... Blanche, có đi không?

Và bà ta lên gác, cô con gái đi theo, trong khi đó viên thanh tra Jouve, vẫn theo sau, lão ta đi vòng một cầu thang khác để không cho bà ta chú ý. Còn hai bà kia thì mất hút trong đám đông dày đặc ở tầng dưới nhà.

Tất cả các quầy hàng, giữa cuộc bán hàng tíu tít, một lần nữa lại chỉ nói đến chuyện tình yêu của ông chủ. Câu chuyện, từ nhiều tháng nay làm bận tâm những viên thư ký hồ hởi về sự cưỡng lại bền bỉ của Denise, vừa đây bỗng nhiên dẫn tới một kịch biến hôm trước, người ta được tin rằng cô gái xin thôi việc ở hiệu Hạnh phức, mặc dầu Mouret khẩn khoản, lấy cớ rất cần được nghỉ ngơi. Và đủ mọi ý kiến được đưa ra: cô ấy đi hay không đi? Từ gian này sang gian khác, người ta cược một trăm xu, rằng Chủ nhật sau cô ấy đi. Những tay láu cá thách một bữa ăn, cho rằng cuối cùng sẽ là thiệp cưới; tuy nhiên, những kẻ khác, tin rằng cô đi, cũng chẳng liều bỏ tiền ra nếu không có lý do xác đáng. Điều chắc chắn là cô ấy có cái thế của người đàn bà được yêu mà từ chối; nhưng ông chủ, về phía mình, lại có thế ở tiền bạc, ở cảnh góa vợ thoải mái, ở lòng kiêu hãnh và một yêu cầu tối hậu có thể làm bực mình. Nhưng bên này cũng như bên kia đều nhất trí rằng cái cô bán hàng nhỏ bé ấy đã dẫn dắt sự việc với mưu thuật của một kẻ gian hùng tài ba, và cô ta giữ phần tối hậu, khi đặt giá hẳn với ông chủ. Lấy tôi, không thì tôi đi.

Thế nhưng, Denise không hề nghĩ tới những điều đó. Cô chưa bao giờ có một yêu cầu hay một sự tính toán. Và hoàn cảnh khiến cô quyết định ra đi chính lại là do những phán xét của mọi người về phẩm hạnh của cô, mà cô luôn luôn ngạc nhiên. Phải chăng cô đã muốn mọi sự như vậy? Phải chăng cô tỏ ra mưu mẹo, lẳng lơ, tham vọng? Cô đã tới đây một cách giản dị; cô là người đầu tiên lấy làm lạ rằng người ta có thể ưng cô như vậy. Bây giờ nữa, tại sao người ta lại xem như một sự khôn khéo ở việc cô quyết định bỏ hiệu Hạnh phúc? Thế mà sự việc thì thật là tự nhiên! Cô đâm ra khó chịu trong tâm thần, lo âu không chịu nổi, giữa những lời bàn tán luôn luôn tái diễn trong cửa hàng, những ám ảnh nồng cháy của Mouret, những cuộc đấu tranh với bản thàn, và cô ưng bỏ đi xa, vì cô sợ một ngày nào đó phải nhượng bộ và rồi ra sẽ hối hận suốt đời. Nếu như ở đó có một mưu thuật khôn khéo nào, thì cô không hay, cô tuyệt vọng tự hỏi làm thế nào để đừng có vẻ một kẻ đi kiếm chồng. Ý nghĩ về một cuộc cưới xin bây giờ làm cô cáu kỉnh, cô đã quyết định vẫn sẽ trả lời không, không mãi, trong trường hợp mà anh điên cuồng tới mức đó. Chỉ một mình cô phải đau khổ. Sự bức thiết phải chia tay khiến cô chảy nước mắt; nhưng cô tự lặp lại với mình, với lòng can đảm lớn, rằng phải như thế, rằng cô không thể còn thư thái, vui vẻ nếu cô hành động khác đi.

Khi Mouret nhận được đơn xin thôi việc, anh câm lặng và như lạnh lùng, với sự cố gắng để tự kiềm chế. Rồi, anh tuyên bố xẵng rằng anh cho phép cô suy nghĩ tám ngày, trước khi để cô làm việc dại dột như vậy. Sau tám ngày, khi cô trở lại vấn đề đó, tỏ ý nhất quyết xin thôi việc sau cuộc đem bán lớn, anh cũng không giận, anh làm cho ra lẽ; cô nhà nghèo, cô chẳng tìm đâu ra địa vị mà cô có ở cửa hàng anh. Thế cô đã nhìn thấy một chỗ nào khác chưa? Anh sẵn sàng cho cô những điều lợi mà cô mong được ở nơi khác. Và khi cô gái trả lời rằng cô không kiếm chỗ làm, cô định hãy về nghỉ một tháng ở Valognes, bằng tiền cô đã dành dụm được, thì anh hỏi có điều gì ngăn cô sẽ trở lại hiệu Hạnh phúc, nếu như chỉ vì gìn giữ sức khỏe mà cô phải bỏ đi. Cô im lặng, câu hỏi đó dày vò cô. Thế là, anh tưởng rằng cô đi tìm lại nhân tình, một người chồng cũng nên. Một buổi chiều cô đã chẳng thú thật rằng cô yêu một người nào đó sao? Từ lúc đó, anh mang trong lòng, như nhát dao đâm, lời thú nhận moi được trong một phút bối rối. Và nếu người đó lấy cô thì cô phải rời bỏ tất cả để theo hắn: điều đó giải thích sự ngang ngạnh của cô. Thế là hết, anh chỉ nói thêm, giọng lạnh như băng, rằng anh không giữ cô nữa, vì cô không thể giãi bày với anh những nguyên nhân thật sự của việc cô bỏ đi. Cuộc chuyện trò khổ tâm không giận dữ đó, càng khiến cô hoang mang hơn là cảnh dữ dội mà cô sợ.

