TRÁI TIM LỬA
MẤY LỜI NÓI ĐẦU:
Phải chăng ông cha chúng ta đã có lần chiếm được địa bàn núi Thái Sơn, rồi bị nòi Hán chiếm lại, và khi lui về lưu vực sông Dương Tử, lại bị nòi Hán tiếp tục uy hiếp?
Phải chăng ông cha chúng ta đã có một ngày kia bị đồn vào một thế đau đớn phải phân đôi đoàn thể, một nửa ở lại chống trả Hán tộc đến giọt máu cuối cùng, một nửa theo đường chim Hạc đi tìm ánh sáng miền Nam?
Gian nan lắm! Khổ cực lắm!
Ánh sáng vô biên nào đã dẫn dắt, đã sưởi ấm đoàn người trong khoảng ngăn cách đêm trường của những khu rừng già âm u, những dãy núi hùng vĩ?
Ánh sáng vô biên nào nhỉ? Ánh sáng vô biên nào thế?
- Dạ thưa ánh sáng của một trái tim... Trái Tim Lửa!
Đây là giải đất chứa chan nắng vàng của một dân tộc miền Nam. Nơi đây trai gái vui hòa làm việc bên nhau tạo nên một nếp sống đặc biệt thi vị. Một đời sống đầy trời, đầy ánh sáng, đầy trăng sao và đầy sức mạnh. Cây cỏ phồn thịnh như nuôi dưỡng cho trí tưởng tượng của họ thêm phong phú. Họ có những câu phong dao thi tứ sao mà dạt dào, những truyện thần kỳ, tình tiết sao mà huyền ảo!
Có những đêm hè đom đóm tự đâu bay về rất nhiều, lũ trẻ con thường tụm năm, túp ba nắm tay nhau vừa nhảy theo vòng tròn vừa hát bài đồng dao truyền lại từ đời Thượng cổ như sau:
Hai tay hai gậy
Bước nhạy leo nhanh
Rừng núi gập ghềnh
Vượt theo chim Hạc
Cô, dì, chú, bác
Thất lạc sau lưng
Ta bước không ngừng
Theo ông Đom Đóm.
Ô này anh em ơi!
Hạc đi thì Hạc lại về
Theo ông Đom Đóm mưa thuận gió huề
ta ở lại đây.
Sao lời đồng dao lại gọi đom đóm bằng "ông" một cách kính cẩn như vậy? Đó là một câu chuyện phiêu lưu thần kỳ khá cảm động.
Sự tích như sau:
Mấy ngàn năm trước, dân tộc này chưa tới đây. Hồi đó bộ lạc của họ còn tụ trên thượng lưu một con sông mà màu nước trông xa lắm khi như lẫn với màu cỏ trên bờ, họ quen gọi là dòng sông Dương Liễu. Họ bị khổ sở rất nhiều về sự tàn bạo của một bộ lạc lớn ở bên kia sông hàng năm thường sang quấy nhiễu. Họ đã chiến đấu rất anh dũng đấy, nhưng số lượng quân địch quá nhiều khiến cái chết của họ hầu thành vô ích như gió thổi qua nhà trống.
Những mong cho dân chúng được yên thân, vị Thủ lãnh quyết định dời bộ lạc xuống miền trung lưu dòng sông Dương Liễu. Nhưng ông đã làm một việc thất sách! Giữ miền thượng lưu ông còn giữ được ưu thế đánh chặn quân địch khi chúng đương sang sông; địch quân nay đã chiếm miền thượng lưu, chúng được lợi điểm đất liền để thừa thế tràn xuống miền trung lưu. Một lần nữa, vị Thủ lãnh đành phải dời bộ lạc xuống hạ lưu Dòng- sông-xanh. Nơi đây phía Đông là cánh đồng lầy mênh mông ngăn họ với biển, phía Nam là một miền rừng núi trùng trùng điệp điệp.
Trèo lên mà nhìn thì miền rừng núi này chạy thẳng tắp đến tận chân trời rồi mất hút vào đó, nó cũng vô tận như biển cả vậy.
Khi bộ lạc di cư tới đây thì gặp một đàn hạc lớn từ cánh đồng lầy cất cánh bay đi. Đàn hạc đông đến nỗi toán đầu đã khuất vào chân trời mà toán sau vẫn còn từ đồng lầy tung cánh bay lên nối tiếp.
