Chương 7 Pitt và các cường quốc châu Âu
QUÁ THIẾU KINH NGHIỆM TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ NGOẠI GIAO
Pitt lên nắm quyền ở một đất nước có nhiều biến chuyển sau một cuộc chiến tranh khiến nước Anh mất quyền cai trị Ireland và buộc phải trả độc lập cho Mỹ. Nhiều năm sau, Grenville vẫn nhớ đến “sự thất vọng đến xót xa của đất nước khi bị mất cả một lãnh thổ bao la. Tôi là người từng chứng kiến nỗi đau đớn và sự tàn khốc của cuộc chiến gây ra tổn thất to lớn cho đất nước”. Nhiều quốc gia châu Âu cho rằng thất bại của Anh là không còn gì để mất. “Tạm biệt sự kính trọng của các quốc gia, tạm biệt sự giàu có thịnh vượng của Anh quốc” − đó là những gì Hoàng đế Áo Joseph II viết cho anh trai là Công tước Leopold của xứ Tuscany, người đồng tình rằng “Anh quốc là một cường quốc lớn được xếp ngang hàng với Pháp giờ đây đã bị thất bại hoàn toàn và mãi mãi. Nước Anh đã đánh mất sức mạnh và quyền lực trên trường quốc tế và rơi xuống vị trí thứ hai, ngang hàng với Thụy Sĩ và Đan Mạch”.
Thất bại này đã khiến Pitt tỏa sáng trong vinh quang, được phản chiếu bởi chiến thắng vĩ đại mà cha ông đã giành được sau cuộc Chiến tranh Bảy năm. Pitt đã vượt qua được những chính trị gia giàu kinh nghiệm nhưng mang tâm trạng và đầu óc bại hoại sau cuộc chiến để lên nắm quyền điều hành đất nước. Tuy nhiên, thật kỳ lạ là cha của Pitt luôn chú ý đến việc truyền đạt cho con những kinh nghiệm hoạt động trong Viện Bình dân, nhưng lại bỏ qua vốn hiểu biết về vấn đề quốc tế. Một nhà lãnh đạo trẻ tuổi như Pitt lại chưa bao giờ ra nước ngoài, trừ chuyến thăm Pháp kéo dài sáu tuần cùng hai người bạn là Eliot và Wilberforce vào mùa thu năm 1783. Thật nực cười khi những dòng chữ hướng dẫn về nơi ở của họ tại Rheims lại đưa họ tới quầy bán hàng thực phẩm. Thậm chí, tại Tòa án Pháp ở Fontainebleau, như Wilberforce viết: “Tất cả mọi người vây quanh Pitt trong hoàn cảnh rất nguy hiểm, vậy mà Pitt thể hiện thái độ rất thoải mái”. Về văn hóa Pháp, Pitt giỏi âm nhạc hơn ngôn ngữ. Theo ghi chép của Wraxall, ông thành thạo ngữ pháp tiếng Pháp nhưng “ở tuổi 25, ông nói chưa được hoàn hảo và viết không thoát nghĩa”. Mặc dù sau này Pitt đã tiến bộ lên nhiều, song vào năm 1797, trình độ ngoại ngữ của ông vẫn chưa đủ để có thể tranh luận với Grenville về cuộc đàm phán với Pháp. Do đó, ông đã phải để chuyên gia George Ellis dịch bức thư của ông về cuộc đàm phán ra tiếng Pháp.
Pitt không tự trang bị cho mình những kiến thức về nước ngoài thông qua việc đọc sách báo. John Sinclair, người từng tham gia chuyến đi mở rộng của triều đình tới Bắc Âu vào tháng 7/1786, cho rằng nhược điểm chính của một chính trị gia như Pitt là không thích đọc bất cứ loại sách nào ngoại trừ các tác phẩm âm nhạc, đồng thời đánh giá thấp văn học hiện đại, “ông không biết gì về ngoại ngữ hay đặc thù của các nước khác và dường như không thiết tha trang bị cho mình các thông tin về vấn đề này”. Wraxall nhớ lại buổi nói chuyện với Pitt về các thuộc địa của Tây Ban Nha ở khu vực bờ biển Thái Bình Dương thuộc địa phận châu Mỹ, trong Khủng hoảng Nootka vào năm 1790, rằng “Pitt thừa nhận ông không những chưa bao giờ đọc mà còn chưa bao giờ nghe những chuyện kể của Commodore Byron về các vụ đắm tàu của ông ta tại bờ biển Patagonia trong tác phẩm Wager , trong khi đó cuốn sách này có thể tìm thấy ở mọi thư viện”.
Pitt bắt đầu thực hiện ý định nâng cao khả năng ngoại giao của mình. Ngoại trưởng Carmarthen cho biết: trong khi các đồng sự khác trong Nội các không mấy quan tâm đến vấn đề ngoại giao, Pitt đã đầu tư nhiều thời gian hơn đến vấn đề giao tiếp. Tuy nhiên, phải đến tận tháng 5/1784, sau khi các cuộc khủng hoảng nghị viện chấm dứt, ông và vị Bộ trưởng Ngoại giao này có một buổi gặp mặt và thảo luận về tình hình chính trị châu Âu. Hai người đã nhất trí là cần phải phá vỡ vòng liên minh bảo hộ của Pháp và hình thành một vài hệ thống đối trọng. Tuy nhiên, họ vẫn chưa xác định bằng cách nào có thể làm được điều này mà không cần phải tham gia liên minh, vì nếu tham gia sẽ dẫn tới những cuộc tranh cãi trong lục địa và kéo theo là một cuộc chiến mới mà Anh không có điều kiện tham chiến. Hơn nữa, một đất nước vừa mới bị thua trận với một chính phủ mới chưa ổn định thì khó được nước khác xem là một đối tác hấp dẫn. Do vậy, Pitt đã tìm cách khôi phục sức mạnh của đất nước bằng “chính sách kinh tế, hòa bình và thương mại” theo như cách nói của Grenville. Tài chính của đất nước sẽ trở lại cân bằng, nợ quốc gia giảm, kinh tế sẽ được phục hồi và các đề nghị thương mại với Ireland sẽ được thiết lập để nối lại sự thống nhất giữa Anh và Ireland thông qua các “biện pháp kinh tế”. Tháng 8/1785, Pitt viết: “Hãy để kế hoạch thống nhất Ireland được diễn ra tốt đẹp. Hãy để hòa bình được tiếp diễn trong năm năm và chúng ta sẽ lại tiếp tục tìm kiếm vị trí bá chủ châu Âu”.
Trong các cuộc đàm phán với Ireland, Pitt tuyên bố tài chính và hải quân là “hai lợi ích quan trọng nhất của Ireland”. Đề nghị gây nhiều tranh cãi nhất của Pitt là dùng số dư trong tổng thu nhập lũy kế của Ireland để chi trả cho hải quân, đồng thời áp dụng Đạo luật Hàng hải Anh đối với Ireland. Ưu tiên này của Pitt là nhằm khôi phục tiềm lực hải quân Anh sau cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ. Ông đã bác bỏ quan điểm của Shelburne về duy trì quan hệ tự do thương mại với các thuộc địa cũ và thiên về chiều hướng bảo vệ hoạt động hàng hải của Anh để tăng cường số binh lính đã qua huấn luyện cho hải quân. Pitt tán thành các biện pháp của Jenkinson (từ 1786 là Huân tước Hawkesbury) về Ủy ban Thương mại (từ 1786 là Bộ), vấn đề trong Đạo luật Hàng hải năm 1786, trong đó quy định thành lập cơ quan đăng ký tàu bè của Anh để ngăn cản hoạt động buôn bán bất hợp pháp − một biện pháp để tăng cường tiềm lực hải quân. Giống như người tiền nhiệm của mình, Pitt coi sự kiểm soát chặt chẽ là điều cần thiết cho sự phát triển thương mại và giao thông đường biển, từ đó mới có thể tăng cường được tiềm lực tài chính và hải quân. Hàng hóa của Mỹ bị ngăn chặn từ các nước Tây Ấn − những thuộc địa có sức sản xuất mạnh nhất của Anh và biến Canada thành nơi cung cấp thay thế. Đạo luật Canada năm 1791 của Grenville cho phép thành lập hai tỉnh thuộc Canada dưới hình thức chính phủ đại diện (trong đó duy trì Hội đồng Hiến pháp theo kiểu cha truyền con nối giống như Viện Quý tộc để cân bằng với hội đồng được bầu chọn) với mục đích làm giảm ảnh hưởng đối với phong trào cách mạng. Ở miền Đông, Đạo luật Ấn Độ năm 1784 của Pitt (tăng cường quyền kiểm soát của chính phủ) được ban hành nhằm củng cố vị thế của Anh ở thành trì thương mại chính phía đông. Ý đồ của Pháp đối với khu vực này đã bị chặn lại do sự phục hồi ảnh hưởng của Anh đối với Hà Lan và các cơ sở ở vùng Đông Ấn vào năm 1787. Tại đây, năm 1788, Anh tiến hành các bước phát triển vùng đánh bắt cá voi Thái Bình Dương, thuộc vùng thuộc địa mới được thiết lập ở Vịnh Botany. Hoạt động trao đổi thương mại với đế chế Trung Quốc được tăng cường. Những năm 1793-1794, Anh đã thiết lập đại sứ quán tại Bắc Kinh. Năm 1790, các bộ trưởng đe dọa gây chiến với Tây Ban Nha để bảo vệ một cơ sở thương mại mới tại Eo biển Nootka, thuộc bờ biển tây bắc châu Mỹ.
