← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II (C)

dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học

CHƯƠNG II (C)

ược những người quen giỏi văn chương Pháp như nhà báo cấp tiến Gaston Monmousseau và Jean Longuet giúp trau chuốt văn phong, ý tứ còn yếu kém và lộ liễu, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết cho các tờ báo cánh tả ở Paris vào cuối mùa hè năm 1919, và tiếp tục là người ủng hộ tích cực sự nghiệp tiến bộ cho tới khi ông rời Pháp gần bốn năm sau. Bài báo đầu tiên của ông với tiêu đề “Vấn đề thuộc địa” được đăng trên tờ Nhân đạo ngày 2-8-1919, chỉ trích chính sách của Pháp ở Đông Dương mà theo ông đã không mang lại gì ngoài nỗi thống khổ của nhân dân Việt Nam. Mặc dù trên lý thuyết người Pháp thực hiện sứ mệnh truyền bá văn minh, nhưng trên thực tế, chính sách giáo dục của họ chỉ là tuyên truyền và làm cho người Việt Nam không sẵn sàng cạnh tranh với những người láng giềng trong tương lai. Trong khi đó, chính phủ Nhật Bản đã khôn ngoan chuẩn bị cho nhân dân của họ phát triển kinh tế. Sau cùng, ông tiên đoán, các thương nhân Nhật Bản sẽ vào Đông Dương và làm cho cuộc sống của người Việt Nam thậm chí còn khổ sở hơn.

Nguyễn Ái Quốc đã có lý. Cuối Thế chiến I, hệ thống giáo dục được người Pháp áp dụng nhằm trang bị cho nhân dân Đông Dương những kiến thức phương Tây chỉ đến được một bộ phận nhỏ dân chúng. Chí có 3.000 trong số hơn 23.000 làng xã ở Việt Nam có trường theo kiểu phương Tây. Giáo dục truyền thống nho giáo Hán học tiếp tục được các nhà nho dạy ở nông thôn, nhưng sau khi người Pháp bãi bỏ chế độ thi cử kiểu cũ, hệ thống giáo dục này đã mất đi tính hướng nghiệp ban đầu. Giáo dục tại các bậc học cao hơn được giành cho những người Việt sống ở các thành phố. nhưng chủ yếu chỉ giới hạn trong một số trường trung học giành cho các công tử và tiểu thư của tầng lớp thượng lưu.

Về chiến lược mở rộng sự tham gia chính trị của Sarraut đưa ra, Thành cho rằng chẳng có chính sách nào hết. Khi nhân dân đứng lên phản đối, như năm 1908, họ đã bị đàn áp đẫm máu. Ông kết luận, “Liệu người Pháp có nhận ra rằng đến lúc phải giải phóng những người dân bản xứ và giúp họ sẵn sàng cạnh tranh với láng giềng trong tương lai?”[1]

Tiếp sau bài báo đó, Nguyễn Ái Quốc viết tiếp một bài báo khác có tựa đề “Đông Dương và Triều Tiên” và “Thư Gửi Ngài Outrey” đăng trên tờ Dân Chúng (Le Populaire) vào tháng Mười. Cũng như bài báo trước, bài này, tuy cực lực lên án một số chính sách của Pháp, nhưng khá ôn hoà và đưa ra những giải pháp. Các bài báo này không nhắc đến việc sử dụng bạo lực hay một liên minh công nông theo chủ nghĩa Lenin. Trong bài báo tháng 10, tác giả ưu ái nhắc đến các chính sách, nhận xét của cựu Toàn quyền Albert Sarraut và tuyên bố phản đối Maurice Outrey, một quan chức thuộc địa và đại diện của Nam Kỳ trong Quốc hội Pháp - người mà có tin đồn rằng sẽ thay Sarraut làm Toàn quyền. Outrey đã chỉ trích Hội Những Người Yêu Nước An Nam ở Quốc hội, đồng thời bác bỏ việc chế độ thực dân Pháp đàn áp người An Nam. Nguyễn Ái Quốc hỏi một cách châm biếm, anh đại diện cho ai? Hai mươi triệu người An Nam, Outrey thậm chí còn không biết tên, trừ một số viên chức và một vài cử tri giàu có ở Nam Kỳ? Ông kết luận, giữa quan điểm của Outrey và Sarraut có một “khoảng cách lớn”.[2]

Nghề sửa ảnh tô màu của Nguyễn Ái Quốc không cần nhiều thời gian, trong khi viết những bài báo ngắn, ông cũng bắt đầu chuẩn bị một bản thảo dài hơn có tựa đề “Những Người Bị Áp Bức”, phê phán chính sách của Pháp ở Đông Dương. Hầu như ít khi người ta thấy những nỗ lực viết sách không thành công của một tác giả lại được ghi lại một cách kỹ lưỡng như vậy, bởi vì cảnh sát được thông báo rõ về hoạt động của ông qua các báo cáo định kỳ của các đặc vụ. Ông bắt đầu viết vào cuối năm 1919 với sự giúp đỡ của một ông chủ nhà xuất bản chống thực dân là Paul Vigné d'Octon và miệt mài đọc báo và các tạp chí ở Thư viện Quốc gia để thu thập các tư liệu, những trích dẫn có ích. Khi có người bạn cảnh báo Quốc về những trích dẫn không nêu xuất xứ, ông bảo, “các nhà xuất bản khác sẽ đòi tiền vì những trích dẫn và điều đó sẽ giúp quảng bá cho cuốn sách”. Lại có người khuyên ông không nên sử dụng tựa đề mang tính thách thức nhưng ông vẫn khăng khăng giữ nguyên như vậy.

Theo các báo cáo của mật thám, Nguyễn Ái Quốc không đủ kinh phí để xuất bản và định tự mình xuất bản bản thảo đó. Nhưng chẳng bao lâu sau khi hoàn thành, một đêm trở về nhà ông phát hiện bản thảo bị mất cắp. Một số nhà viết tiểu sử cho rằng, cảnh sát đặc nhiệm đã đánh cắp. Khả năng này là có thật, mặc dù hồ sơ cảnh sát không hề đề cập. Nội dung bản thảo không được đề cập rõ ràng, rất có thể ông đã sử dụng nhiều tư liệu từ những ghi chép trong một cuốn sách xuất bản năm 1925- Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Francaise). Quyển sách này phê phán mạnh mẽ các chính sách của thực dân Pháp đồng thời phản ánh rõ nét ảnh hưởng chủ nghĩa Marx và phản ánh rõ nét ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx đối với thế giới quan của ông.[3]

Nguyễn Ái Quốc dọn đến căn hộ của Phan Chu Trinh ở Villa des Gobelins vào tháng 7-1919, sau khi đưa ra “Bản yêu sách đối với lực lượng đồng minh” ít lâu. Nằm trong một quận trung lưu có đủ tiện nghi gần Place d'Italie ở tả ngạn sông Seine, nơi này khá hơn nhiều so với chỗ ở tồi tàn trước kia. Ông không chỉ ở chung với Phan Chu Trinh mà cả với một số cộng sự khác nữa.

Tuy nhiên, việc chuyển chỗ ở làm nảy sinh một số vấn đề. Đầu tháng 12-1919, một thám tử trong nhóm đặc vụ cảnh sát, báo cáo có một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra giữa Nguyễn Ái Quốc và Phan Chu Trinh tại căn hộ về việc nên tiếp tục đi theo con đường nào. Quốc lên án quan chức Việt Nam như những chú cừu nhu nhược và trở thành kẻ đồng lõa với người Pháp kiềm chế dân chúng và bóc lột họ. Trinh phản đối coi quan điểm đó thật nông cạn. Ông cho rằng người Việt Nam vẫn còn quá yếu, chưa đủ khả năng chống Pháp. Ông lập luận, chống đối giai đoạn này đồng nghĩa với tự sát. Ông nhắc nhở: “Này anh Quốc, cho tôi được nhận xét đôi lời, anh còn trẻ, nhưng ai cũng thấy anh bướng bỉnh. Anh muốn 20 triệu đồng bào của chúng ta vùng lên trong khi họ không có vũ khí trong tay để chống lại vũ khí tối tân của người châu Âu. Tại sao chúng ta lại tự sát một cách vô ích?”