Trong tuần Denise còn ở lại cửa hàng, Mouret vẫn giữ bộ mặt xanh xao khắc khổ. Khi anh qua các gian hàng, anh làm bộ không trông thấy cô; chưa bao giờ anh có vẻ thanh thoát hơn, cắm cúi vào công việc hơn; và người ta lại bắt đầu đánh cuộc, chỉ những kẻ táo bạo mới dám thách một bữa ăn về lá thiệp cưới. Song, dưới vẻ lạnh lùng, kiếm cớ ở anh đó, Mouret che giấu một cơn khủng hoảng bi thảm vì hoang mang và đau đớn. Những cơn hờn giận làm máu xông lên đầu: anh chỉ thấy máu, anh mê thấy mình ôm chặt Denise, giữ lấy cô, bịt miệng không cho kêu. Sau đó, anh muốn lý luận, anh tìm cách thực tiễn để ngăn không cho cô ra khỏi cửa, nhưng luôn luôn vấp phải nỗi bất lực, với mối điên cuồng vì sức mạnh và tiền bạc vô dụng của anh. Tuy nhiên, một ý kiến lớn lên giữa mọi dự kiến điên rồ, dần dần thắng thế, mặc dầu sự phản kháng của anh. Sau khi bà Hédouin qua đời, anh đã thề không tái giá, vì anh đã nhờ một phụ nữ mà gặp bước may đầu tiên, từ nay anh quyết rút tài sản của anh từ hết thảy mọi phụ nữ. Ở anh, cũng như ở Bourdoncle, có một niềm dị đoan cho rằng giám đốc một cửa hiệu tân phẩm lớn thì phải độc thân, nếu anh ta muốn giữ uy quyền người đàn ông đối với mọi ước muốn tản mát của đám dân phụ nữ khách hàng: một phụ nữ thâm nhập sẽ thay đổi không khí, xua đuổi những phụ nữ khác, khi mang hơi hướng của mình vào. Và anh cưỡng lại lôgich của sự việc, thà chết chứ không nhượng bộ, anh đâm ra có những cơn giận đột ngột đối với Denise, cảm thấy rõ cô là sự trả miếng, sợ mình quy xuống chịu thua trên đống bạc triệu của mình, bị đè bẹp như cọng rơm trước cái yếu tố đàn bà muôn thuở, ngày mà anh lấy cô. Rồi, dần dần, anh trở lại yếu mềm, anh bác bỏ mối hiềm kỵ của anh, tại sao mà run sợ? Cô dịu dàng đến thế, biết điều đến thế, khiến anh có thể phó mình cho cô mà không sợ hãi gì. Luôn luôn cuộc đấu tranh tái diễn trong bản thân anh bị dày vò. Lòng tự cao làm tấy vết thương, cuối cùng anh có phần mất trí khi nghĩ rằng, ngay cả khi anh chịu khuất phục cô vẫn có thể trả lời không, vẫn không, nếu như cô yêu một ai đó. Buổi sáng ngày đem bán lớn, anh vẫn chưa quyết định gì, mà hôm sau thì Denise ra đi.

Đúng ngày hôm đó, khi Bourdoncle vào buồng Mouret, khoảng lúc ba giờ, theo thói quen của hắn, hắn bất chợt thấy anh ngồi tì khuỷu tay trên bàn giấy, hai tay nắm lại che mắt, mê mệt đến mức hắn phải đặt tay vào vai anh. Mouret ngẩng bộ mặt đẫm nước mắt lên, hai người nhìn nhau, chìa ra bắt tay nhau, và đột nhiên siết chặt lấy nhau, hai con người đã từng cùng nhau chiến đấu nhiều phen trên thương trường. Vả chăng, từ một tháng nay, thái độ của Bourdoncle đã hoàn toàn thay đổi: anh ta chịu, khuất phục trước Denise, thậm chí âm thầm thúc đẩy ông chủ lấy vợ. Cố nhiên, anh ta vận động như vậy để khỏi bị quét bởi một thế lực mà bây giờ anh ta thừa nhận là mạnh hơn. Nhưng ngoài ra, có lẽ cũng có thể thấy trong đáy sâu của sự thay đổi đó, sự thức dậy của một tham vọng cũ, hy vọng sợ sệt và lớn lên dần dần đến lượt hắn sẽ xơi Mouret, người mà từ lâu hắn vẫn cong lưng phục tùng. Điều đó nhiễm vào không khí của cửa hàng, đó là cuộc đấu tranh sinh tồn, với những cuộc tàn sát liên tục làm cháy nóng cuộc bán hàng xung quanh hắn. Hắn bị lôi cuốn bởi sự vận động của cỗ máy, đâm ra muốn ăn người khác, với sự thèm khát, từ trên xuống dưới, biến kẻ gầy gò thành mồi cho kẻ béo tốt nuốt chửng.