Cùng với việc mở rộng thương mại và giao thông đường biển ở Anh, Pitt đặc biệt chú ý đến hải quân. Trong suốt giai đoạn phát triển kinh tế, Pitt không cho động chạm đến nguồn ngân sách mà ông đã chuẩn bị đủ cho xây dựng và sửa chữa hạm đội chiến đấu. Năm 1786, chi phí cho hải quân là 3.127.000 bảng, cao hơn tổng mức chi phí cao nhất trong thời bình vào năm 1772 là 389.000 bảng. Theo đánh giá của lực lượng hải quân, 10 tàu được xây dựng hoặc sửa chữa mỗi năm là đủ để duy trì một hạm đội chiến đấu gần 100 tàu. Pitt thu được khoản viện trợ của Nghị viện trong thời gian 1783-1793 để đóng xong 43 tàu mới, chuẩn bị đóng thêm 10 tàu, sửa chữa 85 tàu, như vậy, trung bình mỗi năm vượt chỉ tiêu hai tàu so với yêu cầu của lực lượng hải quân. Pitt luôn quan tâm đến kết quả của hoạt động này. Sau này, con trai của vị Tư lệnh Lực lượng Hải quân từ 1790-1794 viết:
Để đối phó với cuộc khủng hoảng ngoại giao trong các năm 1787, 1790, 1791 và tháng 3/1792, Anh lấy việc triển khai lực lượng hải quân làm hoạt động trọng tâm và khả năng triển khai một hạm đội hải quân hùng hậu nhanh hơn đối phương, đó là thuận lợi chính ban đầu.
Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên, sự bất lực của chính phủ mới trước các vấn đề quốc tế được thể hiện rất rõ ràng. Năm 1785, tình huống trở nên đặc biệt tồi tệ khi Hà Lan và Pháp thành lập liên minh mới. Trong khi đó, nỗ lực kéo Áo và Nga đứng về phía liên minh với Anh đã thất bại vì George III (với vai trò là cử tri của Hanover) quyết định cùng Phổ tham gia liên minh của các hoàng thân Đức để phản đối âm mưu của Áo thay đổi tỉnh Belgian thành Bavaria. Khi các bộ trưởng trong Nội các thú nhận mình đã lờ đi hoặc bất lực, không thể can thiệp vào cách quản lý Hanover của Vua George, Nữ hoàng Nga Catherine II đã kết luận: “Bộ trưởng Anh không phải là người thật sự điều hành các vấn đề ngoại giao của nước này, người điều khiển chính là ông vua đầy ác ý dưới sự chỉ đạo của đoàn mục sư Hanover”. Tháng 2/1786, đặc phái viên vùng Sardinia viết rằng Pitt chỉ là phương tiện phát ngôn của Nội các khi chính Pitt đôi lúc tự cảm thấy nói về vấn đề ngoại giao là một điều bắt buộc. Thậm chí, Pitt còn thú nhận với ông ta rằng mình quá thiếu kinh nghiệm trong việc giải quyết các vấn đề ngoại giao.
Tuy nhiên, hai năm sau, tình huống buộc ông phải đóng vai trò quyết định trong việc đưa ra chính sách ngoại giao. Carmarthen thiếu khả năng và không chuyên tâm nhưng không muốn thay đổi vị trí. Pitt yêu cầu ông ta làm theo chỉ đạo của Nội các nhưng Thurlow lại chần chừ trong việc hoạch định các hiệp ước. Camden chỉ phụ trách vấn đề lưu hành giấy tờ. Còn Richmond − cựu Ngoại trưởng, người mà Pitt đặc biệt yêu cầu phải có mặt trong các cuộc họp Nội các về các vấn đề ngoại giao − lại dao động giữa các thái cực và giữ khoảng cách khi cho rằng những ý kiến cố vấn của mình sẽ không được chấp nhận. Cuối cùng, tự nhận thấy mình không có được trợ giúp chính từ Carmarthen, Pitt dần nắm quyền điều hành các lĩnh vực mà vị Ngoại trưởng không mấy quan tâm và tự vạch ra các chính sách. Đầu tiên, phải kể đến các cuộc đàm phán thương mại với các nước lớn. Pitt tham gia với vai trò là Bộ trưởng Tài chính. Sau thất bại ở Ireland năm 1785, Pitt đầu tư thương mại ra nước ngoài, với sự trợ giúp của Jenkinson và đặc biệt là của Grenville, người đã đưa Jenkinson lên làm Thứ trưởng Bộ Thương mại.
Chính Pitt chứ không phải Carmarthen, người hay ngờ vực, đã đối phó với áp lực từ phía Pháp để nối lại cuộc đàm phán thương mại vốn trì trệ khi bổ nhiệm chuyên gia thương mại William Eden làm người thương thuyết vào tháng 12/1785. Sau này, dưới sự dàn xếp của Pitt và Grenville, những chỉ dẫn về cuộc đàm phán được đứng tên Carmarthen gửi đến Eden. Eden cho biết, những chỉ dẫn này chủ yếu là do Grenville vạch ra. Ngày 26/9/1786, Hiệp ước Thương mại với Pháp được ký kết, trong đó dự tính về mặt thời gian cũng được đưa ra đàm phán với Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Nga. Pitt tham gia tất cả các cuộc đàm phán này. Trong trường hợp đàm phán với Tây Ban Nha, Pitt đã soạn thảo và sửa chữa báo cáo; còn khi làm việc với Jenkinson, ông đã vạch ra các đề nghị đối với hiệp ước. Mặc dù các nhà bình luận thế kỷ XIX ca ngợi Pitt là tiền thân của thuyết tự do thương mại đang rất thịnh hành, nhưng khác với người tiền nhiệm là Shelburne, ông đặc biệt thận trọng cam kết là “tự do thương mại hơn” chứ không phải là “tự do thương mại” và luôn kèm theo điều kiện là không gây cản trở đến giao thông đường biển của Anh. Nếu như Shelburne luôn mong muốn được nhanh chóng đàm phán thương mại với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, một quốc gia mới thành lập, thì Pitt thường tránh các hiệp ước kiểu như vậy, trừ phi người Mỹ cảm thấy cần thiết phải nhân nhượng trong cuộc chiến với Cách mạng Pháp năm 1794. Hiệp ước với Pháp năm 1786 tạo điều kiện cho hai bên trao đổi lẫn nhau, đồng thời giảm thuế xuất nhập khẩu và thuế tàu đến mức thuận lợi nhất cho cả đôi bên. Tuy nhiên, Anh vẫn tìm cách bảo hộ ngành công nghiệp lụa London với việc duy trì lệnh cấm nhập khẩu lụa Pháp. Việc Pitt thận trọng để duy trì cân bằng giữa thương mại và hàng hải cùng với mối lo lắng của các quốc gia trong cuộc cạnh tranh về nền kinh tế Anh đang trong giai đoạn phục hồi đã khiến Pitt không mấy thành công hơn các đối thủ châu Âu trong các cuộc đàm phán thương mại. John Ehrman cho biết: Giữa những năm 1783-1792, Nga và Pháp đạt được sáu hiệp ước có thể hoàn toàn là thương mại hoặc một phần liên quan đến thương mại, Tây Ban Nha đạt bốn hiệp ước, trong khi đó Anh đàm phán tám hiệp ước nhưng chỉ đạt được một hiệp ước với Pháp và nối lại một hiệp ước với Nga vào năm 1793. Với sự trợ giúp của Pitt, Grenville đã thảo luận với Mỹ về điều kiện thương mại tự do trong Hiệp ước Jay năm 1794, bất chấp sự phản đối của Hawkesbury.