Theo Phan Chu Trinh, vẫn cần dựa vào người Pháp để thúc đẩy quá trình hiện đại hoá xã hội Việt Nam, xã hội vẫn còn chịu ảnh hưởng của bàn tay tử thần của truyền thống Nho giáo. Nhưng Quốc cảm thấy rằng người Pháp là kẻ thù số một và không thể tin cậy để thực hiện lời hứa cải cách của họ. Ông hỏi:

“Tại sao hai mươi triệu đồng bào ta lại không làm gì để buộc chính phủ đối xử với chúng ta như đối với con người? Chúng ta là người và chúng ta phải sống như con người. Bất kỳ ai không muốn đối xử với chúng ta như đồng loại đều là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta không muốn sống chung với họ trên trái đất này. Nếu những người khác không muốn sống chung với ta như với đồng loại, thì thật là chẳng có lý gì để sống cuộc sống nhục nhã và bị xúc phạm trên trái đất này”.

Về quan điểm cho rằng người Việt Nam phải dựa vào người Pháp để thực hiện cải cách cần thiết, Nguyễn Ái Quốc lập luận, Pháp đã chẳng làm gì để giáo dục người dân hay chỉ cho họ cách tự trị. Ông công nhận “Bác lớn tuổi hơn và nhiều kinh nghiệm hơn cháu, nhưng đồng bào của ta đã yêu cầu điều đó trong 60 năm qua và đã nhận được cái gì? Chẳng được gì cả”.[4]

Dù khác biệt về quan điểm chính trị giữa họ ngày càng tăng, Nguyễn Ái Quốc vẫn tôn trọng Phan Chu Trinh, cố gắng thuyết phục ông thay đổi quan điểm. Vài lần ông đã dẫn người đồng chí lớn tuổi hơn đến các cuộc họp cấp tiến ở Paris. Cảnh sát luôn theo sát Quốc và cố thu thập thông tin chính xác về xuất thân của ông. Các nhà chức trách tin rằng Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn Tất Thành - người đã tham gia vụ bạo động ở Huế vào mùa hè năm 1908. Họ đã phỏng vấn cha ông, chị gái ông, anh trai ông và tìm kiếm những đặc điểm trên người ông để nhận dạng. Thí dụ, họ nghe nói ông có một cái sẹo trên tai do tai nạn lúc nhỏ. Khi phải vào bệnh viện năm 1920 để điều trị áp-xe khuỷu tay phải, cảnh sát đã cố chụp hình ông.[5]

Ngày 17-8-1920, Albert Sarraut, bấy giờ là Bộ Trưởng Thuộc địa, gửi công văn cho quận trưởng cảnh sát yêu cầu cung cấp thêm chi tiết chính xác về Nguyễn Ái Quốc. Sarraut nổi xung, giải thích: “Anh ta không có quyền làm xáo trộn nền chính trị của chúng ta dưới một cái tên giả”. Tháng sau, Quốc bị gọi đến Bộ Thuộc địa một lần nữa để thẩm vấn. Lời tự thuật của ông về việc này:

“Một hôm tôi viết một bức thư cho một văn sĩ, bốn ngày sau, tôi nhận được một bức thư từ Bộ Thuộc địa, do ngài Guesde ký, trong đó ông ta bảo rằng đã nhận được thư tôi và yêu cầu tôi đến văn phòng của ông. Cái gì? Tôi tự hỏi. Tôi không biết ông Guesde! Tôi chưa bao giờ viết thư cho ông ta cũng như cho bất kỳ ai trong bộ đó. Một ý nghĩ lóe sáng. Tôi tự nhủ, Ngài Guesde không biết tôi, vì vậy để làm quen và mua chuộc, ông ta tìm cớ gọi tôi đến cơ quan của ông ta”.

Vài ngày sau, tôi đến Bộ Thuộc địa. Ngài Guesde không có ở đó, vì đang công du nước Anh. Ông Pasquier một quan chức cao cấp của Bộ tiếp và hỏi xem tôi có cần gì ở chính phủ không. Nếu có thì ông ta sẽ cố gắng giúp.

Tôi trả lời là tôi chẳng cần gì, trừ tám yêu sách mà tôi đã đưa ra ở Hội nghị Hoà bình. Nếu ông có thể can thiệp với chính phủ Pháp để đáp ứng những yêu sách, chúng tôi sẽ vô cùng biết ơn. Ông Pasquier không trả lời câu hỏi của tôi và nói lảng sang chuyện khác”.[6]

Không ai biết sự phản ứng của Pasquier đối với cuộc đối thoại này như thế nào. Nhưng sự phẫn nộ ngày càng gia tăng của các nhà chức trách được thể hiện trong một báo cáo về Nguyễn Ái Quốc do Pierre Guesde viết gửi Bộ Trưởng Thuộc địa ngày 12 tháng 10. Nguyễn Ái Quốc đã bị triệu đến quận cảnh sát, ba ngày sau Bộ Thuộc địa đã thẩm vấn ông. Tại quận cảnh sát, ông khai là sinh ngày 15 tháng 1 năm 1894 tại Vinh và cả 6 anh chị em đều đã qua đời.

Guesde giận dữ: “Nguyễn Ái Quốc là ai?”

“Ông ta thường xuyên thay đổi tên và đang giấu tung tích dưới một cái tên giả mà cái tên đó không thể đánh lừa được bất cứ ai kể cả những người không thông thạo tiếng Việt. Ông ta cho rằng không có tài liệu nào của nhà cầm quyền Đông Dương có thể nhận dạng ông ta, nhưng ông ta đã can thiệp vào nền chính trị của chúng ta, tham gia các nhóm chính trị, nói chuyện ở các tổ chức cách mạng và ngay cả chúng tôi còn không biết mình thuộc nhóm nào. Những thông tin mà ông ta cung cấp rõ ràng là giả dối”.

Thực ra, Guesde nói, sau những nỗ lực hết mức, các nhà chức trách có bằng chứng rõ ràng là Quốc chính là Nguyễn Tất Thành, “một kẻ kích động nguy hiểm”, đã tham gia cuộc biểu tình ở An Nam vào năm 1908”.[7]

Trong thời gian hơn một thế hệ, phong trào chủ nghĩa xã hội ở Pháp bao gồm các nhà tư tưởng tiến bộ thuộc nhiều mầu sắc khác nhau: những nhà hoạt động theo Auguste Blanqui, nhà cách mạng thế kỷ XIX, chủ trương tiến hành nổi dậy ngay lập tức và không chú ý gì đến vấn đề xây dựng một xã hội tương lai; các nhà cải cách theo con đường tiệm tiến của Eduard Bernstein và Quốc tế II; những người có quan điểm cấp tiến lý thuyết, xuất phát từ cuộc cách mạng Pháp hơn là từ tư tưởng Karl Marx; và những người lãnh đạo công đoàn, những người đã làm dấy lên cuộc đấu tranh giai cấp chống giới chủ, nhưng hầu như không dùng đến hệ tư tưởng. Thế chiến I đã giáng một đòn mạnh vào lợi ích chung trước đó còn đeo đẳng trong các nhóm hỗn tạp này, và khi Lenin đưa ra yêu cầu đối với những người theo Đảng Xã hội ở khắp nơi tham gia một cuộc chiến tranh thần thánh chống chủ nghĩa tư bản, ông đã buộc các đảng viên phải có quan điểm dứt khoát.

Tại Hội nghị Đảng Xã hội Pháp tổ chức ở Strabourg tháng 2-1920, đã nổ ra một cuộc tranh luận lớn về việc liệu gia nhập Quốc tế II tương đối ôn hoà hay gia nhập Quốc tế III mới của Lenin. Nguyễn Ái Quốc cũng có mặt nhưng không tham gia thảo luận. Khi bỏ phiếu, đại đa số muốn từ bỏ phe Quốc tế II, nhưng cũng có một đa số tương tự tỏ ý chống việc gia nhập Quốc tế cộng sản III. Cánh tả Pháp không sẵn sàng chọn lựa.