Chỉ duy một nỗi sợ hãi mê tín, mê tín về số vận cho đến bây giờ ngăn hắn giơ nanh ra. Thế mà ông chủ trở lại thành trẻ con, sa vào một cuộc cưới xin ngu xuẩn, sẽ hết vận may, mất sự quyến rũ đối với khách hàng. Tại sao hắn lại lái anh ra khỏi cái đó? Khi mà rồi đây hắn có thể nắm được việc kế tục con người hết thời, rơi vào tay một người đàn bà đó. Vì vậy, với niềm xúc động của một cuộc chia tay, lòng thương xót về tình bạn cũ, hắn nắm chặt tay ông chủ mà nhắc lại:

- Nào, mạnh bạo lên, quỷ quái!... Lấy phắt cô ta đi để mà chấm dứt.

Mouret đã hổ thẹn vì giây phút yếu đuối. Anh đứng lên, anh phản đối:

- Không, không, thế thì xuẩn quá... Nào, ta đi quanh cửa hàng một lượt. Chạy lắm, phải không? Mình tin rằng ngày hôm nay sẽ tuyệt vời.

Họ đi ra, và bắt đầu cuộc thanh tra buổi quá trưa, giữa những gian hàng chật người. Bourdoncle đưa mắt liếc nhìn anh, lo lắng vì cái nghị lực cuối cùng đó, xem xét, dò la từng nếp nhăn đau đớn trên môi anh.

Cuộc bán, quả thật, sôi lên theo một nhịp kinh khủng, làm cửa hàng rung lên, chuyển mình như con tàu lớn chạy hết mã lực. Ở quầy hàng Denise, một đám bà mẹ huyên náo, ngột ngạt, kéo từng đàn những cô bé và chú bé ngập mình dưới áo quần ướm thử. Gian hàng đã tung ra hết mặt hàng trắng, và ở đây, cũng như khắp nơi, loạn đồ trắng, đủ mặt trắng cho cả một bầy thần Ái tình ớn lạnh: áo bành-tô dạ trắng, áo dài chần bằng vải bông thô, bằng cachemire trắng, bộ đồ thủy thủ cho đến bộ binh màu trắng. Ở giữa, để trang trí và tuy chưa phải mùa, người ta bầy những bộ đồ chịu lễ lần đầu, chiếc áo dài và voan mousseline trắng, đôi giầy xatanh trắng, cả mùa hoa nở run rẩy, mong manh, như cắm đầy một bó hoa lớn của ngây thơ và hoan hỉ trong trắng. Bà Bourdelais, trước ba đứa con ngồi xếp hàng theo thứ tự lớn bé, Madeleine, Edmond, Lucien, đang bực mình với thằng cuối này, đứa bé nhất, vì nó giẫy giụa khi Denise cố mặc cho nó một chiếc jaquette bằng mousseline len.

- Con hãy ngồi yên!... Cô ạ, cô xem nó có hơi chật không?

Và, với con mắt nhìn tinh của người đàn bà không ai đánh lừa được, bà xem xét mặt vải, có ý kiến về kiểu may, lộn ra xem từng đường khâu.

- Không, áo vừa đấy - Bà lại nói - Mặc được cho đám tí hon này là cả một công chuyện... Bây giờ, tôi cần một áo măng-tô cho cháu gái lớn này.

Trong cuộc tấn công vào gian hàng, Denise phải tự mình đứng ra bán hàng. Cô đang tìm chiếc măng-tô khách hỏi, thì bỗng cô khẽ kêu vì ngạc nhiên.

- Sao, em đấy à! Có việc gì vậy?

Jean em cô đứng trước mặt cô, hai tay lúng túng vì một gói hàng. Hắn đã lấy vợ được tám hôm, và hôm thứ bảy, vợ hắn, một cô bé nhỏ nhắn tóc nâu, mặt đăm đăm mà xinh, đã đến hiệu Hạnh phúc các bà rất lâu để mua sắm. Hai vợ chồng trẻ sẽ theo Denise đi Valognes: một cuộc đi chơi sau ngày cưới thật sự, một tháng nghỉ về nơi kỷ niệm xa xưa.

- Chị xem, - Hắn đáp - Thérèse quên đủ mọi thứ. Có những cái phải đem đổi những cái lấy được... Vì cô ấy bận, cô ấy bảo em mang gói này tới đây... Để em nói rõ với chị...

Nhưng cô ngắt lời hắn, khi trông thấy Pépé:

- Kìa! Pépé nữa! Thế không về trường à?

- Em nói thật! - Jean nói - Sau bữa ăn chiều hôm qua, Chủ nhật, em chẳng có bụng nào mà dẫn nó về. Chiều nay nó sẽ về thôi... Thằng bé tội nghiệp cũng buồn vì bị nhốt ở Paris, khi bọn mình đi chơi tận đó.

