← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IV CON RỒNG CHÁU TIÊN

dịch giả: lâm hoàng mạnh - nguyễn học

CHƯƠNG IV

con rồng cháu tiên

guyễn Ái Quốc quay trở về Á châu vào cuối năm 1924 khác hẳn so với châu Á ông ra đi 13 năm trước. Trong khi hệ thống thuộc địa ở Nam và Đông Nam Á vẫn không thay đổi sau Thế Chiến I (1914-1918), tình hình ở Trung Hoa đã thay đổi mạnh mẽ. Mùa thu năm 1911, một biến động lớn đã gây ra sự tan rã của hệ thống phong kiến ở Bắc Kinh. Vào tháng sáu, bốn tháng sau khi Nguyễn Ái Quốc rời cảng Nhà Rồng, một cuộc nổi dậy của các thành viên đảng cách mạng của Tôn Dật Tiên dẫn đến sự sụp đổ triều đại Mãn Thanh rất nhanh chóng và ra đời một chính phủ mới ở Trung Hoa. Nhưng những đảng viên của Tôn Dật Tiên đã không tận dụng được tình thế. Tướng Viên Thế Khải,- tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Mãn Thanh, khéo léo và khôn ngoan cả về chính trị lẫn quân sự, -tháng 2 năm 1912-, ông Tôn buộc phải nhường cho tướng Viên Thế Khải chức tổng thống nước cộng hoà mới sẽ được thiết lập ở Bắc Kinh.

Viên Thế Khải hy vọng sẽ thành lập một triều đại mới mang tên mình nên ra sức khôi phục luật pháp và lập lại trật tự dựa vào các phương pháp cai trị của nền quân chủ chuyên chính cũ. Điều này gây xung đột với đảng của Tôn Dật Tiên mà số đảng viên của Tôn chiếm gần một nửa số ghế trong Quốc Hội mới được thành lập. Tháng Giêng năm 1914, Viên giải tán quốc hội, nắm quyền cai trị bằng sắc lệnh, tuyên bố đảng của Tôn vi phạm pháp luật. Tôn Dật Tiên trốn sang Nhật. Nhưng khi Viên chết đột ngột sau cơn bạo bệnh năm 1916, Trung Hoa lại bắt đầu lâm vào khủng hoảng, tan rã, vì các tư lệnh vùng đã trở thành các lãnh chúa nắm quyền kiểm soát từng tỉnh trên toàn quốc. Mặc dù chính phủ suy yếu nhưng vẫn nắm quyền ở Bắc Kinh, làn sóng bất an trong xã hội và sự chống đối của giới trí thức bắt đầu bùng nổ khắp nơi. Năm 1919, nhiều cuộc biểu tình lớn của sinh viên đã nổ ra ở thủ đô và các thành phố lớn khác. Cùng năm đó, Tôn Dật Tiên đã thiết lập thành công cơ sở đảng cách mạng, - tên mới Quốc Dân Đảng-, ở Quảng Châu, thủ phủ của tỉnh Quảng Đông, dưới sự bảo hộ của Trần Quýnh Minh tư lệnh vùng. Tháng Tư năm 1921, Tôn Dật Tiên chính thức tuyên bố thành lập một chính phủ quốc gia mới do ông làm tổng thống.

Trong hai năm liền sau cuộc cách mạng Bolshevik, chính phủ Xô Viết mới ở Moscow không thể tận dụng được những sự kiện đang diễn ra ở Trung Hoa và lúc này chính phủ buộc phải quan tâm hơn đến việc thiết lập quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ rộng lớn một thời thuộc đế chế Nga ở Seberia, lúc đó đang bị các lực lượng chống cộng chiếm giữ. Đến mùa xuân năm 1920, Liên Xô đã củng cố xong sự thống trị ở vùng này, Ban Bí thư Viễn Đông được thành lập ở Irkutsk để trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của cộng sản ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương rộng lớn. Tháng Tư năm đó, Grigory Voitinsky, đặc vụ của Đệ Tam Quốc Tế đóng ở Irkutsky đi Bắc Kinh. Sau khi dừng lại ở Bắc Kinh một thời gian ngắn, ông đi tiếp đến Thượng Hải, giúp địa phương thành lập một tổ chức lâm thời gồm những nhà cách mạng đang hoạt động trong thành phố. Hè năm sau, những người theo đường lối cấp tiến trên khắp đất nước Trung Hoa đã tập trung tại Thượng Hải, chính thức thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Một trong những quyết định đầu tiên mà đảng mới phải đưa ra là có hợp tác với chế độ cách mạng mới của Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu hay không. Một số đảng viên, do tin rằng các thành viên chủ chốt của đảng của ông Tôn Dật Tiên về cơ bản là phản cách mạng, nên không muốn hợp tác với Quốc dân đảng. Nhưng nhà cộng sản người Hà Lan, ông Maring, người kế nhiệm Voitinsky làm trưởng đại diện của Quốc tế Cộng sản ở Trung Hoa lại rất cương quyết. Tháng 1-1923, Tôn Dật Tiên và đại diện Liên Xô Adolf Joffe đã ký một thoả thuận ở Thượng Hải nhằm thiết lập một mặt trận thống nhất giữa hai đảng và dàn xếp để Liên Xô hỗ trợ cho việc hoàn thành thống nhất Trung Hoa. Thoả thuận đó, được mô tả là “liên minh bên trong”, kêu gọi các đảng viên đảng cộng sản Trung Quốc gia nhập Quốc dân đảng, là lực lượng chính trị chủ chốt ở Quảng Châu.[1]

Từ cuối năm 1923, hai đảng này với sự giúp đỡ phái bộ mới của Cộng sản Quốc tế Mikhail Borodin, bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc hành trình về phương bắc để hạ bệ các lãnh chúa tư lệnh tham lam ở Trung Hoa kể từ sau cái chết của Viên Thế Khải. Tuy là thành phần nhỏ trong liên minh và thiếu sự ủng hộ cũng như uy tín như Quốc Dân Đảng, nhưng Đảng cộng sản Trung Quốc là một lực lượng mới, năng động trong nền chính trị Trung Hoa, một đảng của tương lai chứ không phải của quá khứ.

Ở Đông Dương thuộc Pháp cũng đang có những thay đổi, mặc dù không cùng tốc độ với Trung Hoa. Dân số của ba vùng này gia tăng nhanh chóng. Từ bảy triệu năm 1880 đã lên đến khoảng mười sáu triệu năm 1926, với sáu triệu ở Bắc Kỳ, năm triệu ở Trung Kỳ và khoảng bốn triệu ở Nam Kỳ. Mặc dù hơn ba phần tư dân số vẫn sống ở nông thôn, dân số thành thị đã tăng mạnh, lên đến gần một triệu người vào giữa những năm 1920. Hầu hết sống ở các thành phố lớn Sài Gòn và Hà Nội.

Trong mười ba năm kể từ khi Nguyễn Ái Quốc rời Sài Gòn, phong trào khôi phục nền độc lập của Việt Nam đã mất chỗ đứng. Với việc Phan Châu Trinh bị bắt và đày sang Pháp, người chủ trương cải cách phi bạo lực uy tín nhất đã tạm thời im lặng. Trong khi đó, tổ chức của Phan Bội Châu - một thời đầy hứa hẹn, được sự ủng hộ của nhiều nhà yêu nước có uy tín nhất Việt Nam - đã dần dần không còn quan trọng như trước nữa sau nhiều lần nổi dậy không thành công và tiếp đó là việc chính nhà lãnh đạo phong trào dân tộc chủ nghĩa bị bắt và bị đày ở nam Trung Hoa.