Trong những tháng tiếp theo, cuộc thảo luận về con đường tương lai của phong trào xã hội đã trở nên sôi nổi hơn. Mùa hè đó, hai đảng viên xuất chúng, Marcel Cachin và Tổng bí thư Louis Frossard tham gia Hội nghị Quốc tế Cộng sản II ở Moscow. Hội nghị này đã thông qua “Luận cương về các vấn đề quốc gia và thuộc địa” của Lenin. Khi trở về Pháp, họ triệu tập cuộc mét tinh lớn ngày 13-8 để bàn bạc về kết quả của hội nghị. Trong số 30.000 người đứng chật quảng trường Paris ở phía tây thành phố có Nguyễn Ái Quốc. Ông đã nghe Marcel lớn tiếng ủng hộ Quốc tế Cộng sản mới của Lenin, cho rằng chỉ có Quốc tế Cộng sản mới có thể giải phóng các dân tộc nô lệ trên thế giới và tiến hành đấu tranh tới tận sào huyệt của chủ nghĩa đế quốc toàn cầu.[8]

Những lời đó dĩ nhiên được Nguyễn Ái Quốc hoan nghênh, mặc dù có thể Nguyễn thất vọng điều kiện thứ tám của Lenin đối với việc gia nhập Quốc tế Cộng sản mới - kêu gọi các Đảng cộng sản ở các nước đế quốc chủ nghĩa tiếp tục đấu tranh tích cực chống lại các chính sách đế quốc của chính phủ - hầu như không được chú ý tại hội nghị. Tuy nhiên, có thể ông cảm thấy phấn khởi vào tháng 9 khi nghe tin về hội nghị của các dân tộc phương Đông được tổ chức sau đó ít lâu tại Baku, khi Platovich - một đại diện của Quốc tế Cộng sản - kêu gọi đấu tranh mạnh mẽ để giải phóng cho các dân tộc bị áp bức ở châu Á.[9]

Đảng Xã hội Pháp dự kiến tổ chức Hội nghị Toàn quốc tại Tours cuối tháng 12 để quyết định khả năng gia nhập Quốc tế Cộng sản mới của Lenin. Trong những tháng trước khi diễn ra hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã dự tất cả các phiên họp cấp quận và nghe tất cả các lập luận từ cả hai phía. Một đảng có ba phe, với những người theo trường phái ôn hoà và cấp tiến ở hai thái cực và một nhóm của Jean Longuet ở giữa. Nguyễn Ái Quốc hầu như không đóng góp ý kiến gì vào các cuộc tranh luận. Khi tham gia tranh luận thì ông bao giờ cũng phàn nàn về việc thiếu quan tâm tới các vấn đề thuộc địa. Theo lời tự thuật của ông thì có lúc ông đã kêu gọi thống nhất mục đích chung:

“Các bạn thân mến! Các bạn đều là những người xã hội rất tốt! Tất cả các bạn đều muốn giải phóng giai cấp công nhân? Vâng. Như thể dù thứ hai, thứ hai rưỡi, hay Quốc tế thứ ba phải chăng cũng thế cả. Những Quốc tế ấy đều không là cách mạng cả sao? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này hoặc Quốc tế nọ, các bạn cũng phải đoàn kết nhất trí. Tại sao tranh luận nhiều thế? Trong khi các bạn tranh luận ở đây, thì đồng bào chúng tôi đang rên siết ở Việt Nam…”

Khi chọn đại biểu tham gia hội nghị, ông tìm cách để được mời với tư cách là đại diện cho một nhóm nhỏ các đảng viên của Đông Dương.[10]

Ngày 25 tháng 12-1920, đại hội khai mạc tại trường đua ngựa gần nhà thờ Saint Julian nam bờ sông Loire. Hội trường ở tầng hầm chăng đèn kết hoa cùng với bức chân dung nhà hoạt động xã hội kỳ cựu Jean Kaures và những băng rôn, biểu ngữ kêu gọi toàn thể giới cần lao trên thế giới đoàn kết lại. Đối diện với bục diễn đàn được trải khăn trắng, ngay phía trước là hàng ghế bằng những tấm ván xẻ xếp ngang. Hai trăm tám mươi nhăm đại biểu và những khách mời thay mặt cho 178 ngàn đảng viên toàn quốc, ngồi theo từng phe phái chính trị. Nguyễn Ái Quốc ngồi cùng phái cánh tả do Marcel Cachin năng nổ lãnh đạo.

Các đại biểu bắt tay vào thảo luận chủ đề chính của hội nghị ngay hôm ấy để đưa ra quyết định có hay không tham gia Quốc tế Cộng sản III. Là người châu Á duy nhất, mặc một bộ đồ sẫm màu quá khổ so với vóc dáng gầy của mình, Nguyễn Ái Quốc dường như lạc lõng trong hàng trăm người châu Âu râu ria xồm xoàm. Ngay lập tức ông làm xôn xao trong hội nghị. Ngày đầu tiên, một nhiếp ảnh gia đã chụp ảnh ông và tấm ảnh đó đã được đăng trên số báo “Buổi Sáng” ngay ngày hôm sau xuất bản ở Paris. Cảnh sát được báo về sự có mặt của ông và ngay lập tức xuất hiện với lệnh bắt ông. Nhưng một số đại biểu đã vây quanh và ngăn không cho họ bắt. Cuối cùng cảnh sát đã bỏ cuộc.[11]

Cũng ngày hôm đó, Nguyễn Ái Quốc đã đứng lên phát biểu. Ông nói liền trong 12 phút không có sự chuẩn bị trước. Ông đi thẳng vào vấn đề, lên tiếng chỉ trích các chính sách thuộc địa của Pháp đàn áp và bóc lột đồng bào của ông. Ông nói, “Bất cứ ai phản đối đều bị bắt, nhà tù nhiều hơn trường học và các nhà tù chật cứng người bị bắt giữ. Người dân không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền tự do đi lại. Họ ép dân chúng hút thuốc phiện và uống rượu để mang lại lợi nhuận cho chính phủ Pháp, đánh thuế đối với cả hai mặt hàng trên.” Ông đề nghị, “Những người Pháp theo chủ nghĩa xã hội phải hành động để ủng hộ dân thuộc địa bị áp bức.”

Về điểm này, Nguyễn Ái Quốc bị Jean Longuet ngắt lời. Nhà lãnh đạo xã hội phản đối vì ông đã lên tiếng ủng hộ người bản xứ. Quốc đã trả lời bằng một giọng hài hước về quan niệm của Marx về chuyên chính vô sản “Tôi áp đặt chuyên chính im lặng”, và nói thêm, đảng Xã hội phải thúc đẩy mạnh mẽ tuyên truyền chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước thuộc địa. Ông nói, quyết định gia nhập Quốc tế Cộng sản III khẳng định, Đảng đã dự đoán đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Ông kết thúc với một lời kêu gọi: “Nhân danh toàn nhân loại, nhân danh tất cả những người theo phe xã hội chủ nghĩa cả cánh tả và cánh hữu, chúng tôi kêu gọi các bạn, các đồng chí hãy cứu chúng tôi”.