Denise, tuy bực bội, vẫn mỉm cười với chúng. Cô trao bà Bourdelais cho một cô bán hàng cho mình, rồi quay lại với chúng, ở một góc gian hàng may đã vãn khách. Những đứa nhỏ, tuy cô vẫn gọi chúng như vậy, bây giờ đã là những gã con trai lớn. Pépé, mười hai tuổi, đã vượt đầu cô, to lớn hơn cô, vẫn ít nói và ưa mơn trớn, tính dịu dàng âu yếm trong chiếc áo học sinh trung học, còn Jean thì, cả ngang, vượt chị hắn một cái đầu, giữ vẻ xinh con gái, với bộ tóc hung phất phơ trước gió, của những công dân nghệ sĩ. Và cô thì vẫn mảnh dẻ, không lớn hơn một con sơn ca, như cô nói, vẫn giữ uy tín đăm chiêu của người mẹ với chúng, xem chúng như những đứa nhãi phải chăm sóc, cài lại chiếc khuy áo redingote cho Jean để hắn khỏi có vẻ gã chạy rông, chăm chú xem mù-xoa Pépé có sạch không. Hôm đó, khi thấy mắt chú này muốn khóc, cô dịu dàng quở em.

- Em phải biết điều, em ạ. Không thể bỏ học mà đi. Bao giờ nghỉ hè, chị sẽ cho đi. Em có muốn cái gì không, hả? Hay em ưng chị cho ít tiền.

Rồi, cô quay lại gã kia:

- Em nữa, em cũng thế, kích động nó, em làm nó tưởng bọn mình đi vui chơi... Em cũng phải biết điều một chút mới được.

Cô đã cho thằng lớn bốn nghìn phrăng, một nửa số tiền dành dụm được; để hắn lập gia đình. Thằng bé ở trường học, cô cũng phải tốn phí nhiều cho nó, tất cả tiền bạc của cô là dành cho chúng, như xưa. Chúng là lý do duy nhất để cô sống và làm việc, là vì cô lại thề sẽ không bao giờ lấy chồng.

- Thôi đây - Jean lại nói - Trước hết, trong gói nay, có chiếc bành-tô màu hạt dẻ nhạt mà Thérèse...

Nhưng hắn ngừng lại, và Denise quay lại xem cái gì làm cho hắn e ngại, thì thấy Mouret đứng đằng sau chúng. Đã một lúc, anh nhìn cô làm nhiệm vụ người mẹ nhỏ, giữa hai gã, mắng chúng và ôm hôn chúng, xoay chúng như những chú bé mà người ta thay quần áo cho. Bourdoncle đứng tách ra làm ra vẻ quan tâm đến việc bán hàng mà không rời mắt cảnh đó.

- Các em cô đấy phải không? - Mouret hỏi, sau một phút im lặng.

Bây giờ anh nói với cô với cái giọng giá lạnh, thái độ cứng cỏi. Denise cũng cố để giữ vẻ lạnh lùng với nụ cười nhợt nhạt, cô đáp:

- Thưa ông, vâng... Tôi vừa cưới vợ cho thằng lớn, và vợ nó bảo nó đến đây mua sắm.

Mouret tiếp tục ngắm nhìn ba người. Cuối cùng anh lại nói:

- Chú bé này đã lớn lên nhiều. Tôi nhận ra nó, tôi còn nhớ đã trông thấy nó ở vườn Tuilerie, một buổi tối đi với cô.

Và giọng nói của anh, chậm lại, hơi run run. Cô thì nghẹn ngào, cúi xuống, kiếm cớ sửa lại cái đai da của Pépé. Hai anh em, mặt hồng hào lên, mỉm cười với ông chủ của chị.

- Chúng giống cô. - Anh lại nói.

- Ôi! - Cô la lên - Chúng xinh hơn tôi!

Một lúc hình như anh so sánh mấy bộ mặt. Nhưng anh không còn sức. Sao mà cô ấy yêu chúng đến thế! Và anh đi vài bước, rồi anh trở lại rỉ vào tai cô:

- Bán hàng xong mời cô lên phòng tôi. Tôi muốn nói chuyện trước khi cô đi.

Lần này, Mouret bỏ đi và tiếp tục thanh tra. Cuộc đấu tranh lại bắt đầu trong anh, vì bây giờ cuộc hẹn hò vừa rồi khiến anh áy náy. Anh bị sự thúc đẩy nào khuất phục khi trông thấy cô đứng với các em? Thật điên rồ, vì anh không còn đủ sức để có một ý định nào. Cuối cùng thì anh cũng chỉ đến nói lời từ biệt với cô. Bourdoncle lại đi theo anh hình như bớt lo lắng, con mắt hắn vẫn khẽ liếc nhìn dò xét anh.

Bấy giờ, Denise trở lại gần bà Bourdelais:

- Thế chiếc măng-tô ấy có được không?

- Được, được, tốt lắm... Hôm nay mua thế là đủ rồi. Mấy đứa nhỏ cũng đủ phá sản!

Lúc đó, có thể lánh được, Denise lắng nghe Jean giãi bày rồi đi theo hắn đến các quầy, - ở đó chắc Jean đã nhầm lẫn. Bắt đầu là chiếc bành-tô màu hạt dẻ nhạt mà Thérèse, sau khi suy nghĩ, muốn đổi lấy một bành-tô dạ màu trắng, vẫn khổ ấy, kiểu ấy. Và cô gái cầm gói hàng đi cùng hai em tới gian may sẵn.