Một viên tướng trẻ tuổi thuộc hàng thủ lãnh của bộ lạc đứng lặng nhìn cảnh đó với một vẻ chú ý đặc biệt. Đã mấy lần ông giương cung bắn và những con hạc trúng tên rơi xuống, nhưng điều đó không hề làm hại đến kỷ luật, trật tự của đàn hạc bay đi. Từ đấy viên tướng trẻ tuổi thường có vẻ đăm chiêu suy nghĩ như đương toan tính một dự kiến quan trọng nào.
Qua mùa đông rét như cắt thịt tới một ngày đầu xuân ấm áp, trên trời xanh, trong nắng vàng, mọi người thấy chim hạc trở lại từng đàn tưng bừng. Nhưng cùng với ánh nắng đầu xuân, quân địch tràn xuống để chiếm nốt miền hạ lưu. Toàn thể bộ lạc kháng cự kịch liệt và đẩy lui được chúng. Sau đó quân địch còn tràn xuống mấy lần nữa. Chúng đều bị thất bại. Nhưng càng thất bại chúng càng trở nên hung hãn bội phần, bởi vậy sau mỗi lần đẩy lui được chúng, số tổn thất của bộ lạc càng nặng nề.
Lúc đó vừa cuối thu, chim hạc lại về tụ tập tại cánh đồng lầy trước khi cất cánh thành hàng bay về phương Nam. Viên tướng trẻ tuổi bèn đến bàn với vị Thủ lãnh nên lợi dụng lúc quân địch không dám tấn công vào mùa đông mà dời cả bộ lạc theo chim hạc về Nam.
Vị Thủ lãnh không nghe.
Ý kiến đó truyền rất mau đi khắp bộ lạc. Mọi người bàn tán sôi nổi. Sau đó ít ngày bộ lạc chia làm hai phe. Một phe cương quyết ở lại chiến đấu đến cùng mong giữ lấy miền hạ lưu dòng sông Dương Liễu, một phe theo viên tướng trẻ tuổi quyết vượt núi rừng tiến về phương Nam để bảo tồn nòi giống. Những người ra đi vẻ mặt âm thầm nhưng dáng đi cương quyết và hùng dũng. Họ ca câu: “Chân cứng… đá mềm.” Họ mang theo những hạt cỏ lưu ly để đánh dấu đường. Thứ cỏ này khi mọc lên, ban đêm hoặc trong bóng tối, lá sẽ phát ra ánh sáng. Họ ân cần hẹn những người ở lại: khi nào không thể chống nổi kẻ địch thì lần theo đường cỏ lưu ly mà tìm về phương Nam.
Những người trẻ tuổi thay phiên nhau theo viên tướng đi trước để phá cây dọn đường. Những người nhiều tuổi, đàn bà và trẻ con đi vào khoảng giữa. Toán đi sau cùng hộ vệ gồm toàn những người trẻ còn lại. Họ có nhiệm vụ nâng đỡ những người yếu sức. Đến chặng nghỉ nào, đoàn người trẻ tuổi ùa nhau vào sâu hai bên rừng săn thú, đào củ mài cùng hái quả cây bột gạo nạo ra lấy bột nướng thành bánh.
Càng đi vào sâu, rừng càng rậm, đất càng lầy. Có khi đi hàng mấy ngày trời trong rừng tối mới thoát ra để gặp được một thung lũng nhỏ với chút ánh sáng yếu ớt, liền sau đó đoàn người lại chui vào rừng.
Tiến, tiến mãi! Nơi núi cao thì đá tai mèo lởm chởm, nơi thấp thì bùn ngập có khi đến ngực. Nhiều khi không săn được thú, họ đành ăn củ mài trừ bữa, trường hợp củ mài cũng không, đoàn người đành ăn củ chuối cầm hơi. Họ tiếp tục vượt hết khu rừng này sang khu rừng khác. Lòng náo nức buổi đầu khi ra đi đã suy giảm nhiều. Nhưng viên tướng trẻ tuổi vẫn dẫn đầu băng băng! Lòng hy sinh của Người hầu như không bờ bến, niềm hy vọng của Người tràn ngập ở khóe mắt và lòng tin tưởng của Người vững như núi. Mỗi khi nghe tiếng Người truyền lệnh vang lên sang sảng, đoàn người cảm thấy ấm lòng và tiếp tục tiến… tiến mãi.