Sau khi Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu, Jean Longuet lại tiếp tục phát biểu và khẳng định công khai ủng hộ sự nghiệp của người Việt Nam tại Quốc hội và nói thêm rằng vấn đề này đang được thảo luận ở Quốc hội. Nhưng Paul Vaillant-Couturier, một ngôi sao đang lên của phong trào cấp tiến, đồng thời là người ủng hộ Nguyễn Ái Quốc mạnh mẽ nhất, vặn lại, điều cần thiết hiện nay không chỉ là cuộc thảo luận tại Quốc hội mà là hành động của Quốc hội vì các dân tộc bị áp bức.[12]

Ngày 27-12, Marcel Cachin đã chính thức đề nghị Đảng Xã hội Pháp chấp nhận điều kiện của Lenin về gia nhập Quốc tế Cộng sản III và Nguyễn Ái Quốc đã lên tiếng ủng hộ đề nghị này. Hai ngày sau, bản kiến nghị được hơn 70% số đại biểu ủng hộ. Các đại biểu phản đối việc gia nhập Quốc tế Cộng sản đã ùa ra khỏi phòng họp để phản đối. Những người còn lại bỏ phiếu từ bỏ Đảng Xã hội Pháp, thành lập Đảng cộng sản Pháp mới. Nhưng không có thêm cuộc thảo luận nào nữa về vấn đề thuộc địa và giới lãnh đạo đã bác bỏ một đề nghị, chắc chắn do Nguyễn Ái Quốc đưa ra, việc đưa ra một tuyên bố công khai ủng hộ nhân dân các nước thuộc địa.[13]

Tại Đại hội Tours, Nguyễn Ái Quốc đã thông báo cho các cộng sự biết, ông quyết tâm trở thành một người tích cực phát biểu đòi hỏi quan tâm nhiều hơn nữa đến nhu cầu của nhân dân các nước thuộc địa, coi đó là một nhân tố mang tính quyết định của cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản. Ông đã chứng minh bằng cả những lời bình luận công khai và không công khai, ông không chỉ lo lắng về thành công của cuộc cách mạng thế giới mà còn về số phận của đất nước ông. Tinh thần đó đã được phản ánh trong một lời nhận xét của ông với một người quen lúc đó: “Tôi đã không được may mắn theo học các khóa tại trường đại học. Nhưng cuộc sống đã cho tôi cơ hội học lịch sử, khoa học xã hội và thậm chí cả khoa học quân sự. Con người ta nên yêu thích cái gi và nên coi thường cái gì? Đối với người Việt Nam chúng tôi, cần phải yêu độc lập, yêu công việc và yêu tổ quốc”.[14]

Nhưng chẳng bao lâu sau ông đã thất vọng vì tất cả đảng viên của Đảng mới không theo theo quan điểm của ông. Tháng 2-1921, ông bị ốm và nằm viện một thời gian. Sau khi ra viện, ông viết một bài “Đông Dương” cho tờ “Tạp chí Cộng sản” số tháng tư. Trong bài báo đó, ông đã chỉ trích các đảng viên của Đảng cộng sản Pháp không quan tâm đúng mức tới các vấn đề thúc đẩy cách mạng ở thuộc địa và không nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống. Ông lý giải, mặc dù người Pháp đang cố tình hủy diệt tinh thần nhân dân Đông Dương, nhưng người Đông Dương không chết, không những thế “dân Đông Dương vẫn sống và sẽ sống mãi” – thật khó diễn đạt của chủ nghĩa Quốc tế vô sản Marxist. Qua bài báo cho thấy ông đã từ bỏ hy vọng làm cách mạng mà không cần đến bạo lực. Trong khi cho rằng Đông Dương vẫn chưa chín muồi để tiến hành cách mạng, chủ yếu là vì dân không được học hành, không có quyền tự do ngôn luận hay hành động – Theo ông dưới cái vỏ ngoài dễ bảo và thụ động “Có một cái gì đó đang âm ỉ trỗi dậy và chuyển động, đến một thời điểm thích hợp nó sẽ nổ tung khủng khiếp.” Ông lập luận, tiến trình đó nhanh chóng xảy ra hay không tuỳ thuộc vào tầng lớp trí thức. Ông kết luận “Sự chuyên chế của Chủ nghĩa Tư bản là sự chuẩn bị đất trồng. Chủ Nghĩa Xã Hội chỉ cần gieo hạt giải phóng”.[15]

Trong bài báo thứ hai cùng với tựa đề vào tháng năm, Nguyễn Ái Quốc đã thảo luận vấn đề liệu có nên áp dụng chủ nghĩa cộng sản ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không. Đây là một vấn đề rất thích hợp, vì tại thời điểm đó hầu hết những người châu Âu cấp tiến vẫn tin rằng ở hầu hết các nước “lạc hậu” nhất, còn lâu mới có cách mạng. Joseph Stalin cũng có bài đăng trên tờ “Sự Thật” (Pravda) cùng tháng vạch ra rằng các quốc gia tiến bộ, sau khi tự giải phóng mình, có nhiệm vụ giải phóng cho các “dân tộc lạc hậu”.

Trong bài báo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tranh luận với các quan điểm như vậy, lập luận rằng học thuyết và chiến lược Marx-Lenin phù hợp cả ở châu Á và phương Tây. Ông chỉ ra rằng ở Nhật Bản, nước châu Á đầu tiên trở thành nước tư bản chủ nghĩa, một đảng xã hội đã được thành lập. Trung Quốc tuy vẫn phụ thuộc vào châu Âu, Hoa Kỳ, vừa mới thức tỉnh và một chính phủ cách mạng mới do lãnh đạo phe nổi dậy Tôn Dật Tiên cầm đầu ở Nam Trung Quốc hứa hẹn khai sinh “một Trung Hoa được tái tổ chức và vô sản hoá”. Ông dự đoán, có thể một ngày không xa, Nga và Trung Quốc sẽ cùng tiến bước. Các dân tộc khác ở châu Á đang phải chịu đau khổ, Triều Tiên vẫn nằm dưới ách đô hộ của Nhật Bản, trong khi Ấn Độ và Đông Dương nằm trong tay những kẻ bóc lột Anh, Pháp.

Dự đoán của Nguyễn Ái Quốc về hợp tác giữa Trung Hoa và Nga là mang tính tiên tri. Lúc đó, ông đang bình luận về những sự kiện vừa xảy ra tại Trung Quốc, dẫn đến việc Tôn Dật Tiên liên minh với một nhà lãnh đạo quân sự để thành lập một chế độ cách mạng ở thành phố Quảng Châu. Tôn Dật Tiên sống lưu vong trong vài năm, sau khi nhà lãnh đạo chính trị Viên Thế Khải làm thất bại nỗ lực của các môn đệ của Tôn Dật Tiên xây dựng một Trung Quốc phương Tây hoá và tự mình giành quyền kiểm soát. Sau khi Viên Thế Khải qua đời năm 1916, Trung Quốc rơi vào rối loạn, do các tướng lãnh tranh quyền kiểm soát nhiều vùng ở Trung Quốc.

Nguyễn Ái Quốc lập luận, có những bằng chứng chắc chắn về lịch sử giải thích tại sao chủ nghĩa cộng sản thích nghi ở châu Á dễ dàng hơn ở châu Âu. Theo ông, người châu Á, dù bị người phương Tây coi là lạc hậu, hiểu rõ hơn sự cần thiết phải cải cách toàn diện xã hội đương thời. Họ cũng có thiện cảm đối với ý tưởng cộng đồng và công bằng xã hội. Trung Hoa cổ đại đã thực hiện một “sân chơi bình đẳng”, chia đất nông nghiệp ra thành các phần bằng nhau và để riêng một lô đất làm công thổ. Hơn 4.000 năm trước, Nhà Hạ đã áp dụng hình thức lao động bắt buộc. Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đại triết gia Khổng Tử đã dự đoán trước về Quốc tế Cộng sản và giảng thuyết bình đẳng về tài sản. Vị sư phụ này đã dự đoán, hoà bình thế giới sẽ không có khi chưa thiết lập nền cộng hoà toàn cầu. Ông giảng giải: “Không sợ ít mà chỉ sợ không được phân phối bình đẳng”. Môn đồ Mạnh Tử của ông tiếp tục theo học thuyết của thầy, xây dựng một kế hoạch cụ thể để tổ chức sản xuất và tiêu dùng. Trả lời một câu hỏi của nhà cầm quyền, Mạnh Tử nói “nhu cầu của nhân dân là trên hết, sau đó là nhu cầu của quốc gia, cuối cùng mới đến nhu cầu của quốc vương”.