Gian hàng trưng bầy những quần áo màu dịu, những chiếc jaquette và khăn vuông mùa hè, bằng lụa mỏng, bằng len tân kỳ. Nhưng cuộc bán đông ở nơi khác, khách hàng ở đây tương đối thưa. Hầu hết các cô bán hàng là người mới, Clara đã biến mất từ một tháng nay, người thì bảo cô ta bị chồng một bà khách hàng bắt cóc, người khác lại nói cô ta rơi vào vòng trụy lạc ở ngoài phố. Còn Marguerite thì rốt cuộc sắp sửa về trông coi cửa hiệu nhỏ ở Grenoble, có ông anh họ đang chờ đợi. Và duy bà Aurélie còn ở đó, bất di bất dịch, trong chiếc áo lụa bọc như áo giáp, với bộ mặt nữ hoàng giữ nét phì phị vàng bệch của một pho tượng đá hoa cổ. Tuy nhiên, thằng Albert hư đốn khiến bà lo nghĩ, và đáng lẽ bà rút lui về thôn quê, nếu tiền tiêu trong gia đình không bị thằng vô dụng đó làm hao hụt, thậm chí hàm răng ghê gớm nó nhai dần từng miếng, có cơ mất cả cái dinh cơ ở Rigolle. Cứ như là sự trả miếng của gia đình bị phá hoại, khi mà bà mẹ lại giở trò tiêu khiển tao nhã với các bà, và về phía ông bố thì tiếp tục thổi kèn. Bourdoncle đã nhìn bà Aurélie với vẻ bất bình, hắn lấy làm lo rằng bà ta không có cái ý nhị để xin về hưu: già thế thì còn bán hàng nỗi gì! Tiếng chuông báo tử chẳng bao lâu nữa sẽ điểm, cuốn đi triều đại nhà Lhomme.

- Kìa! Cô đấy ư - Bà ta nói với Denise, vẻ vồn vã quá mức - Cô muốn đổi cái áo bành-tô này, hả? Có ngay thôi... Chà! Các em cô đây. Người lớn cả rồi đấy.

Mặc dầu tự cao, bà có thể quỳ xuống để nịnh hót cô. Ở gian may sẵn, cũng như ở mọi quầy khác, người ta chỉ bàn chuyện Denise bỏ đi; và bà gian hàng trưởng rất đỗi khổ tâm về chuyện đó, vì bà đang trông mong ở sự che chở của cô bán hàng cũ của bà. Bà hạ giọng:

- Nghe nói cô từ biệt chúng tôi... Sao, chẳng thể thế được?

- Được chứ ạ. - Cô gái đáp.

Marguerite lắng nghe. Từ ngày cuộc hôn nhân của cô ta được ấn định, cô nhởn nhơ bộ mặt sữa chua của cô, vẻ càng ghê tởm. Cô ta tới gần, nói:

- Chị làm thế thì phải. Tự trọng trước hết, phải không?... Xin có lời thân mến chào chị.

Khách hàng tới. Bà Aurélie tàn nhẫn yêu cầu cô ta trông vào việc bán hàng. Rồi, khi Denise cầm lấy chiếc áo bành-tô để tự mình đem “trả lại”, thì bà la lên và gọi một cô phụ tá. Đây chính là một điều cải cách mà cô gái đã mách Mouret, tuyển những phụ nữ phục vụ giữ việc mang hàng, như thế đỡ mệt cho các cô bán hàng.

- Chị đi theo cô đây. - Bà quầy hàng trưởng vừa nói vừa trao cho người đó chiếc áo.

Và, quay lại với Denise:

- Mong cô nghĩ lại cho... Tất cả chúng tôi đều ngán ngẩm vì cô ra đi...

Jean và Pépé, đang tươi cười chờ giữa đám phụ nữ tràn vào, lại theo chị đi. Bây giờ phải đi đến gian hành trang, để lấy lại sáu chiếc sơ-mi, y như nửa tá mà Thérèse đã mua hôm thứ Bảy. Nhưng, ở các quầy đồ lót hàng trắng trưng bầy trắng xóa ở khắp các khoang người ta chết ngạt, tiến lên rất khó khăn.

Trước hết ở quầy corset, một cuộc nhốn nháo nhỏ khiến đám đông tụ tập lại. Bà Boutarel, lần này từ miền nam lên cùng với chồng và con gái, từ sáng đi khắp các gian hàng, tìm kiếm một hành trang cho con gái sắp lấy chồng. Ông bố được hỏi ý kiến, thế là chuyện cứ kéo dài. Cuối cùng, cả gia đình vừa để lại ở các quầy quần áo lót; và, trong lúc cô này mê mải, nghiền ngẫm về khoản quần, thì bà mẹ biến mất, bản thân bà cũng ngứa ngáy tìm kiếm một chiếc corset. Khi ông Boutarel, một con người to lớn sung huyết, bỏ con gái đấy, hoảng hốt đi tìm vợ, thì rốt cuộc ông tìm thấy bà ở phòng ướm thử, ở đó người ta lễ phép mời ông ngồi phía trước. Những phòng này là những khoang chật hẹp đóng kín bằng những tấm gương mờ, đàn ông, ngay cả những ông chồng, không được vào vì ý muốn giữ gìn lịch sự quá đáng của ban giám đốc. Ở đây các cô bán hàng ra vào đùng đùng, mỗi lần cánh cửa đập sầm sập, để người ta thấp thoáng nhìn thấy các bà mặc sơ-mi và váy ngắn, ngực hở, tay trần, bà nào béo thì da thịt trắng phau, bà nào gầy thì màu ngà đã ngả. Một dãy các ông ngồi đợi trên các ghế, vẻ ngán ngẩm. Và đến ông Boutarel thì, khi ông đã hiểu, ông nổi giận thẳng thừng, la lên đòi vợ ông, muốn biết người ta làm gì bà, ông nhất định không để vợ cởi quần áo mà không có mặt ông. Người ta cô làm cho ông bình tĩnh mà không được: dường như ông cho rằng trong đó có những chuyện bất nhã. Bà Boutarel buộc phải ra trong khi đám đông bàn tán và cười.