Khi nghe tin về cuộc Cách mạng Tân Hợi năm 1911 ở Trung Hoa, Phan Bội Châu bỏ kế hoạch thành lập một chế độ quân chủ lập hiến và thay vào đó thành lập một chính đảng mới - Quang Phục Hội - nhằm thiết lập một nền cộng hoà độc lập theo mô hình của Tôn Dật Tiên. Phan Bội Châu hy vọng sẽ được Trung Hoa giúp đỡ để lật đổ Pháp. Trong một cuộc họp với Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu đầu năm 1912, ông Tôn hứa với Phan Bội Châu, Việt Nam sẽ là nước đầu tiên được Trung Hoa giúp đỡ một khi các nhà cách mạng củng cố và nắm quyền ở Trung Hoa. Tuy nhiên, ít lâu sau, Phan Bộ Châu bị một tư lệnh địa phương bắt vì tội thực hiện các hoạt động lật đổ. Phan Bội Châu ra tù năm 1917, đảng của Tôn Dật Tiên đã mất quyền và bản thân ông Tôn đang ở Nhật Bản. Hy vọng được sự giúp đỡ của nước ngoài lại một lần nữa tiêu tan, Phan Bội Châu mất phương hướng. Trong lúc tuyệt vọng, ông thậm chí đã đề xuất hợp tác với người Pháp miễn là họ giữ lời hứa thực hiện các cuộc cải cách kinh tế chính trị ở Đông Dương. Cho đến đầu những năm 1920, tổ chức cách mạng ở Việt Nam hầu như đã tan rã. Phan Bội Châu bị đày ở Trung Hoa, xung quanh là một nhóm môn đệ trung thành, ông trở thành nhân vật ngày càng không hợp thời - rõ ràng ông đã hết thời.[2]

Sự sụp đổ phong trào của Phan Bội Châu và việc Phan Châu Trinh bị đi đày là những thay đổi lớn diễn ra trong xã hội Việt Nam. Dấu chấm hết của hai người họ Phan cùng với sự đi xuống của giới Nhà Nho đã từng có ảnh hưởng lớn đối với nền chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Mặc dù được hối thúc của các nhà yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, nhiều nhà Nho đã bỏ niềm tin cũ, cố gắng tham gia vào chính trị quần chúng, với tư cách một giai cấp họ chưa bao giờ cảm thấy thoải mái thực sự trong vai trò mới này. Nhiều người thấy khó có thể thích nghi với những điều kiện đang thay đổi dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Phan Bội Châu rất thích phong trào “mười nghìn anh hùng vô danh” được in trên sách báo. Họ là những người sẽ đuổi Pháp ra biển, nhưng xét cho cùng, đảng của ông chủ yếu bao gồm những người thuộc giới thượng lưu, được giáo dục trong xã hội và hầu như không có nông dân tham gia. Phong trào đã cố gắng thúc đẩy thương mại và công nghiệp làm phương tiện để làm giàu cho xã hội Việt Nam, các thành viên có thâm niên của phong trào lại là đại diện của giới quý tộc địa chủ. Các nhà Nho yêu nước có thiện chí lại mặc quần chùng áo thụng mở cửa hàng để gây quỹ và khuyến khích thương mại ở địa phương. Nhưng sau đó đã làm khách hàng xa lánh do thái độ kẻ cả, hách dịch của họ.1

Cuối Thế Chiến thứ Nhất, ảnh hưởng của các nhà Nho, -(khoảng 20.000 người vào cuối thế kỷ XIX), trong xã hội Việt Nam đã bắt đầu suy yếu. Các kỳ thi Nho học đã bị loại bỏ trên cả ba vùng lãnh thổ, được thay thế bằng một hệ thống giáo dục mới do người Pháp đặt ra. Quốc ngữ, tiếng Việt, -tiếng nói hàng ngày-, chuyển sang hệ chữ cái La-tinh, lúc đó được thúc đẩy mạnh mẽ bởi cả các nhà truyền giáo Đạo Cơ Đốc ở Nam Kỳ, các trí thức theo đường lối cải cách ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và ngày càng được thừa nhận là hệ thống thay thế hữu ích cho hệ thống chữ Hán-Nôm phức tạp. Trong khi hầu hết trẻ em Việt Nam tiếp tục học theo hệ thống giáo dục cũ ở làng quê thì con em trong giới Nho sĩ theo hệ thống giáo dục mới, tiến bộ được đào tạo ở các trường Pháp Việt mới, như trường Quốc Học Huế, nơi mà các bài giảng bằng tiếng Pháp. Nhiều người sang Pháp học tiếp.

Trong khi đó, một tầng lớp trung lưu người Việt mới và Âu hoá đã xuất hiện. Một số thành lập các công ty thương mại, nhà máy đáp ứng như cầu và nguyện vọng của các gia đình khá giả sống ở các thành phố lớn. Những người khác làm cho các công ty của châu Âu, theo các nghề khác nhau hoặc giữ một vị trí trong bộ máy hành chính quan lại. Mặc dù nhiều thành viên của giới thành thị mới này ngưỡng mộ Phan Bội Châu và các môn đệ của ông về lòng yêu nước, nhưng họ kín đáo chế nhạo các bậc đàn anh về thái độ bảo thủ và cổ hủ. Những người thuộc thế hệ mới cũng cam kết đối với sự nghiệp độc lập dân tộc, từ bỏ quá khứ và có kiến thức tinh tế hơn về phương Tây. Nhiều người mặc đồ Tây, uống rượu Pháp, nói chuyện bằng tiếng Pháp. Nhà báo Pháp Paul Monet viết, những người thuộc thế hệ mới này là “bản sao mẫu của nền văn hoá (Pháp) của chúng ta, không còn niềm tin truyền thống và rời bỏ mảnh đất của tổ tiên, hoàn toàn không quan tâm đến đạo Khổng, đạo đức mà họ không thích bởi vì họ không hiểu về nó”[3]. Các quan chức Pháp thường coi những bước phát triển này như là một dấu hiệu về sự thành công của sứ mệnh khai hoá, nhưng họ cũng sớm nhận ra thế hệ này sẽ là một thách thức lớn hơn so với các cha ông của họ.

Quan chức cao cấp của Pháp đã vô tình làm người Việt Nam càng bực tức hơn đối với những hậu quả của chế độ thực dân. Năm 1919, kẻ thù tương lai của Nguyễn Ái Quốc là Albert Sarraut, -toàn quyền Đông Dương lúc đó-, đã làm cho những trái tim Việt Nam cảm động vì ông hứa về một kỷ nguyên cải cách mới. Ông nói với những người cấp dưới: “Tôi sẽ đối xử với các bạn như một người anh đối với một người em và sẽ dần dần trả lại cho các bạn chân giá trị của một con người.” Những lời lẽ đó đã làm loé lên hy vọng ở Việt Nam và thậm chí Nguyễn Ái Quốc đã khâm phục lời lẽ đó. Ông vẫn là người luôn ngưỡng mộ nền văn hoá đã sản sinh ra khẩu hiệu cách mạng “tự do, bình đẳng và bác ái”.1

Sau khi Sarraut rời Hà Nội đi Paris nhận chức Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, những lời hứa của ông về cải cách vẫn chưa được thực hiện. Thí dụ, hệ thống giáo dục mới hầu như không nhận được nguồn tài trợ nào từ chính quyền thực dân và kết quả chỉ có ảnh hưởng rất hạn chế đối với dân chúng địa phương. Các trường làng quê đặc biệt thiếu kinh phí và đa số trẻ Việt Nam được đi học không đến bốn năm. Vào giữa những năm 1920, chỉ khoảng năm ngàn học sinh trên toàn quốc được học đến bậc trung học. Những thống kê đó cho thấy đạo đức giả của người Pháp khi họ nói đang thực hiện sứ mệnh khai hoá văn minh ở Đông Dương. Trong khi đó theo hệ thống cũ, khoảng một phần tư dân số có thể đọc được các bài viết bằng chữ Hán, trong thập niên sau Thế chiến I, tỷ lệ biết chữ quốc ngữ và chữ Nôm ước tính chỉ khoảng năm phần trăm dân số.