Hiệp ước thương mại Anh-Pháp năm 1786 có thể đã thành công chỉ vì Pháp (một đất nước khắt khe về tài chính) và William Eden (một người khắt khe về chính trị) đều cần đến sự thành công này. Tuy nhiên, Pitt có được uy tín đối với các thương gia và các nhà sản xuất là nhờ vào việc mọi người đều nhìn thấy rõ sự mở rộng thương mại giữa Anh và Pháp. Qua đó, Pitt đã giành được lòng tin của dân chúng về khả năng hoạt động của mình trên trường quốc tế. Ông và Eden tiếp tục trao đổi qua thư từ khi Eden ở Pháp để giám sát việc thi hành hiệp ước. Tháng 12/1786, với sự gợi ý của Carmarthen − người gặp trở ngại trong việc gây sự chú ý với Vua Anh và Nội các, James Harris − đặc phái viên Anh tại Các tỉnh Thống nhất 1 , đã viết thư cá nhân trao đổi với Pitt về ý đồ thành lập đảng đứng sau Thái tử của Orange, người đứng đầu nhà nước Hà Lan và có tư tưởng thân Anh để đối đầu với Đảng yêu nước ủng hộ Pháp. Nhờ bức thư của Harris mà Pitt đã gọi Carmarthen đến bàn bạc cụ thể về phương án tiến hành. Vị Ngoại trưởng vui mừng khi thấy Pitt chỉ quan tâm đến cách thức tiến hành chứ không băn khoăn về ý đồ. Sau khi Harris đến London vào tháng 5 để thảo luận với Nội các về vấn đề này, nguồn vốn hỗ trợ cho hoạt động bí mật của Harris đã lên tới 12.000 bảng vào tháng 1/1787 và sau đó các tỉnh của Orange được vay 70.000 bảng. Pitt đã gặp riêng Harris và chất vấn ông ta rất cẩn thận. Ông cũng tỏ ra băn khoăn rằng liệu có đáng phải gây ra chiến tranh và làm ảnh hưởng đến sự thịnh vượng của quốc gia với những âm mưu leo thang như vậy hay đợi một vài năm, đến khi đất nước đủ mạnh mới đối chọi với Pháp. Tuy nhiên, Pitt quyết định mạo hiểm một lần và điều này là yếu tố quan trọng giúp Pitt nhận được sự đồng tình miễn cưỡng của Vua Anh.
Sự thiếu kinh nghiệm của Pitt bộc lộ ở việc ông không mấy quan tâm khi Richmond đã thận trọng cảnh báo cần phải thuê binh lính hạm đội của Đức trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Pitt không thể ngờ cuộc khủng hoảng có thể xảy ra nhanh như vậy. Sự việc bắt đầu khi Công chúa của hạt Orange dùng thủ đoạn lừa những người trong Đảng yêu nước ủng hộ Pháp bắt giữ mình vào tháng 6/1787 và khẩn khoản yêu cầu anh trai là Frederick William II của Phổ cùng nước Anh trả thù cho mình. Nước Phổ kêu gọi rửa nhục và tập trung quân ở gần biên giới Hà Lan. Còn những người thuộc Đảng yêu nước kêu gọi sự ủng hộ từ phía Pháp. Cuộc khủng hoảng bất ngờ xảy ra vào giữa mùa hè, Pitt đang ở London, trong khi các đồng sự đều phân tán ở quê hương của họ. Tổng Giám mục Canterbury cho biết, chỉ có Grenville và Richmond ở bên cạnh tư vấn cho Pitt và rất lo lắng trước khả năng giải quyết tình hình của ông, đồng thời mong mỏi hai người dày dạn kinh nghiệm chiến tranh là Stafford và Thurlow trở về London. Pitt có tư duy đáng kính nể, nhận thức đúng đắn và quyết định thức thời nhưng lại thiếu kinh nghiệm và sự am hiểu chính xác về bản chất của các nước.
Trên thực tế, tư duy của Pitt rất khoa học. Sau khi thu thập được các thông tin tài chính từ Eden ở Paris và phỏng vấn Calonne, Bộ trưởng Tài chính Pháp đã bị cách chức hiện đang tị nạn tại nước ngoài, Pitt nhanh chóng nhận thấy do vấn đề tài chính và chính trị, Pháp không thể sẵn sàng sử dụng các biện pháp khắc nghiệt và cũng không thể chuẩn bị được. Ông đã phái Grenville tới Hà Lan để kiểm tra lại kết luận của Harris cho rằng người Orange hiện đang thay thế vị trí của những người yêu nước ủng hộ Pháp và dùng báo cáo của Grenville để thuyết phục Vua Anh thừa nhận tình huống này. Các cơ quan chính phủ Anh thông báo việc Pháp tuyên bố đang tập trung quân ở Givet thuộc biên giới phía bắc hai nước là lừa bịp. Liệu Pitt có chuẩn bị hành động để đối phó với trò lừa bịp đó hay không? Nếu có, ông có thể sẽ phá vỡ Liên minh Pháp-Hà Lan và giành lấy sự ủng hộ của Hà Lan, bởi lẽ lực lượng hải quân của nước này có ảnh hưởng đến sự cân bằng giữa các vùng biển quốc gia và các căn cứ của Hà Lan ở nước ngoài mà hiện Pháp đang sử dụng sẽ là mối đe dọa lớn đối với chủ quyền của Anh ở Đông Ấn. Cái khó của Pitt là ở chỗ, nước Anh không có một đội quân hùng mạnh với các binh chủng lớn tương xứng với một cường quốc lục địa. Phổ đã tập trung quân, song còn đang do dự liệu có nên tác chiến hay không bởi lẽ chưa nắm được phản ứng của các đối thủ phương Đông là Nga và Áo. Đúng lúc đó, đầu tháng 9, Berlin nhận được thông tin là Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên chiến với Nga. Điều này khiến Nga và Áo thay đổi kế hoạch và xua tan nỗi lo của Berlin, binh lính Phổ tiến về Các tỉnh Thống nhất. Ở châu Âu, người ta tin rằng Robert Ainslie, đặc phái viên Anh tại Constantinople đã kích động Thổ Nhĩ Kỳ nghênh chiến, mặc dù sau đó Thurlow luôn khẳng định: “Người Thổ Nhĩ Kỳ rất giữ uy tín với chúng tôi, chúng tôi thật sự cố gắng ngăn cản cuộc chiến”.
Ngày 7/8/1787, Pitt quyết định sẽ ủng hộ Phổ nếu họ gây chiến. Đến cuối tháng 8, ông đã tiến hành các bước viện trợ cho người Orange và thuê lính Hessian của Đức. Ngày 3/9, Phổ nhận được trợ cấp và hỗ trợ của Hải quân Anh. Sau khi nhận được lời cảnh báo từ phía Pháp vào đêm 19/9 rằng Pháp tuyên bố sẽ ủng hộ những người yêu nước nếu Phổ tấn công, Pitt triệu hồi các Bộ trưởng Nội các và Bộ trưởng Tài chính George Rose tới London. Cuộc họp diễn ra vào ngày 19 đã đi đến quyết định triển khai hạm đội hải quân và tăng cường lực lượng lục quân. Sau đó, Pitt mời Calonne ăn tối và “được nghe toàn bộ tình hình chính trị ở Pháp, không có dấu hiệu tồi tệ nào đối với chúng ta”. Ông đã phái Grenville đến Paris tìm cách thuyết phục Pháp rút quân trong danh dự. Tuy nhiên, trên thực tế, trong khi kháng cự lực lượng của Phổ, đội quân yêu nước đã nhanh chóng thất bại hoàn toàn, Paris ở vào thế “sự đã rồi”.