Quốc đưa thêm dẫn chứng về truyền thống xã hội Á châu, ví dụ như, theo luật đất đai của Việt nam hạn chế việc mua bán đất, một phần tư tổng số đất canh tác được coi là đất công thổ quốc gia. Ông kết luận, do đó đến cái ngày mà hàng triệu người châu Á bị áp bức thức tỉnh, họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ có thể lật đổ chủ nghĩa đế quốc và sẽ giúp những người anh em ở phương Tây thực hiện sứ mạng giải phóng hoàn toàn khỏi sự bóc lột của tư bản. châu Á sẽ đóng vai trò tích cực trong cách mạng thế giới.[16]

Nguyễn Ái Quốc cũng dùng ngòi bút để xé toạc những bí ẩn của nền văn minh Pháp rực rỡ. Trong một bài báo viết vào tháng 9“Nền văn minh ưu việt hơn”, ông chế nhạo ba trụ cột của cách mạng Pháp “Tự do, Bình đẳng và Bác ái”, nêu ra những thí dụ về sự tàn ác của Pháp như đã được kể lại trong nhật ký của một người lính Pháp. Trong một bài báo ngắn được đăng vào tháng mười trên tờ Tự do (Le Liberte), ông kể lại một thí dụ của chính ông, khi còn là sinh viên ở Quốc Học Huế năm 1908, đã chứng kiến một đồng môn bị giáo viên người Pháp sỉ nhục một cách tàn nhẫn. Ông nhận xét một cách châm biếm rằng việc này xảy ra ngay dưới tấm bảng được treo ở mọi lớp học: HÃY YÊU NƯỚC PHÁP, NƯỚC PHÁP BẢO VỆ BẠN (Aimez la France qui vous protégé).[17]

Thái độ càng ngày càng trở nên cấp tiến của Nguyễn Ái Quốc khiến nhà chức trách Pháp theo dõi ông rất sát sao. Đầu năm 1921, một lần nữa ông lại bị triệu đến Bộ Thuộc địa để ông Albert Sarraut thẩm vấn. Bộ trưởng tuyên bố:

“Nếu nước Pháp trao trả Đông Dương cho các anh thì các anh cũng không quản lý được vì các anh không có đủ phương tiện”. Quốc trả lời “Trái lại, hãy nhìn vào nước Xiêm và Nhật Bản. Nền văn minh của hai nước này không lâu đời hơn nền văn minh của chúng tôi, thế mà họ vẫn sánh ngang với các nước trên thế giới. Nếu Pháp trả lại đất nước cho chúng tôi, nước Pháp chắc chắn sẽ thấy chúng tôi biết cách quản lý nó”. Khi nghe những lời này, ông Sarraut lảng sang chuyện khác.[18]

Quyết định gia nhập Đảng cộng sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc đã làm tăng thêm sự căng thẳng vốn đã có từ trước ở căn hộ Villa des Gobelins, nơi mà không phải tất cả các đồng sự đều tán thành những ý kiến của ông. Trong thời gian hội nghị Tours, Trần Tiến Nam, một người bạn thân nhất của ông, nói với một người quen rằng, các quan điểm cấp tiến của Quốc không được những người ở cùng căn hộ đồng tình. Vài tháng sau đó, cảnh sát tiếp tục báo cáo, các cuộc tranh luận gay gắt thường xuyên nổ ra.[19]

Mâu thuẫn giữa Nguyễn Ái Quốc và đồng sự của ông cuối cùng đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 7, sau khi trở nên căng thẳng hơn trong vài tháng. Ngày 6-7-1921, ông tham gia một cuộc biểu tình ở nghĩa trang Pere Lachaise, một quận phía đông Paris, nơi rất đông tầng lớp lao động sinh sống, để tưởng nhớ những người đã hy sinh trong thời kỳ Công Xã Paris năm 1871. Quốc bị cảnh sát đánh đập dã man nhưng may đã chạy thoát được. Tin tức về vụ việc đó làm cho một số người quen của ông lo lắng. Vài tuần sau đó, Trần Tiến Nam, một trong những thành viên ôn hoà hơn của nhóm, chuyển khỏi căn hộ, vì cho rằng những quan điểm chính trị của Nguyễn Ái Quốc là quá cấp tiến.

Ngày 11-7-1921, theo mật vụ báo cáo, một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra giữa Nguyễn Ái Quốc và những người bạn của ông, kéo dài từ 9 giờ tối đến tận sáng sớm hôm sau. Ngay hôm sau, cảnh sát bám đuôi thấy Quốc rời khỏi căn hộ đến ở với bạn là Võ Văn Toàn, số 12 đường Buot. Một tuần sau đó, bạn ông là Paul Vaillant-Couturier đã giúp tìm một căn hộ nhỏ ở số 9 ngõ Compoint, một ngõ cụt ở Batignolles, khu công nhân ở tây bắc Paris.[20]

Chỗ ở mới của Nguyễn Ái Quốc vô cùng đơn sơ, kém tiện nghi so với nơi ở tương đối rộng rãi và đầy đủ tiện nghi ở Villa des Gobelins. Căn hộ một phòng chỉ đủ kê một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và một tủ quần áo. Cửa sổ duy nhất lại nhìn sang bức tường của nhà kế bên, muốn nhìn trời, ông phải nghển cổ ra khỏi cửa sổ. Không có điện nên ông phải dùng đèn dầu; không có nước nên ông dùng một cái chậu để rửa mặt và giặt quần áo ở bên ngoài. Để sưởi ấm, ông dùng một viên gạch đã ủ nóng trong lò sưởi của chủ nhà, sau đó gói vào một tờ giấy. Ngày ăn hai bữa gồm một ít cá muối hoặc chút thịt. Đôi khi ông chỉ ăn một mẩu bánh mì và phô-mai.[21]

Nguyễn Ái Quốc chia tay nhóm bạn ở Villa des Gobelins, chuyển đến nơi ở mới cũng khiến ông phải thay đổi chỗ làm. Ông vẫn làm thợ sửa ảnh cùng với Phan Chu Trinh cho đến tháng 7-1920. Sau đó, theo đơn khai của ông gửi cho cảnh sát ngày 17-9, ông trở thành một người trang trí tranh tường Trung Quốc cho một người Hoa sản xuất đồ gỗ giả cổ ở khu La-tinh. Tháng 9, khi công nhân ở cửa hàng đình công, ông nhận một việc mới ở cửa hàng nhiếp ảnh ở phố Froidevaux, chỉ cách căn hộ mới của ông mấy nhà ở ngõ Compoint. Là thợ học nghề, ông chỉ kiếm được 40 quan một tuần.[22]

Hoàn cảnh túng quẫn của Nguyễn Ái Quốc không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống. Ông vẫn thường xuyên tham dự các cuộc họp chính trị, các cuộc biểu diễn nghệ thuật và thường xuyên đến Thư viện Quốc gia. Trong các hoạt động, ông gặp những nhân vật nổi tiếng như ca sĩ kiêm diễn viên Maurice Chevaliet và nhà viết truyện ngắn Colette. Theo báo cáo của cảnh sát, ông thường tiếp đãi khách thăm, nấu bữa tối gồm rau xanh và xì dầu, uống trà ướp hoa nhài ở bếp lò nhỏ trên một cái bàn ở góc căn hộ. Mặc dù lương của ông sau khi đã trả tiền thuê nhà, tháng chỉ còn lại chút xíu, ông vẫn cố gắng đến dự nhiều cuộc họp trên khắp nước Pháp, điều này làm cho mọi người thấy ông nhận được tiền trợ giúp từ Đảng cộng sản.