Trong khi đó, mặc dù nhiều người Việt Nam đã đóng góp cho sự nghiệp của Pháp trong Thế chiến I, nhà cầm quyền thực dân vẫn từ chối cho dân chúng quyền đóng một vai trò tích cực trong nền chính trị quốc gia. Khoảng 10.000 viên chức thực dân ở Đông Dương được trả lương cao hơn so với người Việt Nam làm cùng một công việc. Nhiều người trong số 40.000 người châu Âu sống và làm việc ở Đông Dương, một số khi đến hầu như tay không ngoài bộ quần áo khoác trên người, ấy thế hàng ngày họ đối xử thô bạo, thái độ trịch thượng đối với dân bản xứ. Người nước ngoài, kể cả hơn 200.000 Hoa kiều sống chủ yếu ở các thành phố và thị trấn chi phối nền kinh tế đô thị. Một nhà văn Pháp đã cho các chính sách cải cách của Sarraut là sự ghê tởm, những chính sách đôi khi được mô tả là “nền chính trị hợp tác”, là sự gian dối, trong khi Tổng thống Pháp Raymond Poincaré thừa nhận “các chính sách đó chỉ được thể hiện về mặt hình thức”.[4]

Đa số dân chúng phải chịu các mức thuế gia tăng và sự độc quyền của chính phủ trong việc sản xuất và buôn bán thuốc phiện, muối và rượu gây giá bán lẻ tăng cao tất cả ba loại sản phẩm này. Ở Nam Kỳ, các chủ đất giấu mặt mua đất hoang ở châu thổ sông Cửu Long đã đòi thu tô quá cao với người thuê mới, đôi khi lên tới hơn 50 phần trăm tổng giá trị mùa màng trên mảnh đất đó, trong khi địa chủ sống trong các dinh cơ ở Sài Gòn. Cả nước có khoảng hơn nửa triệu nông dân không có đất, so với khoảng 50 nghìn địa chủ. Trong cuốn Quyền Con Người (Forceries Humaines) được viết vào giữa thập niên, tác giả Georges Garros nhận xét, nếu người Pháp cũng bị áp bức như vậy chắc hẳn đã nổi dậy rồi. Thực ra, như Nguyễn Ái Quốc nhận xét một cách cay đắng với ký giả Ossip Mandelstam trong cuộc phỏng vấn năm 1923 ở Moscow, Việt Nam là “quốc gia bị chìm trong bóng tối.”

Sự thất vọng đã dấy lên làn sóng chính trị mạnh mẽ mới vào giữa những năm 1920. Đứng đầu là một thế hệ trí thức trẻ tuổi thuộc tầng lớp trung lưu được giáo dục theo hệ thống của Pháp. Như những người cùng cảnh ngộ ở thế giới thuộc địa, nhiều người có suy nghĩ đa dạng với nền văn hoá phương Tây, ngưỡng mộ nhưng không chấp nhận nền văn hoá đó. Nhiều người trong số họ đọc tiểu thuyết và tạp chí bằng Pháp ngữ, trong đó có các tạp chí bằng chữ quốc ngữ như Phụ Nữ Tân Văn phục vụ theo thị hiếu phương Tây, viết theo cách nhìn nhận của các thanh niên có học thức. Nhưng họ lại phẫn nộ về việc người Pháp đối xử với dân bản xứ bằng một thái độ trịch thượng và nảy sinh nghi ngờ, tại sao các quan niệm của Pháp được quảng cáo nhiều như tự do, bình đẳng và bác ái mà họ được học ở trường lại không áp dụng ở Đông Dương.

Những dấu hiệu thay đổi đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn - thành phố chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất bởi sự có mặt của thực dân Pháp. Một tỷ lệ lớn người châu Âu ở Đông Dương đã đến định cư ở đây vì Nam Kỳ là thuộc địa, trực thuộc chính quyền Pháp và vì có cơ hội thu lợi nhuận từ các đồn điền cao su, chè và cà phê được dựng nên các khu vực phụ cận. Ở Sài Gòn, có nhiều công nhân nhà máy hơn bất cứ vùng nào ở Việt Nam. Tại Sài Gòn, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, người bản xứ và người nước ngoài rõ ràng nhất. Ngay cả người Việt Nam giàu có nhất cũng có lý do bất bình về việc người nước ngoài thâu tóm toàn bộ nền kinh tế. Các thương nhân Hoa Kiều quản lý các nhà máy sản xuất gạo, các ngân hàng và các tiệm cầm đồ, trong khi người châu Âu sở hữu hầu hết các nhà máy lớn và chi phối xuất nhập khẩu. Nhà nông học giàu có Bùi Quang Chiêu - Nguyễn Ái Quốc gặp trước khi đi sang châu Âu - đã đi đầu trong việc thổi bùng lên thái độ bất bình này. Là một chủ đất nhưng sống ở Sài Gòn, ông Chiêu cũng tham gia nhiều hoạt động kinh doanh và sáng lập ra tạp chí “Diễn đàn người bản xứ” đại diện cho lợi ích của thương gia địa phương. Vài năm sau, ông cùng với người quen thành lập Đảng Lập Hiến Đông Dương - đảng chính trị chính thức đầu tiên ở Đông Dương thuộc Pháp. Bùi Quang Chiêu và các cộng sự của mình hy vọng ép người Pháp dành cho người Việt Nam một vị trí cao hơn trong tiến trình chính trị và một mục tiêu nữa là giảm sự chi phối của các thương nhân Trung Hoa đối với nền kinh tế ở Nam Kỳ.[5]

Cũng như ở nhiều xã hội khác ở Đông Nam Á, các thương gia Trung Hoa từ lâu đã là lực lượng chi phối các nền kinh tế đô thị ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Con cháu của những người nhập cư trong các thế kỷ trước đến nơi này từ các vùng duyên hải ở nam Trung Hoa thường được đám chúa đất địa phương khuyến khích tham gia sản xuất và thương mại trong khi dân bản xứ không được đối xử như vậy. Thường thì họ sống trong các khu nhà ổ chuột ở đô thị và tiếp tục duy trì văn hoá Trung Hoa, trong đó có đạo Khổng và tiếng Trung. Khi Bùi Quang Chiêu và các cộng sự của ông chú trọng đến việc làm giảm ảnh hưởng của Hoa Kiều hơn là các nhà cầm quyền thực dân, họ có thái độ tương tự như thái độ ở một số thuộc địa khác trong khu vực.

Một đối thủ nguy hiểm hơn ông Chiêu, theo quan điểm người Pháp - một trí thức được đào tạo ở Paris - Nguyễn An Ninh. Là con của một nhà nho Nam Kỳ có liên hệ với Trường Đông Kinh Nghĩa Thục Hà Nội, sau đó phục vụ trong phong trào của Phan Bội Châu, ông Ninh học luật ở Pháp - nơi ông đã gặp Nguyễn Ái Quốc - và từ đó say mê chính trị. Khi trở về Sài Gòn vào đầu những năm 1920, ông sáng lập tờ báo Cái Chuông Rè, nhằm nâng cao tinh thần yêu nước của người Việt Nam và thúc giục người Pháp tiến hành cải cách chính trị. Giống như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh cũng là người ngưỡng mộ cuồng nhiệt văn hoá phương Tây, tin rằng nó là chuẩn mực để điều chỉnh hệ thống Nho giáo truyền thống đã bóp nghẹt khả năng sáng tạo của đồng bào mình và giúp Pháp chinh phục họ.

Vào đầu và giữa thập niên 1920, nhà báo trẻ theo trường phái châm biếm này đã trở nên nổi tiếng trong giới thanh niên Nam Kỳ. Các bài phát biểu không thường xuyên của ông được người đọc mong đợi. Trong một bài phát biểu tháng 10-1923 tại Nha Học Chính ở Sài Gòn, ông đã kêu gọi mọi người hưởng ứng một nền văn hoá mới không bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng du nhập của Khổng Tử, Mạnh Tử và Lão Tử. Giống như Mahatma Gandhi ở Ấn Độ, ông Ninh lập luận, giải pháp cho các vấn đề của Việt Nam cơ bản là tinh thần và câu trả lời chỉ có thể do người dân tìm ra.