Đã có những đứa trẻ bị sâu rừng đốt chết. Đã có những cụ già đuối sức chết vùi thân dưới lớp bùn lầy. Đoàn người ra đi cơ hồ thấy lòng nặng trĩu u sầu, chán nản… Viên tướng dẫn đầu dáng điệu cương quyết mà thân yên, vì ông đặt bao hy vọng vào sức sống tràn trề của nửa đoàn thể theo ông quyết tiến về phương Nam lập quốc.
Và mọi người tiếp tục tiến… tiến mãi… Có những khu rừng rậm họ phải đi mất nửa tháng mới ra khỏi. Đã có những người lớn lên cơn sốt rồi chết vùi dập trong bụi cây, toán hậu vệ đi qua mà không biết. Đoàn người bắt đầu nghi ngờ trí sáng suốt của viên tướng và một thiểu số tự hối đã quá dại dột theo một tên điên. Tiếng thì thầm truyền qua các cửa miệng…
Viên tướng vẫn điều khiển đoàn người dẫn đầu, ra công phá cây dọn đường.
Đã có những người chết vì dịch tả, cùng các bịnh thời khí khác. Đoàn người vừa đi vừa nguyền rủa gần như công khai, “Thằng điên cầm đầu.”
Núi tiếp núi…
Rừng tiếp rừng…
Như không bao giờ hết!
Viên tướng vẫn dẫn đầu, giữ vững hướng tiến về phương Nam. Những người già đã chết hết. Trẻ con chỉ còn lơ thơ một vài đứa vào hạng sức vóc vạm vỡ. Những người đàn bà trẻ và khỏe đều đã có mang. Mọi người lặng lẽ đi, lòng căm hờn uất hận “Thằng điên cầm đầu..." Bỗng một ngày kia, trong lúc đang đi dưới rừng rậm, họ nghe văng vẳng có tiếng chim hạc kêu ở trên cao. Tiếng kêu xa dần ngược với chiều họ đi. Ai nấy đều biết đã sang tiết xuân. Những người đàn bà ôm mặt khóc nức nở, vì họ nghĩ: chim hạc giờ đây đang tiến về quê hương, mà họ thì càng ngày càng xa quê hương để tiến về một phương trời vô định.
Lửa căm hờn bốc cháy ở tia mắt những người đàn ông, chính đã nhóm khởi từ những giọt nước mắt của những người đàn bà. Vừa lúc đó họ ra khỏi rừng để tiến vào một thung lũng tương đối rộng hơn mọi thung lũng mà họ đã gặp. Tất cả mọi người bảo nhau dừng lại. Viên tướng truyền lệnh thúc giục họ đi.
Một thanh niên hầm hầm tiến lên nói:
- Ông là một tên điên! Chúng tôi ngu dại mà theo ông. Biết nông nỗi thế này chúng tôi đã ở lại để được chiến đấu bên Thủ lĩnh, dù có chết cũng còn hả lòng hả dạ và không xấu hổ là đã bỏ nhau trong cơn nguy biến.
Đôi mắt viên tướng vẫn ngời tia sáng tin tưởng ở kết quả viên mãn sau cùng. Ông nhìn đoàn thể như muốn truyền cả hy vọng tràn trề nơi ông sang họ. Ông nói bằng một giọng vô cùng thiết tha:
- Một nửa anh em chúng ta đã ở lại hy sinh chiến đấu. Vì họ mà chúng ta đủ thì giờ vượt khỏi miền rừng núi này. Tất cả mọi người phải đi ngay! Phương Nam ấm áp phì nhiêu đương chờ chúng ta. Núi rừng này sẽ hoàn toàn ngăn cách chúng ta với quân địch hung bạo. Tất cả mọi người nghe tôi hãy đi ngay! Đi ngay!
Tiếng đàn bà nức nở. Một chàng trai trẻ khác tiến lên nói:
- Hết khu rừng này đến khu rừng khác, hết đèo này sang đèo khác, chúng tôi còn theo ông, chúng tôi sẽ vùi thân đến người cuối cùng.
Viên tướng thét lên:
- Phải đi ngay! Tôi vẫn giữ vững hướng đi về Nam. Rừng núi tuy trùng điệp nhưng không phải là bất tận, phải đi ngay để sớm tới đích. Ở lại miền thung lũng bùn lầy này mới là tự sát.