Trong cuộc khủng hoảng ở Hà Lan kéo dài từ tháng 8 đến tháng 9/1787, Pitt là người điều hành chính sách ngoại giao của Anh. Các quốc gia khác đều công nhận điều này. Tháng 1/1788, Ngoại trưởng Pháp coi Carmarthen “chỉ là người đại diện cho Pitt”. Pitt đã soạn thảo ra nhiều báo cáo gửi tới Hague, Paris và Berlin, phái Grenville tới Paris và Berlin, đồng thời phỏng vấn riêng đặc phái viên của Pháp ở London (cuộc phỏng vấn không thành công bởi lẽ giọng điệu thân mật của ông đã thể hiện nhiệt tình muốn bảo vệ lợi ích của Hiệp ước Thương mại khiến người Pháp hiểu lầm quyết tâm thật sự của ông trong việc ủng hộ Orange và Phổ). Chính Pitt, chứ không phải Carmarthen, là người dàn xếp với Vua Anh, thông báo cho các Bộ trưởng Nội các vắng mặt và hành động dứt khoát với vai trò thật sự của nhà lãnh đạo chính phủ, khác hẳn với những gì mà Harris nhìn nhận về Pitt trong cuộc họp Nội các tháng 5. Ông đã thu được kết quả ngoại giao thay đổi hoàn toàn. Giờ đây, ảnh hưởng của Anh đối với Hà Lan là trội hơn Pháp. Sau cuộc chiến tàn khốc với Mỹ, như Camden từng nói, nước Anh đã nhanh chóng đi lên và có những bứt phá phi thường “thoát khỏi tình huống nguy hiểm nhất mà chúng tôi từng chứng kiến”. Pitt được ca tụng ở khắp mọi nơi, mặc dù ông đã thẳng thắn thừa nhận “có được kết quả đó là nhờ may mắn do hoàn cảnh đem lại chứ không phải vì bất kỳ nguyên nhân nào khác”.
Tuy nhiên, châu Âu vẫn hồ nghi về việc Pitt có thể thể hiện xuất sắc trong thời gian lâu dài. Cuộc tranh cãi giữa Pitt và Chủ tịch Viện Quý tộc Thurlow không thoát khỏi tai mắt của các đặc phái viên nước ngoài ở London và của Pháp, đặc biệt họ đã suy luận đây là cuộc tranh giành quyền kiểm soát chính sách ngoại giao Anh giữa một bên là Pitt, một bên là Vua Anh được trợ giúp bởi âm mưu của các bộ trưởng mà đứng đầu là Thurlow và Hawkesbury. Vua Anh vẫn cho rằng sớm muộn gì Anh sẽ phải can thiệp vào tình hình ở châu Âu, vì vậy ngài phản bác việc Pitt luôn nhấn mạnh nhu cầu khôi phục hòa bình ở Baltic bằng việc cứu Thụy Điển thoát khỏi cuộc tấn công của Đan Mạch vào mùa thu năm 1788. Một cuộc tranh cãi nghiêm trọng đã vô tình được ngăn chặn khi đặc phái viên của Anh tại Đan Mạch và Phổ tham gia đàm phán về một thỏa thuận ngừng bắn, mặc dù như vậy là không đúng thẩm quyền. Tuy nhiên, điều này đã khiến người ta phải đặt ra câu hỏi: Liệu đặc phái viên Anh hay chính phủ đang điều hành chính sách ngoại giao của Anh? Tình trạng ốm yếu của Vua Anh và cuộc Khủng hoảng chế độ nhiếp chính sau này đã tạo ra những hoài nghi khác về việc Pitt tiếp tục chiếm giữ vị trí ngoại giao và đưa chính sách ngoại giao rơi vào tình trạng hoàn toàn bế tắc cho đến khi sức khỏe của Vua Anh hồi phục.
MƯU ĐỒ CỦA PITT
Chỉ sau khi sức khỏe của Vua Anh được hồi phục vào năm 1789 thì việc Pitt lên nắm quyền mới thật sự được khẳng định và Vua Anh tạm thời trao quyền nhiều hơn cho các bộ trưởng của Pitt, như vậy Pitt mới có thể tiến hành các bước quan trọng để giải quyết những vấn đề liên quan đến chính sách ngoại giao cơ bản của Anh. Pitt cần bảo vệ thắng lợi của mình tại Các tỉnh Thống nhất chống lại sự trả đũa của Pháp trong tương lai. Ông cũng mong muốn duy trì chính sách phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, liên minh với Các tỉnh Thống nhất có thể gây cản trở cho liên minh với Pháp. Vì lý do này, Pitt đã miễn cưỡng chấp nhận liên minh với từng nước theo như đề nghị của Phổ năm 1788 và Áo năm 1793. Dù vậy, ông vẫn lo sợ nước Anh có thể bị lôi kéo vào khối đồng minh phức tạp, gây ra những rắc rối lớn nên Pitt muốn một liên minh chung với các cường quốc để tạo nên khối an ninh tập thể có hiệu quả. Vẫn lo sợ Phổ có thể sẽ liên minh với Pháp, Pitt đã lập liên minh phòng thủ với Đức từ tháng 7 đến tháng 8/1788. Cả Anh và Đức đều liên minh với Hà Lan, tạo ra Đồng minh ba nước. Tuy nhiên, điều này đã trở thành ác mộng tệ nhất đối với Pitt khi Phổ nhân cơ hội này tìm cách mở rộng lãnh thổ như Nga và Áo đã giành được trong cuộc chiến với Thổ Nhĩ Kỳ. Hai năm sau, Pitt và Carmarthen (từ 1789 là Công tước xứ Leeds) chật vật ngăn cản âm mưu mở rộng lãnh thổ của Phổ khi nước này mong muốn giành được Danzig và Thorn từ Ba Lan. Không hỏi ý kiến của London, năm 1789, Phổ kích động Ba Lan phá vỡ quyền thống trị của Nga và đàm phán với phong trào ly khai trong lãnh thổ tự trị của Áo ở Bỉ (một nước đã tuyên bố độc lập vào tháng 1/1790) và ở Hungary. Đầu năm 1790, Phổ tuyên bố đã lập liên minh phòng thủ với Ba Lan thành công và đang đàm phán lập một liên minh khác với Thổ Nhĩ Kỳ để chuẩn bị cho cuộc chiến với Áo.
Bằng kinh nghiệm của mình, Pitt nhận thấy nếu tham gia liên minh với các nước châu Âu thì Anh sẽ trở thành một bộ phận của một hệ thống chung lớn mạnh, bảo đảm hòa bình và an ninh ở châu Âu. Đó là một cách nhìn chiến lược mà theo cách nói của Pitt là “kiềm chế sức cám dỗ của tham vọng chiến tranh”. Đây cũng chính là ý đồ mà một số người tiền nhiệm của Pitt từng tính đến nhưng không mấy thành công như Stanhone (1716-1721), Newcastle (1748-1755). Pitt đã đưa ra ý đồ này lần đầu tiên vào tháng 1/1790 và đề nghị thêm một số sắp xếp cho các cường quốc châu Âu vào các năm 1793, 1798 và 1805. Thế nhưng, cuối cùng nó chỉ được thực thi khi Castlereagh, môn đệ của ông, thực hiện điều cốt yếu của ý đồ này trong giai đoạn 1815-1821.