Bây giờ Denise và các em mới qua đưọc. Toàn bộ đồ lót của phụ nữ, những đồ mặc bên trong màu trắng, dưọc bầy ra trong một dãy buồng, xếp loại thành những gian khác nhau. Corset và tournure [3] chiếm một quầy, corset khâu, corset mình dài, corset áo giáp, đặc biệt là corset lụa trắng, tô màu xòe nan quạt, hôm đó được bầy trong một chỗ; cả một đội quân người gỗ không đầu và không chân, chỉ bầy thành hàng những thân trên, những ngực búp bê dẹt phẳng dưới lụa, mang cái vẻ dâm ô chướng mắt của kẻ tàn tật; và gần đó; trên những chiếc gậy khác, những tournure bằng lông và đăng-ten biến những cán chổi do thành những bộ mông to lớn và căng ra, nhìn nghiêng trông thật bất nhã. Nhưng liền đó, hàng mặc trong phong nhã bắt đầu, một loạt quần áo trong rải ra ở những gian rộng, y như có cả bày mỹ nhân cởi lần quần áo từ gian này sang gian khác, cho tới để lộ làn da trắng muốt, như satanh. Ở đây là hàng lót mịn, tay áo giả và cà vạt trắng, khăn quàng và cổ áo trắng, đủ loại hàng mỏng vô kể, như một mớ bọt trắng từ những cartông trôi ra và dâng cao như tuyết. Chỗ kia là áo nịt, áo cụt, áo dài mặc sáng, áo choàng, vải gai, vải bông thô, đăng-ten, quần áo dài trắng, thanh nhã và mong manh khiến người ta cảm thấy cảnh nằm vươn dài vào những buổi sáng nhàn hạ, hôm sau của những đêm ân ái. Và đồ lót kín đáo xuất hiện, lả tả rơi từng chiếc, váy trong màu trắng, dài đủ cỡ, váy trong bó đầu gối, và váy trong có đuôi viền đăng-ten trùm đất, váy trong lan tràn như sóng bể dâng lên chìm ngập những cẳng chân; quần bằng percale [4] vải gai, vải chần, quần trắng rộng thênh thang cho những lưng đàn ông đủ sức vẫy vùng; sau hết sơ-mi cài cúc đến cổ ban đêm, hở ngực ban ngày, vai hẹp bằng chức bâu thường, bằng vải gai lêclan, bằng vải gai mịn, chiếc voan trắng cuối cùng buông từ ngực xuống, dọc theo háng. Ở gian hành trang, bầy lộ ra hình ảnh người phụ nữ lột trần và ngó từ phía dưới, từ bà tiểu tư sản mặc đồ vải gai trơn đến bà giàu có nép mình trong đăng-ten, một khuê phòng mở rộng công khai, mà cái xa hoa ẩn kín, hàng xếp nếp, hàng thêu, hàng đăng-ten, trở thành như một sự dâm ô trụy lạc, khi những mặt hàng tân kỳ đắt tiền mỗi lúc càng tràn lan. Rồi người phụ nữ lại mặc quần áo vào, cả mớ đồ lót trắng vung vãi đó trở vào ẩn nơi bí mật chập chờn của những chiếc váy, chiếc sơ-mi mà ngón tay người thợ khâu làm cứng đơ, chiếc quần lạnh lẽo và giữ nếp của hộp cartông, tất cả mớ percale và gai mịn chết cứng đó, vung vãi trên các quầy hàng, ném ra, chất đống, sắp trở nên sinh động với cuộc sống của xác thịt, thơm và ấm hơi hướng của ái tình, một đám mây trắng trở nên thiêng liêng, chìm trong bóng đêm, mà chỉ khẽ bay lên, ánh hồng của đầu gối thấp thoáng lộ ra trong những đồ trắng tinh, là tàn phá cả thiên hạ. Rồi trong còn có một buồng tã lót, ở đó màu trắng khoái lạc của phụ nữ dẫn tới màu trắng thanh khiết của trẻ thơ: một vẻ ngây thơ, một niềm vui, người tình nương bừng dậy trở thành người mẹ, áo cụt con nít, vải chần xổ lông, mũ trẻ con bằng flanelle, áo sơ-mi và mũ trùm lớn bằng những đồ chơi, và áo dài dự lễ rửa tội, và áo lót bông bằng cachemire, lông tơ trắng nõn tuổi sơ sinh, y như một đám mưa bay lông trắng.