Ảnh hưởng của các hoạt động của Nguyễn An Ninh đối với thanh niên Nam Kỳ ngày càng làm cho các nhà chức trách Pháp lo ngại. Cuối cùng ông bị triệu đến gặp Toàn quyền lâm thời Maurice Cognacq, cảnh báo các hoạt động của ông sẽ bị nhà chức trách kiểm soát chặt chẽ và nếu ông quyết định tiếp tục thực hiện các hoạt động, họ sẽ dùng các biện pháp cần thiết để buộc ông chấm dứt. Cognacq cho rằng người Việt Nam quá thật thà, chất phác làm sao có thể hiểu thông điệp của ông Ninh. Ông nói thêm một cách châm biếm, nếu ông Ninh muốn kêu gọi các trí thức thì hãy đến Moscow. Lời cảnh báo của Cognacq bị bỏ qua và Nguyễn An Ninh vẫn thực hiện chiến dịch của ông.[6]

Ngày Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu bằng tàu từ Vlapostok giữa tháng 11 năm 1924 đúng ngày thành phố sôi động, hàng ngàn người chen lấn trên đường phố gần bến cảng bày tỏ sự ủng hộ đối với chính phủ Tôn Dật Tiên và tiễn tổng thống đi Bắc Kinh. Từ tháng 2 năm 1923, ông Tôn thực hiện chiến lược “Khối Liên minh bên trong” sau khi thương lượng với đặc vụ Maring của Đệ Tam Quốc Tế mấy tháng trước. Ông Tôn đã chuyển Quốc Dân Đảng sang cánh tả bằng cách đưa thêm một số đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc vào các vị trí quan trọng. Từ tháng Mười khi đặc vụ Đệ Tam Quốc Tế Mikhail Borodin từ Moscow đến, đảng tổ chức lại theo đường lối của chủ nghĩa Lenin, một học viện quân sự được thành lập ở đảo Hoàng Phố để đào tạo các sĩ quan. Tưởng Giới Thạch, -một trong những sĩ quan trẻ tin cậy của Tôn Dật Tiên-, được chỉ định phụ trách nhà trường. Trường nằm cách thành phố vài dặm xuôi theo dòng sông. Chu Ân Lai trở thành chính uỷ nhà trường.

Tuy vậy, việc Tôn Dật Tiên chuyển sang cánh tả không phải là không phải trả giá. Quan hệ giữa chính phủ ông với các đại diện quyền lợi châu Âu ở Quảng Châu đã bắt đầu xấu đi. Đối với nhiều thương gia và nhà ngoại giao phương Tây ở thành phố, quyết định của ông Tôn thiết lập một quan hệ chính thức với nước Nga Xô viết và Đảng cộng sản Trung Quốc là bằng chứng hiển nhiên, ông và đảng của ông về cơ bản chống phương Tây và đã trở thành tay sai của Moscow.

Những tháng tiếp theo, tình hình càng trở nên căng thẳng hơn. Mùa hè năm 1924, các cuộc đình công phản đối các công ty của Anh ở Quảng Châu đã nổ ra trước một sự cố do các nhà chức trách Anh gây ra. Người Anh đã áp đặt sự kiểm soát của cảnh sát để trấn áp các cuộc biểu tình trên đường phố ở đảo Sa Diện - đất nhượng tô của người Pháp dọc bờ sông phía tây. Chính phủ Tôn Dật Tiên tuyên bố ủng hộ những người đình công. Mùa thu năm đó, Hiệp hội các thương gia Quảng Châu - bị chi phối bởi những lợi ích thương mại của châu Âu - đã thiết lập một lực lượng quân sự chống chính phủ Tôn Dật Tiên và các vụ xô xát đã xảy ra giữa các đơn vị dân quân và quân đội của chính phủ.

Trong khi đó, tình hình bên ngoài Quảng Châu thay đổi đột ngột, Ngô Bội Phu, một tư lệnh nhiều năm kiểm soát các vùng ở phía bắc Trung Hoa, bị lật đổ bởi “vị tướng theo Thiên Chúa Giáo”, Phùng Ngọc Tường. Mặc dù Phùng cũng là một tư lệnh, ở Quảng Châu ông được coi là thấu hiểu công cuộc cách mạng Trung Hoa hơn là Ngô Bội Phu khi Phùng mời Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh để đàm phán một dàn xếp hoà bình, ông Tôn đã đồng ý.

Mặc dù Nguyễn Ái Quốc không được cử đi Trung Hoa với tư cách chính thức nhưng không phải là ông không có liên lạc với ai. Ngay lập tức ông đã liên hệ với Mikhail Borodin. Mikhail Borodin đã mời Nguyễn Ái Quốc đến ở căn hộ của ông ở Bảo Công Quán, một biệt thự kiểu phương Tây rộng rãi, bao quanh là một khu vườn trải dài từ các trụ sở của Cộng sản Quốc tế đến trung tâm thành phố. Tầng trệt toà nhà là văn phòng của hai mươi đại diện của Cộng sản Quốc tế được cử từ Moscow đến. Trên tầng hai là căn hộ riêng của Borodin - Nguyễn Ái Quốc sử dụng một phòng để ở. Để tự vệ trước sự giám sát của Pháp và không bị các nhà chức trách bắt giữ vì nhập cư trái phép, Nguyễn Ái Quốc tự nhận là người Trung Hoa với cái tên Lý Thuỵ. Chỉ có vợ chồng Borodin biết danh tính thực của ông.

Borodin quen biết Nguyễn Ái Quốc tại khách sạn Lux khi cả hai sống ở Moscow một năm trước đây. Cả hai nói tiếng Anh, (Borodin từng có thời gian là người tổ chức công nhân ở Chicago trước Thế chiến I), họ chia sẻ mối quan tâm chung khát khao thúc đẩy phát triển phong trào cách mạng ở châu Á. Là người đứng đầu phái bộ Cộng sản Quốc tế bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu, Borodin có thể là người rất cần thiết cho người đồng sự trẻ của mình.[7]

Sau khi dọn đến ở nơi ở mới, Nguyễn Ái Quốc được cử làm tại văn phòng của Thông tấn xã Xô viết (ROSTA) nằm tầng trệt của trụ sở của Quốc tế Cộng sản ở Bảo Công Quán. Nguyễn Ái Quốc viết bài cho thông tấn xã, những bài báo này gửi về Moscow đăng với bút danh Nilovesky, ông vừa làm phiên dịch vừa là đại diện địa phương không chính thức của Quốc tế Nông dân. Tuy vậy, mục tiêu chính của ông, gây dựng hạt nhân cho đảng cách mạng Việt Nam mới được xây dựng theo mô hình của Lenin. Sau đó ông có thể theo đuổi mục tiêu dài hạn hơn là lập trật tự cho phong trào kháng chiến của Việt Nam và biến nó thành một lực lượng đáp ứng những mong ước của ông.

Chiến lược cách mạng do Cộng sản Quốc tế đưa ra tại Đại hội lần thứ II ở Moscow đã cho ông đường lối chung để khởi động tiến trình cách mạng. Một trong những chỉ dẫn đó là cần phải có biện pháp hợp tác với các nhóm chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản hiện đang hoạt động, một mục tiêu mà ông đã đưa ra trong các báo cáo của mình gửi lãnh đạo của Cộng sản Quốc tế ở Moscow. Nhưng Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức được những chỉ dẫn đó chưa đáp ứng hoàn toàn và đầy đủ nhu cầu ông đòi hỏi. Tại một cuộc họp nhằm thảo luận vấn đề thuộc địa tại Đại hội Cộng sản Quốc tế V mùa hè năm 1924, ông đã hỏi Dimitri Manuilsky - chuyên gia về thuộc địa - những người công nhân cộng sản châu Á cần phải làm gì khi không có đảng dân tộc nhân dân lớn mạnh. Không rõ Manuilsky - một người ít có kinh nghiệm về các vấn đề châu Á - đã bao giờ nghĩ đến câu hỏi này chưa. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng giải thích chiến lược “mặt trận thống nhất” của Lenin theo lối ứng khẩu, cho rằng khi không có phong trào dân tộc quần chúng, đảng cộng sản trong nước cần phải có sáng kiến thành lập một phong trào dưới sự lãnh đạo của đảng.[8]

Thực hiện gợi ý của Manuilsky ở Đông Dương không dễ chút nào. Như Nguyễn Ái Quốc đã báo cáo cho các đồng nghiệp của Cộng sản Quốc tế khi ông sống ở Moscow, giai cấp công nhân Việt Nam, có thể là lực lượng đầu đàn trong đảng Marx Lenin sau này, nhưng vẫn còn trong giai đoạn phôi thai, chỉ chiếm khoảng 2 phần trăm dân số, bao gồm công nhân mỏ, những người sống rải rác ở cả ba miền Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Về nhận thức chính trị, công nhân Việt Nam xếp sau các đồng nghiệp của mình ở nước Trung Hoa láng giềng và thiếu nhiều khả năng lãnh đạo phát động một cuộc khởi nghĩa của nhân dân chống thực dân Pháp.