Cơ hội đầu tiên đến với Pitt trong năm 1790 1791, bởi lẽ lúc này tiếng nói của Anh mới tạm thời có trọng lượng đối với các vấn đề châu Âu, do Pháp thất bại trong cuộc cách mạng năm 1789, Nga và Áo lại không có khả năng chấm dứt cuộc chiến ở phía đông để đối phó sức phản kháng mạnh mẽ không ngờ của Thổ Nhĩ Kỳ. Pitt tìm cách tập trung các cường quốc như Ba Lan, Đan Mạch, Thụy Điển và có thể cả Tây Ban Nha bao quanh Đồng minh ba nước để thiết lập lại vị trí các lãnh thổ như trước năm 1787. Đây là yếu tố cơ bản đảm bảo hòa bình lâu dài, tránh tranh giành mở rộng lãnh thổ. Khối đồng minh này có thể giúp Thụy Điển giữ được các tỉnh của Phần Lan, tránh khỏi mối đe dọa từ phía Nga khi Stockholm vội vã đứng về phía Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1788, đồng thời tách Áo khỏi liên minh với Nga bằng cách kích động Áo nhờ khối đồng minh này dàn xếp việc chấm dứt cuộc chiến khốc liệt và tốn kém với Thổ Nhĩ Kỳ và trao trả quyền cai trị nước Bỉ cho Áo, trong đó tự do hiến pháp của Bỉ vẫn được đảm bảo bởi khối đồng minh để đề phòng các cuộc nổi loạn có thể xảy ra trong tương lai. Cuối cùng, khối đồng minh này đã ép Nữ hoàng Catherine II đàm phán hòa bình với Thổ Nhĩ Kỳ nhằm ngăn cản sự chiếm đoạt lãnh thổ trực tiếp của Nga, tuy nhiên vẫn để Nga cai trị cùng Khan của bán đảo Crimea mà nước này đã chiếm được vào năm 1783. Cô lập được Nga bằng cách lôi kéo Áo vào quỹ đạo của Đồng minh ba nước, họ hy vọng sau đó cũng có thể kích động được Catherine hợp tác với khối đồng minh này để tránh tình trang bị cô lập và cuối cùng tất cả các cường quốc này sẽ cùng tham gia để bảo đảm chủ quyền lãnh thổ của nhau (trong đó có cả các thuộc địa châu Âu của Thổ Nhĩ Kỳ). Điều này sẽ tạo ra một hiệp ước không thù địch nhằm dập tắt tham vọng của hai cường quốc hiếu chiến nhất là Nga và Phổ. Đồng thời, nó cũng giúp Ba Lan trở thành đối tác thương mại hấp dẫn có tiềm năng về đường biển của Anh – nước đang gặp trở ngại lớn về lợi ích của Nga, nhằm nối lại Hiệp ước Thương mại đã hết hiệu lực vào năm 1788. Nếu Pháp cuối cùng không chấp nhận hệ thống này thì nó sẽ bị cô lập hoàn toàn hoặc trở nên bất lực. Tình huống trong cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ có thể sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.
Để thực hiện mưu đồ, trước mắt Pitt cần phải gây áp lực làm suy yếu các nước Pháp, Nga và Áo. Đây là một suy tính đầy tham vọng khiến chúng ta nhớ lại những giải pháp tự điều chỉnh rất toàn diện mà Pitt thường xuyên áp dụng trong đối nội vào thời kỳ đầu khi ông mới lên nắm quyền (cải tổ Nghị viện, các đề xuất thương mại ở Ireland, Quỹ chìm). May mắn cộng với nghị lực là những yếu tố cần thiết cho thành công. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng Hà Lan, ông được hỗ trợ bởi “hàng loạt tình huống diễn ra rất kỳ lạ theo chiều hướng có lợi cho ông”. “Mối liên kết giữa các sự kiện bất ngờ” theo chiều hướng có lợi cho Pitt mà chỉ cần thiếu may mắn một chút có thể dẫn tới thất bại, như việc ông mất quyền kiểm soát tình huống vào năm 1790-1791.
Diễn biến bất ngờ đã phá hỏng sự chuẩn bị và khiến mọi ý định của Pitt bị chệch hướng, khi có thông tin đến vào tháng 1/1790 cho biết Tây Ban Nha đã bắt giữ một tàu Anh tại Eo biển Nootka thuộc bờ biển phía tây bắc châu Mỹ. Tây Ban Nha tuyên bố bá chủ khu vực Thái Bình Dương. Pitt nhanh chóng can thiệp để ngăn cản xung đột bằng việc xoa dịu phản ứng hiếu chiến của Leeds, từ đó có cơ hội nhận được nhiều thông tin hơn về đặc điểm tình hình ở khu vực này. Lần đó, Wraxall đã rất tiếc nuối khi Pitt thờ ơ trước cuốn sách của Byron nói về vùng biển Nam Mỹ. Tuy nhiên, Wraxall bổ sung rằng khi nhận được bản sao cuốn sách này, khả năng và sự nhanh nhạy của Pitt đã giúp ông cùng một lúc tiếp thu, sắp xếp và hấp thụ thành kiến thức mình cần một cách tuyệt vời. Đầu tháng 4, một chủ hãng buôn, người đã thiết lập căn cứ Nootka, đã đến Anh và mang theo thông tin cho biết có ba tàu đang bị bắt giữ, các thủy thủ bị ngược đãi và khẳng định ông đã ký thỏa thuận với người Ấn Độ bản địa rằng vùng đất này thuộc chủ quyền của Anh. Điều này khiến Pitt phải đẩy mạnh sức ép.
Ngày 30/4/1790, Nội các quyết định yêu cầu phải trả đũa ngay lập tức và triển khai hạm đội hải quân. Ngày 6/5, Pitt yêu cầu Viện Bình dân cung cấp thông tin và khẳng định: Tây Ban Nha muốn ngăn cản Anh mở rộng hàng hải và đánh bắt cá ở khu vực Thái Bình Dương. Fitzherbert − một chuyên gia già dặn kinh nghiệm nhất − được phái tới Madrid để yêu cầu nước này bồi thường cho các tàu bị bắt giữ, đồng thời tìm kiếm một giải pháp lâu dài đòi hỏi Tây Ban Nha phải từ bỏ tuyên bố độc quyền hàng hải ở khu vực Thái Bình Dương và tất cả các lãnh thổ không bị chiếm đóng nhằm tránh lặp lại sự việc này. Kế hoạch tấn công vùng biển Caribbean thuộc Tây Ban Nha cũng được chuẩn bị. Trước sự nhất trí của Đồng minh ba nước, các đại diện đã được gửi tới Pháp để trấn an các quan chức lãnh đạo của Hội đồng Pháp, sau đó Pitt đã soạn thảo hoặc chọn lựa những yêu cầu quan trọng nhất trong các bản dự thảo của Leeds, gửi tối hậu thư tới Tây Ban Nha vào ngày 2/10. Ngày 28/10, Tây Ban Nha nhất trí với thỏa thuận trả lại quyền sở hữu Nootka cho Anh và đền bù thiệt hại cho ba tàu bị bắt giữ. Madrid đã tránh đề cập đến biên giới cố định được xác lập giữa Tây Ban Nha và Mỹ, chấp nhận quyền lợi của Anh tại những khu vực vượt ra ngoài giới hạn thỏa thuận của Tây Ban Nha tại bờ biển phía tây bắc và thừa nhận quyền được đánh bắt cá của Anh ở Thái Bình Dương.
Ngày 4/11, tin thắng lợi đã đến London. Một tháng sau, Pitt được Vua Anh phong cấp tước Ga tơ. Tuy nhiên, Khủng hoảng Nootka đã khiến các bộ trưởng rất bối rối trước những sự kiện xảy ra ở châu Âu trong chín tháng qua. Việc Anh từ chối giúp đỡ Phổ đánh chiếm Áo đã khiến hai thế lực thuộc Đức giải quyết được mâu thuẫn của họ vào tháng 7/1790. Trước điều kiện thuận lợi cho mưu đồ của Pitt, ngày 14/8, Leeds đã gửi thư cho Berlin đề nghị Phổ hoãn việc gửi tối hậu thư quân sự cho Nga trong khi cuộc đối đầu với Tây Ban Nha vẫn đang tiếp diễn, vì lúc này Anh không thể đảm bảo gửi một đội quân hùng mạnh hỗ trợ cho Baltic. Nhờ vậy, Nga thoát khỏi áp lực bị bao vây. Cùng ngày, Thụy Điển đơn phương hòa giải với Nga. Cuộc chiến giữa Nga và Phổ đình hoãn giúp Áo lấy lại được bình tĩnh, hòa giải với Hungari và tháng 11, nước này đưa quân đi chiếm lại Bỉ (một quốc gia chưa được khối đồng minh bảo đảm tự do). Khi vị trí của Vienna được nâng cao, nước Áo trở nên khó có thể thuyết phục để cùng các nước gây áp lực lên cựu liên minh Nga. Ngoài ra, do Khủng hoảng Nootka nên việc hợp tác với Tây Ban Nha không thể thực hiện được. Trong khi đó, trong cuộc chiến với Thổ Nhĩ Kỳ, quân đội Nga cuối cùng đã đánh bại nước này và chiếm được pháo đài Izmail vào tháng 12/1790.