Việc Nguyễn Ái Quốc chia tay với nhóm ở căn hộ Villa des Gobelins diễn ra nhanh hơn dự đoán là do bất đồng về quyết định thành lập Uỷ ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, thúc đẩy việc học chủ nghĩa Marxist ở các thuộc địa của Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành một thành viên tích cực và giữa tháng 6-1921, ông đưa Phan Chu Trinh đến một trong những cuộc họp của Uỷ ban. Vài tuần sau, ông dự cuộc họp thứ hai tại Fontainebleau, cách Paris 60 cây số về phía đông nam. Hai ngày sau khi trở về, ông đã có cuộc khẩu chiến cuối cùng tại căn hộ.[23]

Một trong những kết quả tức thì của việc thiết lập Ủy ban Nghiên cứu Thuộc địa là việc hình thành một tổ chức mới đại diện cho công dân các nước thuộc địa ở Pháp, đó là Liên hiệp Thuộc địa. Trong vài tháng, Nguyễn Ái Quốc đã cân nhắc việc thiết lập một nhóm như vậy. Trong một cuộc nói chuyện với một người quen khi nằm ở bệnh viện tháng 2-1921, ông có nhắc đến sự cần thiết phải thiết lập một tổ chức dưới hình thức của một hiệp hội tương hỗ để đoàn kết nhân dân các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Cũng chỉ trong vài tháng, Hội những người yêu nước An Nam của ông đã hợp tác không chính thức với một nhóm người Madagasca - thuộc địa của Pháp - và thiết lập một uỷ ban hành động chung để điều phối các hoạt động chính trị. Các nhóm tương tự đã được những người châu Phi sống ở Paris và London thiết lập. Giờ đây, theo lệnh của uỷ ban, hình mẫu hợp tác không chính thức này được thể chế hoá bằng việc thành lập Liên hiệp Thuộc địa, Liên hiệp tự cho mình có tiếng nói chủ chốt trong việc bảo vệ lợi ích của mọi người dân của các nước thuộc địa đang sinh sống ở Pháp. Thành lập từ tháng 7-1921, liên hiệp này có gần 200 thành viên. Hầu hết là người Madagasca và Việt Nam, một số là người Bắc Phi và Tây Ấn. Theo bản tuyên ngôn đưa ra, mục tiêu công khai có tính ôn hoà của tổ chức này là chỉ tìm cách thông báo cho nhân dân các nước thuộc địa về những sự kiện xảy ra ở Pháp và nghiên cứu tất cả các vấn đề chính trị và kinh tế ở các nước thuộc địa - trừ mục tiêu cuối cùng là tìm cách xoá bỏ hệ thống thuộc địa Pháp.[24]

Ngay từ đầu, Nguyễn Ái Quốc là động lực chính của tổ chức mới này. Ông được bầu vào Ban điều hành cùng với một số đảng viên có uy tín khác của Đảng cộng sản Pháp - người đồng hương của ông là Nguyễn Thế Truyền, Max Bloncourt, một thành viên người Madagasca và Hadj Ali người Algerie. Ông Quốc là ủy viên của ban điều hành và thường xuyên tham dự các cuộc họp của ban. Các cuộc họp lúc đầu diễn ra ở đại lộ Valois, gần công viên Monceau. Được Đảng cộng sản Pháp tài trợ một phần, trụ sở của Liên hiệp nằm ở số 3 Marché des Patriarches, một con đường hẹp gần ga Austerlitz ở tả ngạn sông Seine. Với nhiều nỗ lực, ông đã bước đầu hợp nhất được các quyền lợi khác nhau của các nhóm. Theo như báo cáo của cảnh sát Pháp, điều này không dễ thực hiện chút nào. Sự ghen tị và cạnh tranh giữa các nước thường xuyên làm gián đoạn các hoạt động của nhóm, trong khi những người cánh tả gốc châu Âu thỉnh thoảng than phiền, họ bị ngăn không cho gia nhập tổ chức này một cách bất công vì hàng rào sắc tộc. Một số thành viên người Việt cáo buộc, các hoạt động giao lưu văn hoá được chú trọng quá nhiều và yêu cầu lập lại một tổ chức thuần túy của người Việt. Người châu Phi vặn lại rằng các thành viên châu Á cố chấp và ngạo mạn. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng khó có thể đưa những người dân thuộc địa vốn rất khác nhau vào cùng một tổ chức hoạt động theo chung một nguyên tắc.[25]

Số người tham gia các cuộc họp toàn thể của đại hội liên hiệp đã giảm từ cao điểm 200 xuống còn 50 người mỗi phiên. Tại phiên họp tháng 2-1923 chỉ còn 27 thành viên tham dự. Trong đó có hai thành viên là phụ nữ Pháp. Hai người này đều được cho là tình nhân của các nhà hoạt động. Nguyễn Ái Quốc cũng có nữ liên lạc viên, mặc dù người ta không rõ người bạn gái của ông có tham gia các hoạt động cấp tiến hay không. Ông đạt được thành công nhỏ: Phan Văn Trường, một thời từng cộng tác với ông soạn thảo yêu sách gửi các nhà lãnh đạo đồng minh ở Versailles, đồng ý gia nhập Liên hiệp.[26]

Công tác tổ chức Liên hiệp Thuộc địa không phải là hoạt động duy nhất của Nguyễn Ái Quốc trong những năm cuối cùng sống ở Paris. Qua liên lạc với các nhân vật cấp tiến Pháp, ông đã nhận biết giá trị của báo chí trong việc tuyên truyền về công cuộc cách mạng. Đầu năm 1922, được sự khuyến khích của Ủy ban Nghiên cứu Thuộc địa và các thành viên khác của Liên hiệp Thuộc địa, ông quyết định thành lập một tờ báo mới có mục đích kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa đang sống tại Paris, và cũng là tiếng nói của nhân dân các nước thuộc địa trên khắp đất Pháp. Tờ báo này có tên “Người Cùng Khổ” (Le Paria), bằng tiếng Pháp, nhưng tiêu đề của nó được in bằng tiếng Trung Quốc và tiếng Ả-rập. Số báo đầu tiên ra ngày 1-4-1922, các số tiếp theo ra đều đặn hàng tháng; sau đó, do các khó khăn về tài chính chồng chất nên các số báo phát hành thưa dần. Tờ báo có hình thức và kiểu cách đơn giản, mục đích thông báo độc giả tin tức và quan điểm về các vấn đề thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc, hoạt động không mệt mỏi, là chủ biên của tờ báo này. Ông cũng là cây viết chính cho tờ báo và khi những người khác vắng mặt ông thậm chí kiêm vẽ tranh minh họa, duyệt báo và chuyển báo đến với người mua định kỳ. Như ông đã kể lại:

“Có lần tôi vừa là chủ bút kiêm thủ quỹ, nhà phân phối tờ Người cùng khổ, vừa là người bán. Các đồng chí từ các nước thuộc địa châu Á, châu Phi viết bài và kêu gọi sự đóng góp, tất cả những việc còn lại đều do tôi đảm nhiệm”.

Qua các trang báo “Người Cùng Khổ”, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục cải tiến phong cách viết báo của mình. Trong các bài xã luận - thỉnh thoảng mỗi số báo có hai đến ba bài xã luận - ông viết về các vấn đề quốc tế. Lúc là một bài báo phê phán một khía cạnh nào đó của đời sống thuộc địa, thí dụ như hành động độc ác của chính quyền Pháp ở châu Phi hoặc Đông Dương. Lúc là một mẩu chuyện về cuộc sống ở nước Nga Xô Viết, luôn được tả như một bức tranh về cảnh đồng quê thơ mộng, dù ông chưa bao giờ đặt chân đến đó.

Bài viết của ông không có gì đặc biệt. Ông đã biết được tầm quan trọng của việc dùng lối viết đơn giản và trực tiếp qua việc đọc các tác phẩm của Lev Tolstoy, tác giả của những cuốn tiểu thuyết ông ưa thích. Những bài báo của ông cũng không đủ độ tinh tế. Ông chủ yếu dựa vào các thực tế và con số để đưa ra quan điểm, dường như đối với độc giả, ông là một cuốn từ điển thống kê sống về cuộc sống ở các nước thuộc địa, từ mức thuế thân ở Bờ Biển Ngà đến ngân sách thuộc địa giành cho Đông Dương thuộc Pháp. Khi ông không chôn vùi kẻ thù trong đống dữ liệu của mình thì ông sử dụng cách nói châm biếm, nhưng ngôn từ của ông không đủ sức mỉa mai, châm biếm như Lỗ Tấn, một nhà văn tài hoa của Trung Quốc. Ông có xu hướng bỏ qua lý luận, dựa vào việc chỉ trích một cách cay nghiệt trực diện hệ thống thuộc địa và những tác động tàn bạo đối với những người bị đè nặng bởi guồng máy cai trị.