Ở Moscow, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, các trí thức yêu nước đã lãnh đạo cuộc kháng chiến đầu tiên của người Việt Nam chống lại hệ thống thuộc địa. Thật không may, ở Pháp chẳng mấy người hiểu biết tư tưởng Marxist. Ở Pháp quan điểm cấp tiến về xã hội trong giới trí thức đã có ít nhất từ cuộc cách mạng năm 1789. Tại Nga, những quan điểm này đã nảy sinh vào giữa thế kỷ 19 với những người theo chủ nghĩa dân tuý. Ngay ở Trung Hoa, các tư tưởng cấp tiến từ phương Tây như chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa cộng sản đã trở nên quen thuộc với các thành viên hàng đầu của phong trào tiến bộ vào đầu thế kỷ XX. Nhưng ở Việt Nam, những tư tưởng cách mạng nước ngoài bị cấm đoán, chỉ bắt đầu du nhập trong những năm sau Thế chiến II. Ngay cả khi các trí thức Việt Nam bắt đầu biết về cuộc cách mạng Bolsevich thì những tin tức về cuộc cách mạng chủ yếu là tin tiêu cực hoặc bị Pháp kiểm duyệt bóp méo nghiệm trọng. Sách về Karl Marx hay nước Nga Xô viết bị cấm ở Đông Dương trong khi các bài trên những tờ báo và tạp chí địa phương nói đến các đề tài đó bị các quan chức Pháp thường xuyên tịch thu. Chỉ một số người có đủ may mắn để có được các bản sao về các tác phẩm của Karl Marx hoặc tờ Người Cùng Khổ của Nguyễn Ái Quốc được lén lút truyền cho nhau đọc hiểu mặt trái của sự kiện.

Người Việt Nam bình thường do không có kiến thức sâu sắc về chủ nghĩa Marx nên không thể hiểu về cách mạng Bolsevich. Thành phần xã hội và quan điểm thế giới của giới cách mạng của Việt Nam làm cho các tư tưởng Marxist khó được chấp nhận một cách thực sự, khi những tư tưởng này trở nên phổ biến hơn. Đối với đa số trí thức Việt Nam, cuộc sống đô thị khá mới mẻ. Trong tư tưởng Nho giáo - tư tưởng có thành kiến sâu sắc chống lại việc chạy theo lối sống đô thị công - thương - nghiệp - họ hầu như không thấy mối liên quan giữa học thuyết Marx với những vấn đề của một nước Việt Nam thuần nông. Tuy nhiên, chủ nghĩa Marx được những người đang chờ đợi sự thay đổi có thể thay thế cho thế giới quan Nho giáo đã chấp nhận. Những người theo chủ nghĩa Marx có ác cảm sâu sắc đối với chủ nghĩa đế quốc phương Tây họ chẳng gây tác hại cho ai. Như một người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam đã nói: “Chúng tôi không đi theo chủ nghĩa cộng sản mà đến với những người theo chủ nghĩa cộng sản. Vì ở đây, giống như ở các nước khác, khi những người cộng sản hứa hẹn đem lại cho người dân quyền tự quyết, họ sẽ được mong đợi như những vị cứu tinh”. Nhưng như lẽ thường, thái độ của họ là ngây thơ. Một người Việt yêu nước khác nói: “Nếu bị phương Tây ghét thì người Nga và những người cộng sản phải là những người tốt”.[9]

Nguyễn Ái Quốc ý thức được điều này. Năm 1922, trong một bài báo viết ở Paris, ông đã nhận xét, chỉ có một số ít trí thức ở các thuộc địa như Việt Nam hiểu được ý nghĩa của chủ nghĩa cộng sản, còn hầu hết những người hiểu được lại thuộc giới tư sản trong nước và thích “mặc áo hàng hiệu và chỉ quan tâm đến quyền lợi bản thân”. Ông nhận thấy, hầu hết người dân ở các thuộc địa, chủ nghĩa Bolsevich “có nghĩa là thủ tiêu tất cả hoặc giải phóng khỏi ách áp bức của nước ngoài”. Ý nghĩa thứ nhất lôi kéo dân chúng ít học, nhút nhát rời xa chúng ta. Ý nghĩa thứ hai đưa họ lại gần với chủ nghĩa dân tộc. Cả hai nghĩa này đều nguy hiểm như nhau.[10]

Có nghĩa là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng cho sự thành lập một đảng cộng sản. Dân chúng “tỏ ra sẵn sàng nổi dậy nhưng hoàn toàn không có hiểu biết. Họ muốn tự giải phóng nhưng lại không biết làm như thế nào”. Giới trí thức bồn chồn không biết phải làm gì nhưng không sẵn sàng chấp nhận luận thuyết Marx. Cần phải có thời gian để người Việt Nam dần dần nhận thấy, cách mạng xã hội chính là câu trả lời cho các vấn đề của họ. Trong khi đó, một chính đảng cần được thành lập để có thể đại diện cho các ý tưởng của Marx và Lenin tuy ở dạng phôi thai nhưng có thể tập hợp quần chúng xoay quanh một vấn đề chính: độc lập dân tộc.

Phan Bội Châu - người bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất - lúc đó sống ở Trung Hoa. Ra tù năm 1917, sau một thời gian thử nghiệm tư tưởng thoả hiệp với người Pháp, Phan Bội Châu đã quay lại với quan điểm chống Pháp trước khi ông bị bắt. Tuy già nhưng vẫn khoẻ mạnh, với bộ râu màu muối tiêu và cặp kính, người chiến binh năm mươi nhăm tuổi đến ở Hàng Châu, một khu nghỉ có quang cảnh đẹp ở tây nam Thượng Hải - nhà của Hồ Học Lâm - một người ủng hộ, sau này đóng vai trò chính của phong trào trong suốt thời kỳ Thế chiến II. Dù Phan Bội Châu không còn các hạt nhân của tổ chức chống thực dân yêu nước ở Đông Dương, nhưng tên tuổi ông vẫn có sức lôi cuốn quần chúng. Đầu thập niên 1920, một số người Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết đã đến nam Trung Hoa gia nhập đội ngũ của những môn đệ của ông. Trong số này nổi bật nhất có Lê Hồng Phong, Lê Văn Phan (Lê Hồng Sơn), Lê Quang Đạt và Trương Văn Lệnh. Tất cả những người này cuối cùng đã trở thành thành viên sáng lập của tổ chức cách mạng đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc.[11]

Khi ở nam Trung Hoa, những thanh niên đầy nhiệt huyết này trở nên mất kiên nhẫn trước hoạt động kém hiệu quả của tổ chức của Phan Bội Châu. Tháng 3-1924, tám tháng trước khi Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu, họ quyết định tách ra, thành lập một đảng mới gọi là Tâm Tâm Xã. Cũng như hầu hết các tổ chức yêu nước được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX, lãnh đạo của đảng mới đều là các sĩ phu yêu nước. Các cuộc biểu tình của học sinh sinh viên nổ ra vào giữa thập niên 1920, những người có tư tưởng cấp tiến, họ quyết định bãi khóa để tham gia các hoạt động chống thực dân. Một vài người trong số họ làm lao động chân tay trước khi quyết định ra nước ngoài. Hầu hết tất cả đều cùng quê Nghệ An với Nguyễn Ái Quốc.