Vì vậy, Pitt đã trở lại với mưu đồ của mình sau Khủng hoảng Nootka, khi hoàn cảnh đã có nhiều biến đổi. Các cuộc đàm phán được tiến hành gấp vào ngày 8/1/1791 nhằm tìm kiếm sự ủng hộ đối với tối hậu thư của Đồng minh ba nước gửi cho Nga vốn đã gặp phải thất bại. Các điều kiện mà Thụy Điển đưa ra quá cao nên không thể thực hiện được, Đan Mạch muốn ở thế trung lập, Hà Lan lại rất thờ ơ. Dù vậy, Pitt vẫn tiến hành. Phấn chấn trước thành công ở Nootka và với bản tính lạc quan, Pitt khao khát muốn nắm cơ hội có được cách giải quyết toàn diện. Dựa vào các đặc phái viên của mình ở St Petersburg, Stockholm và đặc biệt được Joseph Ewart ở Berlin cung cấp thông tin rằng Nga sẽ chịu nhượng bộ, Pitt tin rằng đây là cách duy nhất để Anh duy trì ảnh hưởng của mình đối với Phổ và các quốc gia nhỏ hơn ở Baltic. Giữa tháng 3, Frederick William II đưa ra tối hậu thư gấp. Được quân đội Phổ và hải quân Anh nhất trí, cùng sự có mặt của Ewart − vốn đang ở trong nước nhân chuyến nghỉ phép, Nội các đồng ý gửi một hạm đội tới Baltic và một đội tàu tới Biển Đen. Pitt đích thân viết tối hậu thư gửi tới Berlin để tìm kiếm sự ủng hộ của nước này, sau đó gửi tới Nga yêu cầu trao trả pháo đài Ochakov cho Thổ Nhĩ Kỳ − vốn đã bị Nga chiếm sau Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1787. Pitt cho rằng Ochakov là nơi kiểm soát các cửa sông lớn từ Ba Lan (nước mà Anh mong muốn được phát triển thương mại) ra Biển Đen. Trả lại Ochakov cho Thổ Nhĩ Kỳ là một bước hiệu quả đánh dấu việc lấy lại biên giới cũ. Pitt tin rằng điều này rất quan trọng đối với việc khôi phục ổn định quốc tế bằng cách ngăn chặn tham vọng của các nước muốn mở rộng lãnh thổ cho tương xứng với những gì Nga đã thu được.
Khi viết tối hậu thư vào ngày 27/3/1791, Pitt luôn tin rằng Nga sẽ chịu thua một cường quốc mạnh hơn mình. Tuy nhiên, ông cũng nhanh chóng nhận ra là không thể tập trung lực lượng đủ để có thể khiến một đế chế ngoan cố như Nga phải sợ hãi, bởi lẽ Nga đã chứng minh là mình mạnh hơn những đối thủ trước đây của Anh là Pháp và Tây Ban Nha. Yêu cầu của Phổ đã ngăn cản ý định ban đầu của Pitt, hoãn tối hậu thư cho đến thời gian ngừng họp Nghị viện. Ngày 29/3, khi yêu cầu Viện Bình dân tán thành việc triển khai hạm đội, Pitt đã không thuyết phục được các nghị sĩ công nhận tính cần thiết của biện pháp này.
Trong phiên họp Nghị viện, việc Pitt không chuẩn bị chu đáo đã tạo cơ hội cho phe đối lập tấn công. Rối trí trước Khủng hoảng Nootka và cuộc tranh cãi với Thurlow, Pitt đã không có đủ những nhận định mới về tình huống. Ngày 9/3, Thứ trưởng của Leeds phàn nàn rằng đã từ lâu ngài Pitt chỉ luôn hết lời ca ngợi Bộ trưởng Ngoại giao. Ông đã không có thông tin chính xác về Ochakov mà theo như tiết lộ, nó không quan trọng và cũng không phải là hàng rào có ý nghĩa chiến lược như ông từng tin tưởng. Vấn đề còn lại là khả năng của lực lượng hải quân hoạt động ở Baltic hoặc ở Biển Đen. Ông vẫn đi đàm phán với các cường quốc mà ông cho là ủng hộ tối hậu thư của Đồng minh ba nước và phải giữ bí mật về sự ủng hộ của họ. Ông chưa thiết lập được Hiệp ước Thương mại với Ba Lan và hầu như không thể công khai nói rằng mục đích lớn hơn của ông là hạn chế sự hiếu chiến của nước Phổ đồng minh và lôi kéo Nga vào hệ thống an ninh tập thể xung quanh Đồng minh ba nước. Thurlow đã khẳng định rằng lý lẽ bảo vệ chính sách của Pitt thiếu sức thuyết phục hơn thường lệ. Số phiếu ủng hộ ông ở Viện Bình dân mặc dù vẫn cao nhưng đã tụt xuống từ 103 phiếu vào ngày 29/3 xuống 80 phiếu vào ngày 12/4 (trong khi đó, đặc phái viên của Pháp dự tính là 150 phiếu), bởi lẽ những người ủng hộ trung thành với ông ngày càng thờ ơ trong việc ủng hộ một cuộc đối đầu mà dường như không mang lại lợi ích gì cho Anh. Sau cuộc đàm phán ngày 12/4, Pitt phàn nàn rằng “có thể thuyết phục họ để bắt đầu một cuộc chiến từ những ham muốn (Nootka), nhưng không thể làm cho họ thấu hiểu được trường hợp mà lợi ích giá trị nhất của nước Anh đang bị đe dọa”.
Ngay cả một số thành viên Nội các cũng tỏ vẻ hoài nghi, gay gắt nhất là Richmond, thậm chí cả Grenville − người thân cận nhất của Pitt, và đáng sợ hơn cả là Pitt không nhận được một phiếu tín nhiệm nào từ Nghị viện. Do vậy, ngày 31/3, Pitt quyết định gửi thư hỏa tốc yêu cầu Phổ chấm dứt việc viết tối hậu thư cho Nga. Ngày 16/4, thay vì gây sức ép với Nga, Nội các nhất trí xem xét đề nghị của Hà Lan về việc tìm giải pháp thỏa hiệp. Tuy nhiên, Catherine bác bỏ và giảng hòa theo điều kiện của Nga. Đó là một cú đánh cay đắng và đột ngột với Pitt. Ông nói với Ewart trong nước mắt rằng đây là điều sỉ nhục nhất mà ông từng trải qua. Tuy nhiên, ý tưởng đầy hy vọng của Pitt lại được xây dựng trên nền tảng không vững chắc, thậm chí nếu ông buộc được Nga thỏa hiệp theo điều kiện ông đưa ra cũng như thuyết phục được Vienna và St Petersburg tham gia khối đồng minh chung, thì liệu một hệ thống được hình thành dựa trên sự yếu kém tạm thời của Nga, Áo và Pháp có giúp được nước nào trong số đó phục hồi hay không? Sau thất bại của Pitt, tình huống cho thấy, để kiềm chế được tính hám lợi của Nga và Phổ trong một thời gian dài thật là khó. Nếu con đường mở rộng tới Thổ Nhĩ Kỳ của họ không bị khép lại, những điểm yếu của Pháp và Ba Lan sẽ lại bị khai thác và đây sẽ là hậu quả tai hại cho cơ hội hợp tác với các cường quốc châu Âu.
NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ CUỘC CHIẾN VỚI PHÁP
Điều sỉ nhục từ tình hình Ochakov đã bất ngờ khiến Pitt dừng cuộc du ngoạn hung hăng vào vũ đài quốc tế. Leeds từ chức, Grenville lên thay. Hai người anh em họ của Pitt đã quay trở lại chính sách của những người theo chủ nghĩa biệt lập yêu hòa bình trước năm 1787 là duy trì sự thịnh vượng của đất nước và an ninh quốc gia để đảm bảo ổn định về hiến pháp trong thời điểm trong nước nổi lên phong trào cấp tiến do các sự kiện ở Pháp kích động. Cách mạng Pháp có thể đã để lại những mối quan tâm riêng trong nội bộ quốc gia. Pitt coi nhẹ những lời cảnh báo mang tính tiên tri của Burke và phát biểu trước Viện Bình dân rằng “ông không nghĩ Viện Bình dân phải thảo luận xem hiến pháp nào là tốt nhất đối với Pháp, Mỹ hay với bất kỳ một nước nào khác”. Tháng 8/1791, Grenville công khai tuyên bố “nước Anh phải giữ thế trung lập thận trọng nhất đối với các vấn đề của Pháp”. Tháng 9, các anh họ của Pitt đã từ chối đề nghị của Áo và Phổ về việc can thiệp trả tự do cho Hoàng gia Pháp. Khi thấy những điều này chẳng mang lại kết quả gì, vào tháng 1/1792, Pitt tuyên bố rằng “trước tình hình ở châu Âu, chưa bao giờ trong lịch sử đất nước chúng ta lại có lý do để mong đợi 15 năm hòa bình hơn là lúc này”. Khi Pháp tuyên chiến với Áo vào tháng 4, Pitt cũng không hề lo lắng. Ông cho rằng cuộc chiến sẽ nhanh chóng khiến họ kiệt sức. Hoặc sau khi Phổ tham gia hỗ trợ Áo vào tháng 7, Pháp sẽ bị đánh bại và do đó còn rất lâu mới có thể phục hồi để trở thành đối thủ nguy hiểm của Anh. Thậm chí, sau khi Pháp lật đổ chế độ vua Anh, tuyên bố nền cộng hòa và tiếp tục đẩy lùi sự kháng cự của Phổ vào cuối mùa hè, Grenville vẫn có thể khẳng định: nước Anh tuyệt đối không tham gia. Chỉ đến tháng 11, Pháp bất ngờ đuổi người Áo ra khỏi Bỉ, ban hành Sắc lệnh Scheldt bất chấp quyền lợi như trong hiệp ước của Hà Lan và hứa sẽ cứu giúp tất cả những người bị đàn áp có khát vọng tự do, thì chính phủ Anh mới thức tỉnh và lên tiếng bảo vệ Hà Lan. Bỗng nhiên phải đương đầu với tình huống giống như cuộc khủng hoảng năm 1787, Pitt khẳng định “không gì ngoài cách hành động của chúng ta mới có thể giúp chúng ta tránh được tai họa”.