Trong những năm sau, nhiều nhà nghiên cứu về ông ngỡ ngàng khi thấy một người có sức thu hút cá nhân lớn như vậy và một nhân cách tinh tế lại có một lối viết tẻ nhạt và tầm thường đến thế. Tuy nhiên, đây chính là điểm mấu chốt tính cách ông và hiệu quả chính trị trong nhiều năm. Không giống nhiều nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa Marx khác, Nguyễn Ái Quốc thấy độc giả của mình không chỉ bao gồm chủ yếu là trí thức mà còn có cả dân thường như công nhân, nông dân, bộ đội và nhân viên hành chính. Ông không muốn gây ấn tượng đối với độc giả bằng trí tuệ uyên bác mà ông cố gắng thuyết phục họ bằng cách viết đơn giản, sinh động để chia sẻ thế giới quan và quan điểm của ông về phương cách tạo nên thay đổi. Những bài tệ nhất của ông gây nhàm chán đối với độc giả tinh tế. Những bài tốt nhất đôi khi gây phản ứng mạnh mẽ mỗi khi ông mô tả nỗi kinh hoàng của hệ thống thuộc địa.

“Người Cùng Khổ” chẳng mấy chốc trở thành nổi tiếng, là tiếng nói chủ chốt ủng hộ những người bị áp bức ở Pháp. Như Nguyễn Ái Quốc đã viết sau này:

“Chúng tôi bán báo cho các công nhân Việt Nam, tuy họ không đọc được Pháp ngữ, nhưng thích mua bởi vì họ biết rằng tờ báo chống Tây và sau khi mua nhờ các công nhân Pháp đọc hộ. Ngoài ra, ở Paris còn có những nơi mà chúng tôi có thể bán nhiều báo và có lãi. Bởi vì họ và chúng tôi đều là những người đồng chí, họ bán báo không lấy tiền thù lao, nhưng bán không được nhiều, bởi vì trên thực tế mọi số Người Cùng Khổ in ra đều bị Bộ Thuộc địa Pháp tìm mọi cách mua”.[27]

Bất cứ ai bị bắt quả tang đang đọc báo này sẽ bị bắt ngay lập tức. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách bí mật chuyển báo đến các thuộc địa. Lúc đầu ông thu xếp để các thuỷ thủ có thiện cảm với cách mạng mang báo trong hành lý của họ. Khi các nhà chức trách Pháp bắt được lại có một cách mới. Cuối cùng, các báo được gửi đi bằng cách nhét vào các đồng hồ giả. Đó là một cách tuyên truyền tốn kém nhưng đạt được mục đích.

Tuy nhiên, thiếu kinh phí vẫn luôn là vấn đề phải lo liệu. Tờ báo nhận được trợ cấp thường xuyên từ Liên hiệp Thuộc địa, nhưng ít nhất nó phải tự trang trải một phần kinh phí. Nhìn chung, tờ báo bán không chạy. Số báo đầu tiên có 300 độc giả đặt báo, nhưng sau đó giảm xuống 200 trong tổng số 1.000 bản in cho mỗi số. Một số được bán tại các cuộc họp của Liên hiệp, vài trăm tờ được gửi qua nhiều đường khác nhau đến các nước thuộc địa. Số còn lại được bán tại các cửa hàng nhỏ. Chưa đủ, báo này còn được đem cho không. Cảnh sát vẫn lo ngại về tờ báo, họ cho là phương tiện tuyên truyền của cộng sản. Tất cả những người đăng ký mua báo dài hạn đều nằm trong sổ đen của cảnh sát.[28]

Nguyễn Ái Quốc tiếp tục viết bài cho các báo và tạp chí cánh tả khác ở Paris. Ông cũng đã chuyển sang viết truyện. Năm 1922, Vua Khải Định được mời sang Pháp nhân kỷ niệm và dự triển lãm thuộc địa được tổ chức tại Marseilles từ tháng tư đến tháng tám. Tin đồn có âm mưu ám sát và một số người nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc hoặc Phan Chu Trinh có liên quan đến vụ này. Nhằm tránh dư luận không có lợi, Albert Sarraut cố thuyết phục Phan Chu Trinh không tỏ ra phản đối chuyến thăm đó, nhưng Trinh đã bỏ qua đề nghị đó và viết một bức thư công khai gửi vua Khải Định. Trong thư, ông cực lực chỉ trích vai trò của nhà vua như một nhà cầm quyền bù nhìn một nước bại trận. Nguyễn Ái Quốc cũng nhân dịp đó thúc đẩy những mục tiêu của riêng, chủ biên các bài báo viết về chuyến thăm này, tự tay viết một bức thư, công bố vào ngày 9-8-1922, trên tập san Nhân Dân (Journal du Peuple). Bức thư mô tả Khải Định như một thứ đồ trang sức rẻ tiền trưng bày tại cuộc triển lãm hoặc bày trong tủ kính cửa hàng trong khi thần dân của ông sống khổ sở, ngập ngụa trong vũng bùn. Ông cũng sáng tác một vở kịch có tên “Con Rồng Tre”, nhạo báng vị hoàng đế và chuyến đi Pháp theo nghi lễ hoàng gia. Vở kịch trình diễn thời gian ngắn tại Câu lạc bộ Faubourg, nhưng để lại ấn tượng sâu sắc với khán giả. Tin đó lan sang Đông Dương, nó càng gây thêm sự chia rẽ giữa hai cha con Nguyễn Ái Quốc. Khi được thông báo về các nhận xét của Quốc, ông Sắc tuyên bố, “bất cứ người con trai nào không chấp nhận vua thì cũng chẳng công nhận cha mình”.[29]

Chuyến thăm của vua Khải Định là cơ hội cuối cùng để Nguyễn Ái Quốc và Phan Chu Trinh cùng đứng về một phe trong vấn đề chính trị, nhưng họ đã không thể thống nhất về phương thức tốt nhất để giải phóng đất nước. Tháng 2-1922, ông Trinh gửi một bức thư cho người đồng sự trẻ tuổi trong khi ông thăm Marseilles. Bức thư không đả động đến sự khác biệt rõ ràng về ý thức hệ giữa hai người mà tập trung vào vấn đề chiến thuật.

Trong khi giữ quan điểm của mình, coi trọng việc nêu cao tinh thần và tri thức của người Việt Nam thông qua giáo dục, ông Trinh công nhận rằng ông là người bảo thủ và một “con ngựa già đã mệt” so sánh với Quốc, “con tuấn mã hăng say”. Nhưng ông lập luận rằng Quốc đang phí thời gian ở lại nước ngoài, viết những bài báo bằng thứ tiếng mà chẳng mấy người Việt Nam hiểu được. Ông nói, đó là sai lầm của Phan Bội Châu khi ông tìm cách tuyển những người yêu nước sang học ở Nhật Bản. Ông khuyên Quốc nên về nước, kêu gọi người dân trong nước. Ông kết luận, nếu được như vậy, “tôi tin rằng học thuyết mà anh hằng ấp ủ có thể được thấm nhuần trong tâm trí nhân dân chúng ta. Ngay cả nếu anh có thất bại thì những người khác sẽ tiếp tục gánh vác nhiệm vụ đó”.[30]

Nguyễn Ái Quốc đang quá thiết tha với sự nghiệp đang tiến triển của mình trong phong trào cách mạng Pháp đến mức không lưu ý đến lời khuyên của ông Trinh. Trong vòng vài năm, từ chỗ được ít người biết đến, ông đã trở thành người đi đầu trong phong trào cấp tiến ở Pháp, thành viên có uy tín nhất của cộng đồng người Việt ly hương. Được sự trợ giúp của Georges Pioch, -trí thức cấp tiến uy tín có liên hệ với Câu lạc bộ Faubourg-, ông đã trau dồi kỹ năng nói và bắt đầu tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận với các đảng viên có uy tín của Đảng cộng sản Pháp. Tại Đại hội đầu tiên của Đảng tổ chức ở Marseilles cuối tháng 12-1921, ông đã phát biểu về vấn đề thuộc địa và được bầu làm đại diện của quận Seine.

Ngay sau khi Quốc đến Marseilles dự Đại hội, hai cảnh sát mặc thường phục tìm cách bắt, nhưng ông đã thoát hiểm và đến được toà nhà nơi đang diễn ra cuộc họp. Cuối thời gian diễn ra hội nghị, ông được các đại biểu hộ tống qua nhóm cảnh sát tuần tra đến một nơi bí mật cho tới khi ông có thể trở lại Paris.