Tiếng đàn bà càng nức nở, và những người bụng mang dạ chửa ngồi thụp xuống. Tất cả trai trẻ bảo nhau nhất quyết không đi. Viên tướng gầm lên như hổ, mắt quắc sáng ra lệnh đanh thép bắt họ phải đi. Một thanh niên trong đoàn tiên phong, sẵn con dao phạt cây lăm lẳm trong tay bèn nhân lúc ông đi ngang qua, vung lên rồi bổ thẳng xuống. Đường dao đi hơi chệch nhưng cũng trúng đích. Một mảng sọ bắn ra xa. Lưỡi dao còn phập sâu vào bả vai!
Viên tướng ngã xuống, máu chảy như suối, đầu hướng về cố hương nhưng mắt vẫn nhìn về phương Nam, sáng lên những tia lửa cuối cùng tràn ngập hy vọng. Ông cố nói với mọi người bằng một giọng thật dễ dàng:
"Anh em hãy bầu một người khác thay tôi! Chắc chắn đường không còn bao xa nữa."
Nghe giọng nói đầm ấm, thuần thục, ai nấy đều thấy rõ viên tướng hoàn toàn tha thứ cho kẻ cố tình giết ông, và ý chí quyết liệt cuối cùng của ông vẫn là tiến về phương Nam.
Gần đó có một hố đá. Người ta mang thi thể ông đặt xuống rồi phủ đất lên. Cũng có nhiều người thấy hối tiếc việc đau thương vừa qua và hầu hết đều ngầm nhận thấy rằng tiếp tục đi về phương Nam là phải, nhưng không một ai có đủ tin tưởng và nghị lực đứng lên cầm đầu. Những người đàn bà đều đã ngồi thụp cả xuống bên gốc cây. Tiếng khóc rền rỉ. Mọi người đành quyết định ở lại thung lũng đó, phá rừng vỡ nương.
Mùa thu tới có tiếng chim từ xa vọng lại, nhịp nhàng và ngân nga. Mọi người ngẩng đầu lên. Một vạn lý trường thành trắng phau đang di động trên trời: đã tới mùa chim hạc về Nam! Điều này càng nhắc họ nhớ tới vị thủ lãnh trẻ tuổi cùng lời trối trăng:
“Anh em hãy bầu một người khác thay tôi! Chắc chắc đường không còn bao xa nữa.”
Bây giờ họ càng thấy thái độ cương quyết của ông là đúng. Nơi thung lũng bùn lầy nước đọng, quanh năm sương muối, bốn bề rừng núi âm u này quả không phải là nơi sinh cơ lập nghiệp được. Không khí quá nghẹt ngào về mùa hạ và buốt thấu xương về mùa đông khiến sức chịu đựng của họ suy giảm đi rất nhiều. Bệnh mê sảng, bệnh kiết lỵ, bệch dịch tả… thay phiên nhau hoành hành. Đến mùa xuân năm sau, nghĩa là mùa chim hạc từng đàn trở lại đất Bắc, thì số người sống sót so với lúc khởi hành chỉ còn một phần tư. Thực đáng thương! Thấy chim hạc bay về Bắc, họ biết là mùa xuân tới, còn cuộc đời họ trong thung lũng này làm gì có mùa xuân. Tuy biết vậy mà không ai đủ tự tin, đủ kiên nhẫn đứng lên cầm đầu để tiếp tục tiến về Nam. Một buổi chiều kia họ thấy có mấy người từ trong rừng nhô ra, vun vút tiến lại gần. Thì ra đó là những chiến sĩ đã ở lại chiến đấu bên vị Thủ lãnh để cố giữ lấy miền hạ lưu dòng sông Dương Liễu. Cả một đoàn thể hầu như bị tận diệt. Dòng sông xanh đỏ ngầu máu và chất ngập xác những kẻ chiến bại. May mắn mấy người này lọt khỏi vòng vây địch, lẩn vào rừng rồi theo vệt ánh sáng của lá cỏ lưu ly tới đây. Trong số đó có một người bị kiệt sức, ngã xuống ngất lịm, đến tối thì tắt thở. Đoàn thể cho đem chôn ngay. Người mang xác nạn nhân đi đầu để ý thấy phía trước mặt có một khoảng sáng lấp lánh. Tiến lại gần cả bọn nhận ra đó là một vũng nước trong phản chiếu ánh sao trên trời. Tiện thể họ đào sâu thêm khoảng đó định để làm huyệt chôn người xấu số. Chợt nhát cuốc của họ vấp phải đá. Có bộ xương người lộ ra. Bới thêm đất họ thấy khoảng dưới lồng ngực bộ xương một khối rắn hình trái tim có phát ra những tia sáng chói lọi và ấm. Đến lúc đó một người trong bọn mới nhận ra là họ đã đào lầm mả viên tướng thủ lãnh.