“Thật xấu hổ khi phải bộc lộ quá nhiều sự gián đoạn như vậy” − Pitt phàn nàn khi nghĩ tới việc phải hủy bỏ chính sách hòa bình của mình. Ông sẵn sàng hối lộ tướng Pháp Dumouriez, người vừa chiến thắng, để thực hiện việc đàm phán hòa bình và trực tiếp nói chuyện với quan chức ngoại giao cấp cao Pháp, ngài Maret − lúc này đang có mặt tại London, để khẳng định rằng Pháp đã nhận thấy Anh rất lo lắng và quyết tâm giúp đỡ Hà Lan phản đối Sắc lệnh Scheldt và yêu cầu phải đảm bảo an ninh trước Sắc lệnh về Hội Nghề nghiệp và Tương trợ. Tuy nhiên, chính phủ Pháp lại nhận được lời chúc mừng từ các tổ chức cấp tiến của Anh và tin rằng Anh sắp sửa tiến tới một cuộc cách mạng, vì vậy đã từ chối nhượng bộ. Pháp thành lập chính phủ cách mạng trên các lãnh thổ đã chiếm được, đồng thời yêu cầu Anh phải chính thức công nhận nền cộng hòa mới của Pháp và đe dọa kêu gọi trực tiếp nhân dân Anh phản đối Nội các nếu họ tiến hành cuộc chiến.
Pitt nhanh chóng kích động phong trào thành lập Hiệp hội Những người trung thành và kêu gọi lực lượng dân quân tập trung đầy đủ, giúp ông tiến hành thành công cuộc bỏ phiếu Nghị viện về việc tăng cường lục quân và hải quân, từ đó có thể tiếp tục gây sức ép với Pháp. Ngày 27/12, nhận được câu trả lời vòng vo và đe dọa của Pháp, các anh họ của Pitt đã chấp nhận đề nghị của Nga tập hợp các cường quốc trung lập đứng đằng sau Nga và Anh làm trung gian hòa giải có vũ trang nhằm chấm dứt cuộc chiến lục địa. Nếu Pháp bãi bỏ những sắc lệnh mang tính đe dọa, rút quân về sâu bên trong biên giới của Pháp và hứa không can thiệp vào tình hình của nước khác, Pitt và Grenville sẽ tìm kiếm cam kết quốc tế bảo đảm công nhận nền cộng hòa của Pháp và không can thiệp vào sự kiện nội bộ của quốc gia này. Tuy nhiên, cảnh giác trước kỳ vọng đang rất được khích lệ của Pháp, hai ông đã rút lại điều kiện không can thiệp vào tình hình nội bộ của Pháp cho đến khi nhìn thấy dấu hiệu Pháp đã làm theo yêu cầu của mình. Sau đó, Wilberforce đổ lỗi cho Nội các vì đã không ngăn ngừa được cuộc chiến. Tuy nhiên, chính phủ Pháp nhận thấy việc Pháp rút quân về để đổi lại những điều kiện trên là không tương xứng. Dân chúng Pháp luôn muốn duy trì biên giới bảo vệ có từ lâu đời ở Rhine, còn chính phủ cách mạng lại không thể để mất mặt bằng việc nhượng bộ, đặc biệt khi họ tin rằng những người có thiện chí ở nước ngoài sẽ ủng hộ cuộc cách mạng chống lại chính phủ của mình.
Không có mấy dấu hiệu thể hiện sự nhượng bộ của Pháp, giữa tháng 1/1793, Pitt đi tới kết luận chiến tranh là không thể tránh khỏi và vì lực lượng hải quân Anh đã được chuẩn bị triển khai trước lực lượng hải quân Pháp nên cuộc chiến diễn ra càng sớm càng tốt. Các thuộc địa của Pháp rất dễ tấn công. Mặt khác, Anh có quỹ chiến tranh 2 triệu bảng cộng với khoản bổ sung lợi tức hàng năm là 600.000 bảng. Ngoài ra, các nước trung lập sẵn sàng tham gia cuộc chiến. Do vậy, Pháp sẽ ở thế bị cô lập. Tình thế hoàn toàn bị đảo lộn (so với cuộc Chiến tranh Hoa Kỳ trước đây). Vấn đề chính mà Pitt lo lắng là phải đảm bảo sự ủng hộ của dân chúng, tránh tình trạng như Ochakov. Từ cuối tháng 12, Grenville đã soạn thảo các báo cáo mà số lượng phát cho dân chúng trong nước bằng số lượng gửi cho chính phủ Pháp. Trong khi đó, chính phủ Pháp cũng làm tương tự. Các báo cáo được xuất bản vào ngày 17/1. Các bài phát biểu chống lại Anh trong Hội nghị Pháp 2 được công khai và cuối cùng, người Pháp bị đẩy vào thế buộc phải tuyên bố chiến tranh khi Chauvelin – đại diện của nước Cộng hòa Pháp – do những thông tin liên quan đến vụ hành hình Vua Louis XVI, đã bị trục xuất vì lý do vai trò của ông ở Anh vẫn là với tư cách đại sứ của vị vua quá cố chứ không phải đại diện của một nền Cộng hòa chưa được công nhận và do đó hành động không kịp thời. Hội nghị Quốc gia Pháp sẵn sàng tuyên chiến vào ngày 1/2/1793 và ngay lập tức xâm lược Hà Lan.
Cuộc chiến tiếp diễn trong 23 năm với hai lần gián đoạn, bắt đầu chỉ từ một cuộc khủng hoảng ban đầu kéo dài hai tháng rưỡi. Sau đó, Pitt bị những người ủng hộ tư tưởng Cách mạng Pháp lên án mạnh mẽ vì đã không thể ngăn cản cuộc chiến. Tuy nhiên, dù có những khó khăn thật sự về liên lạc, vẫn không hề có dấu hiệu về việc các bên không nhận được quan điểm rõ ràng của nhau. Quan điểm của họ đối lập nhau. Hành động nhượng bộ không được chấp nhận vì nó thể hiện sự yếu kém có thể sẽ kích động tham vọng của quốc gia khác và khuyến khích các phần tử đối lập bên trong mỗi chế độ (mối sỉ nhục của Pháp năm 1787 từng gây ra những tình trạng như vậy). Lúc này, nước Anh đã nhận thấy rõ mối nguy
hiểm mà Cách mạng Pháp gây ra cho quốc tế. Cuộc cách mạng này đang được nuôi dưỡng bởi thành công và có nguy cơ bùng nổ ở châu Âu. Tuy nhiên, nếu tiếp tục bị kiềm chế thì nó sẽ nổ ra trong nước. Quan điểm của Pháp về tham vọng bành trướng đế quốc của Anh và khả năng dễ bị công kích từ trong nước Anh cũng giống như vậy. Mâu thuẫn về ý thức hệ, nỗi lo lắng và tham vọng của mỗi quốc gia đã dẫn tới cuộc đối đầu. Đây chính là cuộc chiến đã tránh được vào năm 1787 và hoãn lại cho đến bây giờ. Pitt và Grenville luôn nhận thấy rằng một lúc nào đó mình sẽ phải chiến đấu để duy trì chiến thắng năm 1787. Pitt đã hình thành được một hệ thống liên minh để bảo vệ nó, nhưng sau đó lại đánh mất. Một hình thức khác mà Pitt đã sử dụng để giữ được thành công này là việc giành được Bỉ từ tay Pháp và trao quyền cai trị nước này cho Áo. Điều này đã được Pitt miêu tả vào năm 1789 là một “thành quả không thể ngờ tới song lại có nguy cơ hoặc tất yếu sẽ diễn ra một cuộc chiến liên quan đến đất nước này”. Năm 1791, Grenville đã nhìn thấy nguy cơ khá rõ đe dọa đến chính sách hòa bình biệt lập mới của họ khi Pháp can thiệp hỗ trợ cho cuộc nổi dậy ở Bỉ sau khi đã làm như vậy ở Hà Lan và ông khẳng định “chúng ta phải can thiệp”. Chính sách của Nội các đã được đưa ra một thời gian dài trước khi mối đe dọa trở thành sự thật vào tháng 11/1792.