- Em biết không, đây là những sơ-mi mặc kín. - Jean nói, giữa đám quần áo mặc trong đó, cả mớ xống áo tràn ngập như nước lũ đó, hắn ngập mình vào, hoan hỉ khoan khoái.

Ở gian hành trang, khi trông thấy Denise, Pauline chạy tới liền. Và, chưa biết bạn muốn gì, cô ta đã thủ thỉ, rất xúc động về những tin đồn mà cửa hàng bàn tán. Ở gian hàng cô ta, thậm chí có hai cô bán hàng cãi nhau, một cô khẳng định, cô kia phủ nhận tin Denise bỏ đi.

- Cậu ở lại với chúng mình chứ, mình đã sống chết cam đoan... Rồi mình sẽ ra thế nào?

Và, khi Denise đáp ngày mai sẽ đi.

- Không, không, cậu tưởng thế, nhưng mình biết điều trái lại kia... Chao ơi! Bây giờ mình đã có con, cậu phải cho mình lên chức quầy phó chứ. Baugé mong lắm đấy, bạn thân yêu ạ.

Pauline mỉm cười với vẻ tin chắc. Rồi cô ta đưa ra sáu chiếc sơ-mi; và, nghe thấy Jean bảo bây giờ đi ra quầy musoa, cô ta gọi một người phụ tá để mang những chiếc sơ-mi và chiếc bành-tô mà người phụ tá gian may sẵn để lại đó. Người phụ tá này chính là cô De Fontenailles mới lấy Joseph. Cô ta vừa được đặc ân cất lên làm người phục vụ, cô mặc một chiếc áo bludơ rộng màu đen, trên vai có ghi chữ số bằng len vàng.

- Cô đi theo cô đây. - Pauline nói.

Rồi trở lại và khẽ nhắc:

- Cho mình làm quầy phó, hả? Thế nhé!

Denise vừa cười vừa hứa, cũng để bông đùa. Và cô cùng Jean và Pépé đi xuống, người phụ tá theo sau. Ở tầng dưới nhà, họ đổ vào quầy len, một góc gian căng hoàn toàn, molleton trắng và flanelle trắng. Liénard, vẫn không nghe theo bố gọi về Angers, đang nói chuyện với gã Mignot xinh trai, gã này bây giờ trở thành người môi giới, hắn dám trâng tráo vác mặt đến hiệu Hạnh phúc các bà. Chắc hẳn chúng đang nói về Denise, vì cả hai vội vã im lặng để chào cô. Vả lại, cô tiến đến đâu, qua các gian hàng, nhân viên bán hàng đều xúc động và cúi đầu, với mối phân vân không biết mai cô sẽ ra thế nào. Họ xì xào, họ xem cô như đắc thắng, và lại có cuộc phản kích mới trong việc đánh cuộc, họ lại nhè vào cô mà thách rượu vang d’Argenteuil và chả rán. Cô đi qua gian đồ trắng để tới quầy mù-soa ở phía đầu. Hàng trắng trải ra: vải bông trắng, madapolam [5], chéo go, vải chần, chúc bâu; vải fil trắng, nansouk [6], mousseline, arlatane [7]; rồi đến vải gai chất thành chồng tướng, xếp từng tấm luân phiên như những khối đá vuông, vải gai thô, vải gai mịn, đủ mọi khổ, trắng hay mộc, sợi gai thuần chất, phơi trắng; rồi, bắt đầu trở lại, những gian hàng kế tiếp nhau bầy mỗi gian một thứ vải thông dụng, dùng trong nhà, trải bàn ăn, dùng ở nhà bếp, hàng trắng như sập lở liên tục, khăn trải giương, vải bọc gối, đủ kiểu khăn mặt, khăn trải bàn, tạp dề và khăn lau. Và, những lời chào hỏi kế tiếp, mỗi khi Denise đi qua người ta dẹp sang một bên, Baugé bổ nhào đến quầy vải gai để mỉm cười với cô, như với bà chúa phù trợ cửa hàng. Cuối cùng, sau khi qua quầy bán chăn, một gian treo những lá cờ trắng, cô bước vào quầy mù-soa, trang trí khéo léo khiến đám đông ngây ngất: toàn là những cây cột trắng, những tháp nhọn trắng, những lâu đài trắng, một kiểu kiến trúc phức tạp, chỉ dựng lên bằng mù-soa, vải phin, vải gai mịn Cambrai, vải gai Irlande, lụa Trung Quốc, thêu chữ đầu tên, thêu nổi, viền đăng-ten, viền đường giữa và hình nhỏ đan, cả một đô thành bằng gạch trắng muôn hình muôn vẻ, nổi bật trên một ảo cảnh với một bầu trời phương Đông, rực trắng.

- Em bảo lấy thêm một tá, - Denise hỏi - hàng Cholet [8] phải không?

- Vâng, hình như thế, y như cái này. - Jean vừa đáp vừa chỉ một chiếc mù-soa trong gói.

Jean và Pépé không rời váy chị, vẫn siết chặt lấy cô như xưa kia, khi chúng mới đến Paris, mệt nhừ vì chuyến đi. Những ngôi hàng rộng lớn đó là nhà của cô, chúng lại dựa vào sự che chở của bà mẹ nhỏ của chúng, như sự thức dậy của bản năng thời thơ ấu. Người ta nhìn theo chúng, người ta mỉm cười thấy hai gã con trai to lớn bám sát chân cô gái mảnh khảnh và nghiêm nghị kia. Jean thì hớt hải với bộ râu, Pépé luống cuống trong chiếc áo dài, cả hai bây giờ cùng một màu tóc hung, màu hung khiến người ta xì xào khi họ đi qua các quầy hàng, từ đầu nọ đến đầu kia.