Sau khi đã lấp lại mả, và chôn người mới chết ở một nơi khác, họ mang trái tim lửa về.
Thật ra, trong thâm tâm, mọi người đều đã quá chán cảnh thung lũng này, một cảnh chỉ có bùn lầy lội mà chẳng có sông cho mát mắt; bốn bề núi rừng vây kín như bưng mà chẳng có một chút chân trời cho thoải mái tâm hồn. Thấy trái tim sáng chói mang về họ cho là điềm lành. Họ quyết định dời khỏi thung lũng ngay hôm sau, cử một người đi đầu cầm trái tim soi sáng.
Họ tiếp tục tiến về Nam!
Càng tiến sâu về Nam rừng càng rậm, càng nhiểu thú dữ cùng rắn độc. Đoàn người điềm nhiên vung dao thẳng tiến. Những người đàn bà can đảm ôm chặt con thơ trong lòng, thoăn thoắt bước nhanh. Trước họ vẫn là đoàn người đi đầu để phá cây dọn đường. Sau họ vẫn là đoàn người hậu tập với nhiệm vụ hộ vệ nâng đỡ những người rủi ro gặp nạn trên đường trường, tất cả tiến theo ánh sáng của trái tim lửa! Vượt hết khu rừng này sang khu rừng nọ, càng đi càng dẻo chân, đoàn người tưởng như không còn bao ngày nữa họ sẽ thoát khỏi miền rừng núi quái gở này để nhìn thấy cánh đồng đầy ánh sáng của phương Nam. Họ bỗng chui vào một khu rừng rậm ngoài sức tưởng tượng của con người. Họ phải thường xuyên cúi khom người xuống mới đi được. Rễ cây chằng chịt, gai góc mọc đầy bốn phía, rắn rết hầu như lúc nhúc dưới lần lá mục.
Họ đi trong hãi hùng như vậy đã bao nhiêu ngày qua mà vẫn chưa tới cửa rừng để gặp một thung lũng khác như thường lệ.
Có những quãng đường họ phải bò rạp xuống lần theo rễ cây chằng chịt mà tiến. Lắm khi họ yên lặng, rùng mình rụt vội tay lại vì đáng lẽ vịn vào rễ cây họ đã vịn nhầm phải một khúc mềm mà họ biết là trăn rừng.
Rừng càng rậm rạp bội phần rồi kín như bưng. Đoàn người có cảm tưởng như đương đi vào Địa Ngục. Ánh lửa của trái tim vẫn chập chờn dẫn đầu trong bóng tối của rừng sâu.
Lại mấy ngày nữa qua. Rừng càng sâu hun hút, ánh sáng trái tim lửa càng tăng phần rực rỡ. Nhưng, những bước chân nhẫn nại nhất, can trường nhất cũng đã thấy rã rời. Ở họ hy vọng một mảnh đất phì nhiêu chan hòa ánh sáng hoàn toàn tiêu tan. Họ hô gọi nhau dừng lại. Ai nấy tự nhủ thầm: "Lần này ngày tận số thực đã đến!"
Đa đoan thay con Tạo! Một nửa đoàn thể đã bị tận diệt dưới dòng sông xanh, nay đến lượt nửa đoàn thể ra đi bị chôn sống dưới rừng!
Bỗng trong bóng tối đen kịt có tiếng thét căm hờn:
- Nó là tên phù thủy gian ác! Chính linh hồn nó đã dẫn chúng ta đến đây để trả thù cái chết của nó!
Ai nấy đều biết “nó” đây ám chỉ viên tướng thủ lãnh. Lời nói dứt, người đi đầu ném mạnh trái tim lửa xuống đất. Một số người xô vào định giầy xéo cho kỳ nát trái tim. Nhưng gót chân đầu tiên vừa chạm tới, trái tim bỗng tóe ra bốn phía thành muôn ngàn con đom đóm. Những con đom đóm đó bay về phía trước, tụ lại thành hình một trái tim lớn có một cái đuôi ánh sáng rực rỡ chiếu về phía mọi người như thể một vì sao chổi vừa tự trên trời rụng xuống.