Các thành viên của tổ chức mới, với tính hoạt động sôi nổi và dễ nghiêng ngả về thiên hướng chính trị, đã cho rằng hệ tư tưởng không phù hợp với nhu cầu cách mạng trước mắt. Triết lý của họ tương tự như triết lý trong phong trào nổi dậy của Auguste Blanqui ở châu Âu ở thế kỷ XIX. Phong trào khuyến khích nổi dậy, tuy không thành công ở Pháp, Ý và Tây Ban Nha. Mục tiêu cuối cùng của họ là dùng tuyên truyền và các hành động khủng bố để làm dấy lên một biến động của dân chúng nhằm lật đổ chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.[12]

Một trong những việc đầu tiên mà đảng mới dự định thực hiện là ám sát viên Toàn quyền Đông Dương Martial Merlin, nhân chuyến thăm Quảng Châu của ông sau chuyến thăm chính thức một số thành phố ở Đông Á giữa tháng 6-1924. Với sự cố vấn và hỗ trợ về tài chính của Lâm Đức Thụ, một công dân 36 tuổi từ Bắc Kỳ, đã đến Quảng Châu để gặp Phan Bội Châu cách đó vài năm, nhóm này đã đưa ra kế hoạch giết Merlin bằng cách đánh bom trong lễ kỷ niệm ở tô giới châu Âu - đảo Sa Diện. Mặc dù lấy một người vợ giàu có và bản thân ông già hơn nhiều so với các đồng sự của mình, ông Thụ (tên thật Nguyễn Công Viễn) được xem là một thành viên tích cực của tổ chức vì có khả năng gây quỹ và liên hệ với người Pháp. Do xuất thân từ một gia đình phản đối Pháp xâm lược, không ai nghi ngờ sự trung thành của ông đối với công cuộc chống chủ nghĩa thực dân. Trụ sở của tổ chức được đặt ở tiệm thuốc tây do ông Thụ và vợ quản lý trong một ngõ nhỏ trên đường Tô Trương và cách trụ sở của Quốc tế Cộng sản không xa.

Lúc đầu, người ta quyết định, nhà cách mạng trẻ tuổi đẹp trai có nước da ngăm ngăm đen Lê Hồng Sơn sẽ được chọn để thực hiện, bởi vì ông đã ám sát một gián điệp nhị trùng trong nội bộ đảng. Do cách biểu lộ tình cảm mạnh mẽ của ông nên thậm chí ngay cả các đồng sự cũng sợ ông nằm trong một tổ chức “chuyên đâm thuê chém mướn”. Nhưng Lê Hồng Sơn cũng bị các nhà chức trách biết rõ tung tích, do đó việc này cuối cùng được giao cho Phạm Hồng Thái, một thanh niên Việt Nam vừa mới đến từ Đông Dương gia nhập tổ chức khủng bố. Thái là con trai của một công chức tỉnh Nghệ An, thời thanh niên tham gia phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng. Thái đã học tại trường Pháp Việt ở Hà Nội, sớm say mê lý tưởng cách mạng. Sau khi học xong, ông xin làm thợ cơ khí ở xưởng chữa ô-tô, sau đó làm việc ở mỏ than. Đầu năm 1924, ông đến Trung Hoa với bạn là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Phong, trở thành thành viên của Tâm Tâm Xã.

Khao khát được hy sinh vì sự nghiệp, Phạm Hồng Thái đồng ý nhận trách nhiệm đem bom đến mục tiêu định trước. Tối ngày 19-6-1924, các quan chức Pháp mở tiệc chiêu đãi ở khách sạn Victoria trên đảo Sa Diện để chào mừng Toàn quyền Merlin và giới thiệu ông với các thành viên có uy tín của cộng đồng doanh nhân địa phương. Bữa tiệc được tổ chức ở sảnh đường lớn gần khu phố đó. Vào khoảng 8 giờ 30 tối, ngay khi món súp được đem ra, ông Thái đã ném quả bom qua cửa sổ vào phòng tiệc. Quang cảnh được một tờ báo địa phương mô tả như sau:

“Tiếng nổ kinh hoàng vang khắp đảo Sa Diện. Sức của nó mạnh đến nỗi tất cả dao dĩa trên bàn tiệc văng vào các khách mời, gây ra những vết thương khủng khiếp… Một nhân chứng ở gần khách sạn vào thời điểm xảy ra vụ việc đến giúp, mô tả cảnh tượng cho chúng tôi bằng những từ đơn giản: kinh hoàng, rất kinh hoàng. Khách nằm trên ghế hoặc trên đất với những vết thương khủng khiếp”.

Năm người khách thiệt mạng - ba người chết tại chỗ, hai người do vết thương quá nặng - và hàng chục người bị thương. Tuy nhiên, thật kỳ lạ Toàn quyền Martial Merlin đã sống sót. Trong khi tìm cách chạy vào đất liền, Phạm Hồng Thái đã nhảy từ trên cầu xuống sông Châu Giang và chết đuối. Merlin đã trở về Hà Nội trên một tàu chở khách của Pháp ngay hôm sau để tránh có thể lại bị tấn công trong lễ tang của kẻ ám sát trẻ tuổi.[13]

Merlin đã thoát chết vì trong số khách mời, một người có ngoại hình rất giống Merlin, người ấy đã chết vì trúng bom. Nhưng những người chủ mưu lại nghi ngờ có kẻ phản bội trong hàng ngũ đã chuyển thông tin về kế hoạch ám sát cho Pháp. Nghi ngờ dồn về Lâm Đức Thụ do những thói quen và mối quan hệ với các quan chức Pháp đã làm ông trở thành kẻ bị tình nghi. Lê Quang Đạt, một trong những thành viên của Tâm Tâm Xã đã kể cho Lê Hồng Sơn về mối nghi ngờ của mình, nhưng Sơn trả lời, chính Lâm Đức Thụ đã liên hệ với người Pháp để gây các quỹ cho các hoạt động bí mật của tổ chức. Vì thế quan hệ của Thụ với tổ chức vẫn tạm được duy trì.[14]

Vụ đánh bom ở khách sạn Victoria là cố gắng đầu tiên của các nhà cách mạng châu Á nhằm ám sát một quan chức cao cấp thực dân Pháp. Việc này làm cho cộng đồng người Pháp ở Đông Dương bị sốc. Ở Hà Nội, báo chí thực dân đổ lỗi vụ tấn công cho các đặc vụ của phong trào Xô viết. Nhưng vụ ám sát này đã làm cho Phạm Hồng Thái thành người đầu tiên hy sinh vì sự nghiệp chống chủ nghĩa đế quốc. Chính phủ Tôn Dật Tiên đã xây một ngôi mộ cho người thanh niên Việt Nam yêu nước tại nghĩa trang ở Quảng Châu, nghĩa trang dành riêng cho các liệt sĩ hy sinh vì cách mạng Trung Hoa. Phan Bội Châu gián tiếp tuyên bố, ông Thái là thành viên của tổ chức của ông và tuyên bố kế hoạch ám sát nhằm trả đũa các hoạt động tàn ác của người Pháp ở Đông Dương. Phan Bội Châu đặt một câu hỏi có tính chất hùng biện, “giết người và áp bức người thì việc nào tồi tệ hơn?” Sau đó ông viết một bài miêu tả đầy chi tiết không đúng sự thật về cuộc đời của Phạm Hồng Thái.[15]

Sự kiện Sa Diện cũng được Phan Bội Châu lợi dụng để khôi phục tổ chức chính trị của mình ở nam Trung Hoa - tổ chức này đã trở nên suy yếu trong những năm ông ở trong tù. Tháng 7 năm 1924, ông đến Quảng Châu tham dự một lễ xây mộ cho Phạm Hồng Thái. Ở đó ông nói chuyện với một số môn đệ việc thay thế Việt Nam Quang Phục Hội của ông bằng một số tổ chức chính trị mới có tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng, theo đường lối Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên. Phan Bội Châu trở lại Hàng Châu vào tháng 9.

Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu năm tháng sau vụ ám sát hụt ở đảo Sa Diện. Vài ngày sau đó, trong vai nhà báo Trung Hoa Hoàng Sơn Tử, ông đã liên lạc với các thành viên của Tâm Tâm Xã. Hoạt động cấp tiến của họ rõ ràng là đã làm nhà cách mạng trẻ tuổi đồng cảm. Việc họ thiếu lý tưởng chủ đạo sẽ tạo nhiều thuận lợi vì như vậy chủ nghĩa Marxit - Lenin sẽ lấp lỗ hổng đó. Hơn nữa nhiều thành viên hàng đầu của nhóm là đồng hương nên không gây phiền phức gì cả. Nguyễn Ái Quốc có ấn tượng tốt với Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, nhưng đặc biệt với Lê Hồng Phong, người thấp, chắc nịch, có đôi vai rộng, con của một gia đình gia giáo ở Nghệ An mà Phan Bội Châu đã tuyển đi du học.

Nguyễn Ái Quốc không mất nhiều thời gian thuyết phục những người này theo quan điểm của ông. Trong một bức thư gửi trụ sở của Quốc tế Cộng sản ở Moscow đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ông báo cáo đã liên lạc với một số “nhà cách mạng dân tộc” Việt Nam và bắt đầu hợp tác với họ. Cho đến tháng 2-1925, ông đã thành lập một nhóm bí mật gồm 9 thành viên, lấy tên là Đông Dương Quốc Dân Đảng. Một số người trở về Đông Dương để tuyển thêm người, trong khi những người khác gia nhập quân đội của Tôn Dật Tiên hoặc gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc. Năm người trong số này được ông mô tả là ứng cử viên của một đảng cộng sản tương lai. Mặc dù vậy, ông nhấn mạnh, rất cần có thêm kinh phí và tài liệu tuyên truyền để thực hiện các hoạt động bổ xung.[16]

Có thể qua các thành viên của Tâm Tâm Xã, Nguyễn Ái Quốc liên lạc được với Phan Bội Châu. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc không đồng tình với các phương pháp của nhà hoạt động lớn tuổi này, có thể ông đã coi Phan Bội Châu là một công cụ hữu ích để xây dựng một tổ chức cho riêng mình. Về phần mình, Phan Bội Châu đã nghe nhiều những kỳ công của một con người bí ẩn Nguyễn Ái Quốc khi ông sống ở Hàng Châu, mặc dù có thể ông chưa nhận ra ngay được lai lịch thực của Nguyễn Ái Quốc, con trai người bạn đồng khoa Nguyễn Sinh Sắc. Hơn nữa, Phan Bội Châu đã quan tâm hơn đến chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Karl Marx, mặc dù nhìn chung, sự hiểu biết của ông về hệ tư tưởng Marx còn rất sơ sài.[17]

Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu hai tháng sau khi Phan Bội Châu đi Hàng Châu vào tháng Chín, nhưng ông đã biết đến bài phát biểu từ các thành viên của Tâm Tâm Xã. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải vào tháng 1-1925 để gặp Phan Bội Châu. Tuy nhiên, mật thám Pháp đã tường trình, không có sự liên hệ nào giữa hai người vào thời điểm đó.

Đến lúc đó, Phan Bội Châu biết được lai lịch thật của Lý Thuỵ, vì vào khoảng tháng 2 hay tháng 3-1925, Phan viết thư cho Nguyễn Ái Quốc từ Hàng Châu, ca ngợi công việc của Quốc và làm ông nhớ về cuộc gặp gỡ ở làng Kim Liên hai thập niên trước. Phan Bội Châu cũng bày tỏ mong muốn cộng tác với người đồng hương trẻ và muốn đến Quảng Châu để gặp mặt. Đáp lại, Nguyễn Ái Quốc cố gắng giải thích về sự cần thiết phải tổ chức lại đảng của Phan Bội Châu, nói về chiến lược của ông và học thuyết Lenin đằng sau chiến lược đó. Phan Bội Châu đã đồng ý hợp tác, cung cấp cho Quốc danh sách các thành viên trong tổ chức của mình.[18]

Nhưng Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra, Phan Bội Châu và nhiều đồng sự lớn tuổi của ông không thể làm cơ sở cho phong trào cách mạng mới. Ông nhanh chóng tập trung mọi sức lực để chuyển Tâm Tâm Xã thành một tổ chức cách mạng Marx - Lenin mới. Bước đầu tiên, ông thành lập một tổ chức hạt nhân gồm những môn đệ tận tâm thành một Cộng sản Đoàn, hoạt động dưới danh nghĩa một tổ chức lớn hơn mà ông vừa thành lập. Trong số những thành viên sáng lập này là năm nhân vật chủ chốt của Đông Dương Quốc Dân Đảng, trong đó có Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong và Hồ Tùng Mậu. Họ cùng lập một danh sách các cá nhân từ năm tỉnh khác nhau ở Đông Dương làm cơ sở cho một tổ chức cách mạng trong nước. Các đặc phái viên được cử từ Quảng Châu đến tháp tùng họ sang Trung Hoa để đào tạo phương pháp tổ chức. Sau đó, những người được tuyển dụng sẽ quay về các tỉnh nhà. Các thành viên nhiều hứa hẹn khác của phong trào sẽ được cử đến Moscow để được truyền bá học thuyết và thực hành cách mạng ở Trường Stalin. Nguyễn Ái Quốc cũng thực hiện các bước để thiết lập một cơ sở cách mạng ở Xiêm cũng như ở một số thành phố khác ở nam Trung Hoa, nơi một trụ sở tạm thời có thể sẽ được đặt ở đó trong trường hợp các hoạt động ở Quảng Châu bị gián đoạn. Cuối cùng, ông có kế hoạch tuyển dụng các đảng viên trong số những thuỷ thủ Việt Nam phục vụ trên tàu chạy dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa, làm đầu mối liên lạc tin cậy giữa các trụ sở với những cơ sở đảng ở Đông Dương.[19]

Sự xuất hiện đột ngột của người thanh niên lạ mặt đầy nhiệt huyết ở trụ sở của Cộng sản Quốc tế đã không qua khỏi con mắt của các nhà chức trách Pháp ở Quảng Châu và cả ở Đông Dương. Trung tuần tháng 2-1925, theo các báo cáo, người mới đến tự xưng Lý Thuỵ đã liên lạc với các thành phần quá khích trong cộng đồng người Việt lưu vong ở nam Trung Hoa dẫn đến việc các nhà chức trách Pháp ở Hà Nội và Quảng Châu lo lắng kêu gọi Bộ Thuộc địa làm rõ nơi ở hiện tại của Nguyễn Ái Quốc. Lúc đầu, Paris báo cáo Nguyễn Ái Quốc vẫn đang ở Moscow, nhưng sau vài tuần các nhà chức trách Pháp bắt đầu nghi ngờ ông Lý Thuỵ đầy bí ẩn thực ra là Nguyễn Ái Quốc giả danh. Ở Quảng Châu, viên sĩ quan cảnh sát người Pháp mới đến, biệt danh “Noel”, đã thúc điệp viên của mình xác minh lai lịch của người lạ đó.

Điệp viên sáng giá nhất của Noel lại là đồng sự của Nguyễn Ái Quốc - Lâm Đức Thụ, tuy yêu nước nhưng lại đồng ý làm chỉ điểm cho Pháp. Với bí danh “Pinot”, Thụ đã cung cấp cho Pháp tin tức rất hữu ích về các hoạt động của phong trào cách mạng Việt Nam cho đến cuối thập niên 1920. Lúc đầu, Thụ khó chịu khi phải cố sức thu thập thông tin để xác minh lai lịch của người mới đến. Ông cho biết, Lý Thuỵ rất thận trọng và từ chối không chụp ảnh. Nhưng ông đã chụp được ảnh của Lý Thuỵ cùng với một nhóm đông người trước trụ sở của Quốc Dân Đảng vào tháng 3-1925. Từ bức ảnh đó, các điệp viên của Sở Mật thám khẳng định, Lý Thuỵ chính là Nguyễn Ái Quốc.[20]

Cuối mùa xuân, nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc nhằm thiết lập một tổ chức cách mạng hoạt động theo các nguyên tắc Marx - Lenin với sự hướng dẫn của Cộng sản Quốc tế tiến triển tốt đẹp. Theo một trong những thành viên chính nhớ lại, quyết định chính thức về việc thành lập một đảng cách mạng mới được đưa ra vào đầu tháng 6-1925. Vài ngày sau đó, cuộc họp đầu tiên được tổ chức tại nhà của Lâm Đức Thụ ở khu thương mại Quảng Châu. Các thành viên chủ chốt của Cộng sản Đoàn của Nguyễn Ái Quốc tham gia với tư cách là sáng lập viên. Mặc dù tên chính thức của tổ chức mới này vẫn còn chưa ngã ngũ, chẳng bao lâu sau nó được biết đến với cái tên Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng.