- Các em cô ấy đấy. Các em cô ấy đấy...

Nhưng Denise đang tìm một người bán hàng thì có một cuộc gặp gỡ. Mouret và Bourdoncle bước vào gian hàng, và khi Mouret lại dừng chân trước cô gái mà không nói gì thì bà Desforges và bà Marty đi qua. Henriette kìm lại một cái rợn mình chạy toàn thân bà.

Bà ta nhìn Mouret, bà ta nhìn Denise. Cả hai người cũng đã nhìn bà, đó là cảnh mở nút câm lặng, kết thúc chung của những tấn bi kịch lớn của trái tim, một cái liếc mắt trao đổi giữa cơn xô đẩy của đám đông. Mouret liền đó bỏ đi, còn Denise biến vào trong cuối gian hàng với các em trai, vừa tìm kiếm một nhân viên bán hàng rỗi. Bấy giờ, Henriette nhận ra người phụ tá đi theo Denise chính là cô De Fontenailles, với chữ số vàng trên vai, bộ mặt đẫy lên và tái mét của người phục vụ, bà ta cáu kỉnh nói với bà Marty cho bõ giận.

- Bà chị xem họ đã làm gì cái cô tội nghiệp kia... Một bà hầu tước, thật là sỉ nhục phải không? Mà ông ấy bắt cô ta đi theo những kẻ nhặt được ở bờ hè như một con chó!

Bà ta cố bình tĩnh lại, bà làm bộ nói thêm với vẻ dửng dưng:

- Ta hãy đến gian tơ lụa xem hàng họ bầy.

Gian tơ lụa giống như một phòng yêu đương lớn; cẳng phủ vải trắng do thích ý của người tình nương lộ mình như tuyết, muốn ganh đua vẻ trắng ngần. Hết thảy các màu trắng sữa trên một thân hình được tôn thờ phô bầy ra ở đây, từ nhung của hông đến tơ mịn của đùi và xatanh bóng của ngực. Những tấm nhung căng giữa những cột, lụa và xatanh nổi bật trên cái nền màu trắng kem đó, thành những màn trướng màu trắng của kim loại và của đồ sứ; và, rũ xuống thành vòng cung, còn có nhiều cát và lụa sicile [9] to hạt, những foulard và lụa chéo go mỏng, đi từ màu trắng đông đặc của cô gái tóc hung vàng xứ Na Uy đến màu trắng trong vắt, sưởi ấm mặt trời của cô gái tóc hung đỏ nước Ý hay Tây Ban Nha.

Đúng lúc đó, Favier đo foulard trắng cho “bà xinh đẹp”, các bà tóc hung lịch sự, một khách quen của quầy hàng, mà nhân viên bán hàng chỉ biết gọi bằng mấy tiếng đó. Từ nhiều năm nay, bà ta đến, thế mà người ta vẫn không biết một chút gì về bà, về đời sống cũng như về địa chỉ, thậm chí cả tên bà. Vả chăng, cũng không một ai chịu tìm hiểu, tuy mỗi khi bà xuất hiện, mọi người đều đặt ra các giả thuyết, chỉ để chuyện trò. Bà ta gầy đi, béo ra, và mỗi sự kiện nhỏ về cuộc đời xa lạ của bà, biến cố bên ngoài, bi kịch bên trong, đều cứ thế gây phấn khích, được bình luận dài dòng. Hôm đó, bà có vẻ rất vui. Vì vậy, khi Favier dẫn bà ra két trở về, anh ta bầy tỏ với Hutin những suy nghĩ của mình.

- Chắc có lẽ bà ta tái giá.

- Thế ra bà ấy góa chồng à? - Tay kia hỏi.

- Mình chẳng biết... Nhưng, ông phải nhớ, có lần bà đã để tang... Trừ phi bà ta đã phát tài trên Thị trường chứng khoán.

Im lặng một lúc, rồi, anh ta kết luận:

- Chuyện là của bà ấy... Có nên lờn khơn với tất cả cả phụ nữ đến đây hay không?

Nhưng Hutin có vẻ đăm chiêu. Cách đấy một hôm, hắn đã phải phân trần gay go với ban giám đốc, và hắn cảm thấy bị kết án. Sau cuộc đem bán lớn này, chắc hắn sẽ bị đì. Đã từ lâu, địa vị của hắn lung lay; ở cuộc kiểm kê vừa qua, người ta trách hắn không đạt doanh số quy định từ trước, ngoài ra lại còn, nhất là còn cuộc tranh ăn lần lần đến lượt xơi hắn, tất cả cuộc đấu tranh âm thầm của gian hàng ném hắn ra ngoài, ngay trong cơn lay chuyển của cỗ máy. Người ta nghe thấy cuộc vận động ngấm ngầm của Favier, tiếng răng nhai ầm ĩ, bị bóp nghẹt. Tay nấy đã được người ta hứa cho lên chức quầy hàng trưởng. Hutin biết rõ những đi