Lời tuyên chiến của Pháp mở đường cho Pitt đặt ra yêu cầu đòi hạn chế nhiều hơn quyền lực và hệ tư tưởng của Pháp. Quy định “bồi thường cho quá khứ và an ninh cho tương lai” được Nghị viện ủng hộ rộng rãi và bao gồm những chi tiết rất cụ thể. Dundas làm rõ, mục đích quan trọng nhất của cuộc chiến là sự an toàn của Các tỉnh Thống nhất. Hệ quả tất yếu là phải duy trì quyền cai trị Bỉ cho Áo để làm hàng rào an ninh duy nhất chống lại ảnh hưởng của Pháp đối với Hà Lan. Thứ hai, việc nắm các thuộc địa của Pháp ở Đông và Tây Ấn là “vô cùng quan trọng cả trong việc hạ thấp quyền lực của Pháp lẫn việc tăng cường an ninh cũng như thịnh vượng cho đất nước chúng ta”. Cuối cùng, sự chấm dứt tình trạng vô chủ và khôi phục trật tự hợp lý ở Pháp “cũng là điểm quan trọng” nhưng không thể được đặt lên trên hai yếu tố trước. Các bộ trưởng đã có tầm nhìn xa hơn về mối nguy hiểm trước mắt do cuộc Cách mạng Pháp gây ra và tìm cách chấm dứt một loạt cuộc chiến kéo dài hàng thế kỷ giữa Anh và Pháp. Nếu có thể ghìm chân Pháp ở châu Âu an toàn, tấn công vào kho vũ khí hải quân để phá hủy hạm đội của Pháp, gây ra những thiệt hại về hàng hải và thương mại thuộc địa, khiến Pháp không thể phục hồi thì nước này sẽ mất khả năng gây ảnh hưởng tới Anh, cho dù có dưới quyền điều hành của bất cứ kiểu chính phủ nào. Dundas dự đoán “đất nước này có thể trầm lắng trong một thời gian dài”.
Để đảm bảo ổn định lâu dài, Pitt tìm kiếm một chính phủ bền vững và ổn định ở Pháp có thể chấp nhận điều kiện về hiệp ước hòa bình như mong muốn. Những nguyên tắc dưới chế độ của Gia-cô-banh, người nắm quyền ở Pháp vào năm 1793, dường như chỉ phá hoại sự ổn định trong nước và quốc tế. Chừng nào còn tin vào khả năng có thể tiếp tục cuộc chiến của Anh (đặc biệt vào tháng 5/1793, giai đoạn 1793-1795 và năm 1799), Pitt không bao giờ có ý định thỏa hiệp với chính phủ cách mạng Gia-cô-banh. Sau những do dự ban đầu, trong khi các bộ trưởng đang đánh giá tình trạng bất mãn của dân chúng Pháp, những cuộc nổi dậy trong Hoàng gia Toulon và ở Vendée đã đưa họ tới ý định thiết lập lại chế độ quân chủ và đưa ra hàng loạt tuyên bố với dân chúng Pháp vào mùa thu năm 1793, trong đó coi chế độ này là một kiểu chính phủ duy nhất mà họ ủng hộ.
Khác với Burke và các môn đệ của mình, Pitt không muốn phục hồi hoàn toàn chế độ quân chủ của Pháp theo chính thể chuyên chế như trước cách mạng. Pitt coi tham vọng không bị kiềm chế của Bourbon là nguyên nhân của các cuộc chiến lần trước và muốn “chính phủ quân chủ với những giới hạn hợp lý” như năm 1788, tuy nhiên phải lập ra hiến pháp mới để tránh những nhược điểm của lần trước. Thậm chí định kiến về tư tưởng đã được hạn chế bởi bản tính thực dụng của Pitt. Ông không từ bỏ việc đàm phán với bất kỳ kiểu chính phủ nào nếu nó là chính phủ chính thức và bền vững. Trong khi cấp súng, tiền và hỗ trợ quân sự phần nào cho những người bảo hoàng Pháp và cấp tài chính cho đoàn người bảo hoàng di cư, đồng thời trợ cấp cho các hoàng thân tách khỏi Cộng hòa, Pitt và Grenville không công nhận Comte de Provence là nhiếp chính hay là Louis XVIII. Sau khi được Pitt kể tóm tắt lại các sự kiện vào tháng 1/1795, Canning đã ghi lại:
PITT VỚI TƯ CÁCH LÀ BỘ TRƯỞNG CHIẾN TRANH
Sau chín năm lãnh đạo thành công chính phủ trong hòa bình, cuối cùng Pitt cũng tham gia vào chiến tranh. Ông trở thành vị thủ tướng điều hành đất nước trong chiến tranh lâu nhất lịch sử nước Anh. Suốt thời kỳ này, người ta được chứng kiến kỹ năng chính trị, uy lực cá nhân, đồng thời thấy cả sự bất lực của Pitt trong việc dùng chiến tranh chống lại Cách mạng Pháp (1793-1802) và sau đó là thất bại trong việc ngăn cản Napoleon tiến tới thành công năm 1803.
Khi nổ ra cuộc chiến, Pitt đang ở trên đỉnh cao quyền lực. Ông đã ném mình vào cuộc chiến với sự đắc chí khác hoàn toàn với sự trầm lắng ban đầu khi bắt tay vào những vấn đề ngoại giao. Năm 1794, ông còn thú nhận: “Tôi thật sự ghét bất kỳ ý kiến nào của cá nhân tôi về chủ đề quân sự”. Cùng năm đó, ông cũng nhất trí với quan điểm của Dundas cho rằng “tất cả các cuộc chiến hiện đại thực chất là cuộc chạy đua của những túi tiền… Bộ trưởng Tài chính phải là Bộ trưởng Chiến tranh”. Tất nhiên, Dundas có vị trí là Bộ trưởng Nội vụ và đảm trách nhiệm vụ điều hành chiến lược chiến tranh, Pitt còn có cơ hội tham gia phát triển chính sách đầy đủ và ông sẽ dựa vào người đáng tin cậy để đảm bảo việc thi hành chính sách đó. Vì vậy, trong khi đàm phán về việc liên kết với những người theo Đảng Whig của Portland năm 1794, ông vẫn cương quyết giữ quyền giám sát quân sự trong cuộc chiến khi mà Dundas đang đảm trách và tạo ra vị trí mới là Bộ trưởng Chiến tranh vì mục đích này. Điều hành chiến tranh không thể trao cho Portland vì quan hệ của Pitt với ông ta không thể được như với Dundas và Pitt không hài lòng khi để bộ này dưới quyền điều hành của ông ta.
Pitt quyết định rằng ông phải tham gia. Ông kiểm soát chặt chẽ chiến tranh, chính sách ngoại giao và các kế hoạch thông qua mối quan hệ thân thiết với Dundas và Grenville, thậm chí chính ông còn làm đại diện điều hành các bộ của những người này khi họ vắng mặt. Tháng 10/1793, khi vị Ngoại trưởng đi nghỉ tại Walmer, Pitt đã phỏng vấn đặc phái viên Phổ và nói với người anh họ: “Anh cứ giao công việc cho tôi mà không cần phải đắn đo. Lúc này tôi vẫn chưa có gì để làm cả”. Một năm sau, Bộ trưởng Chiến tranh lại nghỉ tại Walmer, Pitt đã thay mặt Dundas gửi thư tới Bá tước York.