Nguyễn Ái Quốc xuất bản tạp chí Thanh Niên, tuyên truyền tư tưởng của nhóm, thành lập một trường huấn luyện ở trung tâm buôn bán Quảng Châu tuyên truyền cho những người mới được tuyển. Nguyễn Ái Quốc áp dụng chiến thuật đã sử dụng thành công ở Paris bằng cách thiết lập một liên minh mở rộng gồm các nhà hoạt động cấp tiến từ một số nước thuộc địa và bán thuộc địa ở châu Á. Vào cuối tháng 6, phối hợp với đặc vụ Cộng sản Quốc tế người Ấn Độ - M.N. Roy và nhà lãnh đạo cánh tả Quốc Dân Đảng Liêu Trọng Khải thành lập “Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức”. Liêu Trọng Khải lãnh đạo tổ chức, Nguyễn Ái Quốc làm tổng thư ký kiêm thủ quỹ. Hội bao gồm các thành viên từ Triều Tiên, Ấn Độ, Trung Hoa, Đông Ấn thuộc Hà Lan và từ Đông Dương - (Vì Quảng Châu đã thu hút rất nhiều người nên mang biệt danh “Đông Moscow”, do quan hệ giữa Tôn Dật Tiên với Quốc tế Cộng sản). Hội tổ chức cuộc họp đầu tiên ở Quảng Châu vào trung tuần tháng 7-1925. Nhân dịp đó, ra tuyên bố lên án nghiêm khắc những hành động tàn ác của chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi nhân dân bị áp bức ủng hộ phong trào cách mạng thế giới.[21]

Trong thời gian ngắn lưu lại ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc chủ yếu dành thời gian cho hoạt động của hội. Hội thể hiện sự từng trải bằng những đánh giá đúng của ông về tình hình đang nổi lên ở Đông Dương. Nhu cầu trước mắt là thu hút các trí thức yêu nước, các thành phần cách mạng dân tộc khác tham gia sự nghiệp chung để chọn lọc những nhân vật chủ chốt cho việc thành lập đảng cộng sản. Vấn đề thực tiễn là nền tảng chính cho lời kêu gọi đấu tranh vì độc lập dân tộc. Nhưng điều cần thiết trước mắt là giành được sự ủng hộ của công nhân và nông dân bị áp bức, những người mà đối với họ độc lập dân tộc không thiết thực bằng cuộc đấu tranh cùng cực vì miếng cơm manh áo hàng ngày. Hội cũng cần đặt nền móng cho giai đoạn hai của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những bài của tờ Thanh Niên, nhiều mục do chính Nguyễn Ái Quốc viết, thận trọng đặt nền móng cho một tầm nhìn mới vượt qua vấn đề độc lập dân tộc, bao gồm cả mục tiêu liên kết với cách mạng thế giới rộng lớn.

Do đó, chương trình của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đã tập trung vào hai trụ cột, chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xã hội. Gắn kết hai vấn đề này, Nguyễn Ái Quốc trung thành với mô hình của Lenin mà trước đó đã được Đại hội Cộng sản Quốc tế lần thứ II thông qua năm 1920. Nhưng Lenin coi tình cảm dân tộc chủ yếu chỉ là một tiểu xảo mang tính chiến thuật để giành sự ủng hộ của các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc thế giới, chương trình của Hội và nhiều bài viết trong tờ báo của Hội dường như coi trọng vấn đề chủ nghĩa dân tộc không kém, nếu không muốn nói là hơn so với vấn đề cách mạng thế giới.

Việc nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc trong Cương lĩnh của hội, một đặc điểm sau này trở thành một phần không thể thiếu được của hình ảnh Nguyễn Ái Quốc với tư cách là một người yêu nước và một nhà cách mạng, một trong các yếu tố mà qua thời gian, một số quan sát viên đã đặt dấu hỏi về sự gắn bó của ông đối với ý thức hệ Marxist và cuộc đấu tranh để xây dựng xã hội cộng sản không tưởng. Thực ra, trong những năm 1920, nghi ngờ về sự trung thành của ông với học thuyết Marxist thậm chí đã xuất hiện ở Moscow, một số thành viên của chính tổ chức đảng của ông; như chúng ta thấy, vài năm sau, sự chỉ trích đó đã xuất hiện trên các ấn phẩm.

Có nhiều lý do xác đáng để lý giải, Nguyễn Ái Quốc trước hết là một nhà yêu nước. Năm 1960, chính ông đã thừa nhận trong một bài báo ngắn “Con đường đưa tôi đến chủ nghĩa Lenin”, chính khát vọng giành độc lập cho Việt Nam trước tiên đã đưa ông đến với chủ nghĩa Marx. Trong khi người thầy của ông, Lenin, dường như xem mối quan hệ giữa những người cộng sản và những người tư sản dân tộc như một xảo thuật để tăng cường sức mạnh của đảng cộng sản ở các xã hội mà giai cấp công nhân còn yếu kém thì Nguyễn Ái Quốc lại nhìn nhận vấn đề độc lập dân tộc như là mục tiêu cuối cùng. Còn với chế độ cộng sản không tưởng chỉ là một ý tưởng đến sau và có thể trì hoãn đến một tương lai vô định. Ông thường nói, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp.

Tuy nhiên, lại cũng có các bằng chứng thuyết phục chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc thời trẻ nhìn nhận chủ nghĩa Marx - Lenin không chỉ là một công cụ để đánh đuổi người Pháp. Dù it khi đề cập học thuyết Marxist trong các bài viết những năm ông ở Paris và trong thời gian học tập sau này ở Moscow, ông luôn nói về tương lai của cách mạng thế giới với sự nhiệt thành ngày càng tăng. Theo suy nghĩ của ông, cách mạng thế giới nhất định sẽ chấm dứt hệ thống bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng đế quốc ở châu Á sẽ lên đến đỉnh cao chính là cuộc cách mạng toàn cầu. Trả lời phỏng vấn một nhà báo Xô viết trước khi qua đời, Hồ Chí Minh thừa nhận, nhiệt tình cách mạng tuổi trẻ của ông có thể đã hơi thái quá và buồn rầu nói rằng khi sống ở Liên Xô, ông đã mắng một thiếu nữ vì đã mặc váy lụa và đi giày cao gót. Ông nhớ lại, cô này đã đáp lại đầy phẫn uất, cô đã phải làm việc để có tất cả những thứ đó. Cô hỏi: “Thanh niên ngày nay có cơ hội để ăn ngon mặc đẹp có phải là điều tồi tệ không?” [22]. Nhiều thập niên sau, lời nói của cô vẫn còn đọng lại trong tâm trí ông.

Nếu nói hồi đó ông vừa là người quốc gia, vừa là nhà Marxist là đúng thì làm thế nào ông có thể kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước và những đòi hỏi của chủ nghĩa Marxist quốc tế? Câu trả lời có thể tìm thấy ở Lenin. Khi định nghĩa về khái niệm cuộc cách mạng hai giai đoạn trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, Lenin đã đưa ra khái niệm “liên bang” đóng vai trò như một giai đoạn chuyển tiếp giữa độc lập dân tộc và giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản, khi có sự “thống nh?