Tại thủ đô, cảnh sát tiếp tục giám sát mọi hành động đi lại của Nguyễn Ái Quốc, vào tháng 11, có thể do áp lực từ cảnh sát, ông đã bị chủ đuổi việc tại cửa hàng nhiếp ảnh gần căn hộ ông ở. Thất nghiệp, ông tìm các công việc khác, nhưng cuối cùng ông đã quay lại với nghề nhiếp ảnh bằng cách mở một cửa hiệu nhỏ ở ngay căn hộ của ông. Ông chỉ làm việc vào buổi sáng, thời gian còn lại tham gia các hoạt động chính trị.[31]

Là đảng viên hàng đầu của Đảng cộng sản Pháp và đại diện có uy tín nhất của các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục thu hút sự quan tâm đáng kể của cơ quan an ninh Pháp. Cảnh sát theo dõi chặt chẽ các hoạt động hằng ngày và hai đặc vụ được cử riêng để theo dõi ông thường xuyên. Ngày 22-6-1922, Albert Sarraut một lần nữa mời ông đến Bộ Thuộc địa để thẩm vấn. Trong suốt cuộc gặp, Bộ trưởng hết đe doạ lại mua chuộc ông. Sarraut mở đầu cuộc nói chuyện bằng việc tuyên bố, những kẻ gây rối liên kết với các phần tử “Bolsevich” ở Pháp đang có dự tính gây rắc rối ở Đông Dương tất yếu sẽ bị đập tan. Nhưng ông ta nói thêm, ông ngưỡng mộ những người như Nguyễn Ái Quốc vì có mục đích vững vàng và quyết tâm đạt mục đích đó. Nhưng với sức mạnh của ý chí cần phải có sự hiểu biết, Sarraut kết luận, những gì đã qua thì cho qua. “Nếu ông cần bất cứ điều gì tôi luôn sẵn sàng phục vụ ông. Bây giờ chúng ta đã biết nhau, ông có thể đề cập thẳng với tôi”, Nguyễn Ái Quốc đứng dậy và cảm ơn Bộ trưởng, nói “Mục tiêu chính của cuộc đời tôi và cái mà tôi cần nhất là tự do cho đồng bào tôi. Tôi có thể đi được chưa?”[32]

Vài ngày sau, Quốc viết một bức thư gửi Bộ Thuộc địa, thư này được đăng trên tờ “Người Cùng Khổ”, “Nhân Đạo” (nay là cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Pháp) và “Nhân Dân”. Ông bày tỏ lòng biết ơn về việc các nhà cầm quyền Pháp đã cung cấp cho ông một “sĩ quan cận vệ riêng” (rõ ràng là ám chỉ đến sự theo dõi của mật vụ) và nhận xét rằng:

“Trong khi Quốc Hội đang cố tìm cách tiết kiệm tiền, giảm biên chế hành chính do ngân sách thâm hụt quá lớn, ngành nông nghiệp và công nghiệp thiếu lao động, nhà nước tăng thuế đánh vào lương công nhân và khi việc tái ổn định dân số để có nhiều sức sản xuất chưa hoàn thành, nếu ai đó chấp nhận ân huệ mà ân huệ cá nhân ấy làm yếu quyền lực của công dân - các sĩ quan phụ tá - người đó không phải là người yêu nước, họ chỉ là kẻ vô dụng, xài đồng tiền mà giai cấp vô sản phải đổ mồ hôi mới kiếm được”.

Ông nói thêm, để giải quyết vấn đề này, ông thông báo công khai các hoạt động thường ngày của mình:

Buổi sáng: từ 8-12 giờ ở xưởng

Buổi chiều: ở toà báo (tất nhiên của cánh tả) hoặc thư viện.

Buổi tối: ở nhà hoặc tham dự các cuộc nói chuyện mang tính giáo dục.

Chủ nhật và các ngày nghỉ: thăm các bảo tàng và các nơi khác.

Chỉ có vậy.

Hy vọng rằng cách làm việc thuận tiện và hợp lý này sẽ làm cho Ngài hài lòng, chúng tôi xin gửi lời chào.

Nguyễn Ái Quốc[33]

Rất có thể Sarraut không thấy bức thư ngắn của Nguyễn Ái Quốc mang tính châm biếm một chút nào, vẫn tiếp tục quan tâm đến hành tung của Quốc. Có lần Sarraut gửi cho Toàn quyền Maurice Long ở Đông Dương một bức điện, thông báo chính phủ đang xem xét đề nghị bắt Nguyễn Ái Quốc và trả ông về nước. Tuy nhiên, Long nhìn nhận vấn đề theo một cách riêng, ông lập luận, nếu để Quốc ở Pháp sẽ dễ theo dõi các hoạt động của Quốc hơn. Khi Sarraut đề nghị đày Quốc đến một vùng chịu ảnh hưởng của Pháp ở nam Trung Hoa, Long trả lời ông Quốc có thể sẽ gây ảnh hưởng đối với các sự kiện ở Đông Dương từ một nơi gần về mặt địa lý như vậy.[1]

Cho đến lúc đó, việc các nhà chức trách gây khó khăn chỉ gây khó chịu không đáng kể cho Nguyễn Ái Quốc, nhưng thái độ của các đồng chí đối với cuộc đấu tranh chung mới khiến ông buồn nản hơn nhiều. Mặc cho mọi nỗ lực, nhưng người bạn Pháp vẫn bỏ qua không coi vấn đề thuộc địa quan trọng. Sau sự khởi đầu được quảng cáo rầm rộ, Ủy Ban Nghiên Cứu Thuộc Địa đã thật sự rơi vào tình trạng suy thoái. Các tạp chí của đảng ít khi đề cập đến vấn đề thuộc địa. Ông phàn nàn, ngay cả tờ “Nhân Đạo” cũng không đề cập đến sự nghiệp của nhân dân thuộc địa trong một vai trò xứng đáng. Ông viết, các tờ báo của giai cấp tư sản còn đưa tin nhiều hơn đến các thuộc địa, trong khi đó rất nhiều chiến hữu “vẫn nghĩ rằng các thuộc địa chả có gì ngoài đất cát dưới chân và nắng chói chang trên đầu. Hầu như chỉ có vậy”.

Ông Quốc than vãn việc Đảng cộng sản Pháp không giải quyết vấn đề thuộc địa dẫn đến việc thiếu hiểu biết chung giữa giai cấp công nhân Pháp và giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Các công nhân Pháp coi dân bản xứ là kém cỏi hơn và không đáng kể, không hiểu biết chứ chưa nói gì đến hành động. Tuy nhiên, ông cũng công nhận thành kiến đến từ cả hai phía. Ở các thuộc địa, tất cả những người Pháp, bất kể thuộc tầng lớp nào, đều bị coi là “những kẻ bóc lột tàn ác”.[2]

Nguyễn Ái Quốc kiên trì thúc giục đồng chí của mình về vấn đề thuộc địa. Tại đại hội Đảng cộng sản Pháp tổ chức tại Paris tháng 10-1922, ông và đại diện các nước thuộc địa trình một nghị quyết thúc giục phong trào Cộng sản thế giới chú ý hơn nữa đến vấn đề thuộc địa. Nhưng sau hội nghị Tours và những người có ý kiến ôn hoà ra đi, thái độ trọng châu Âu vẫn bao trùm trong các phần tử cấp tiến gia nhập Đảng cộng sản. Đôi khi giới lãnh đạo có những cố gắng không dứt khoát trong việc tổ chức cộng đồng công nhân Việt Nam ở Pháp (đa số là những người lao động chân tay, công nhân bốc vác và đầu bếp). Một vài người Việt được bổ nhiệm vào các chức vụ có uy tín của đảng, nhưng chỉ là những chuyện nho nhỏ như vậy.

Sự bất bình của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề này có thể đã làm tăng giọng chống Pháp trong các bài viết của ông. Cuối năm 1921, khi trở về từ Marseilles, nơi ông chứng kiến điều kiện làm v