Mọi người lấy làm lạ tiến lên thì đàn đom đóm như chạy trốn. Họ hăm hở tiến nhanh hơn, ánh sáng cũng tiến nhanh. Ánh sáng chập chờn trong bóng tối thăm thẳm của rừng càng như thôi thúc, như khiêu khích, như hấp dẫn, như thôi miên. Đoàn người khi đó chỉ còn biết miết mải đuổi theo trái tim lửa nửa mê, nửa tỉnh. Chợt đàn đom đóm vút bay nhanh về phía xa rồi tóe ra bốn phía, phút chốc mờ biến đâu mất cả. Mọi người chạy ồ lên. Họ thấy đường dễ đi dần, chân đã được dẫm lên đất khô. Rồi một tiếng thét vui mừng:
- Ánh sáng!
Và tiếng khóc nức nở.
- Ánh sáng phương Nam đây rồi.
Một lát sau đoàn người đã ra khỏi rừng. Trước mặt họ, cả một cánh đồng phù sa mênh mông chào đón, khoảng giữa có con sông cuồn cuộn chảy, màu nước đỏ hồng. Xa xa thấp thoáng rặng núi đá màu trắng loang lổ. Và xa hơn nữa họ thấy sóng nước nhấp nhô của một mảng biển. Họ ngầng nhìn trời: màu trời xanh thẳm, đây đó một vài đám mây bạc trôi lững lờ. Quả thực họ đã tới nơi mong ước!
Đây là ánh sáng phương Nam! Đây là đồng ruộng phương Nam!
Đây là núi, rừng, sông, biển phương Nam!
Miền rừng núi khủng khiếp phương Bắc kia suýt nuốt sống họ! Nhưng nắm được cơ sở phương Nam, thì khu rừng đó chẳng còn gì là nguy hiểm. Trái lại, sau đó họ đã từng hàng ngày tiến sau vào rừng đốn gỗ mang về làm nhà. Họ đã tiến sâu vào rừng để săn hươu nai làm lương thực, bắt sống trâu rừng, mèo rừng, chó rừng mang về uốn nắn, nuôi dạy thành giống vật trong nhà. Họ đã cùng với một thiểu số dân bản xứ kết hợp lại thành một bộ lạc mạnh. Qua bao gian nguy, thử thách, cùng những lỗi lầm đáng tiếc, chí anh hùng lòng quả cảm ngày nay càng ngời sáng trong tâm hồn cương nghị mà thanh tao của họ. Những người đàn bà đã ôm con vượt rừng rậm núi cao đó nay thành những người vợ hiền mà trí minh mẫn, đức nhẫn nại, và tài tháo vát khó có đàn bà nơi nào bì kịp.
Bây giờ thì họ ít còn thấy ốm đau nữa. Họ đã dạn dày sương gió lắm rồi. Bệnh mê sảng cũng như các bệnh dịch ngày nay thực khó mà lay chuyển nổi cơ thể vững chắc như cột đồng của họ. Con cháu họ kể từ đấy cũng thừa hưởng được ưu thế về thể chất đó.
Họ cầy ruộng, gieo lúa.
Lúa ngập bờ xanh. Lúa trĩu bông vàng.
Họ quăng lưới dọc theo dòng sông, ven theo bờ biển. Sông dài biển rộng tỏ ra rất đại lượng với họ. Mẻ lưới kéo lên, gọng vó cong trĩu và những con cá lớn uốn mình rẫy lấp lánh dưới ánh mặt trời.
Cây họ trồng lớn lên xanh như rừng với những trái thơm ngọt ngào, trái chua quyến rũ…
Có tới hàng trăm loài hoa màu sắc khác nhau, hương thơm khác nhau không ai trồng mà mọc khắp nơi nơi.
Bộ lạc ngày một phồn thịnh. Dòng sông đỏ, đời này sang đời khác cần cù chở phù sa về cánh đồng miền Trung châu.
Họ tiếp tục mở rộng mãi bờ cõi ven theo biển. Một ngàn năm sau, bộ lạc đã thành quốc gia. Một ngàn năm sau nữa, quốc gia này đã tiến tới điểm cùng tột của mẩu đất liền nhô ra biển. Đến nay lịch sử dân tộc tính ra đã bốn ngàn năm có lẻ rồi, trong khoảng thời gian đó biết bao phen họ vừa mở mang, tu sửa bờ cõi vừa chống nhau với kẻ thù cũ. Nguyên là người phương Bắc sau khi chiếm hết dòng sông Dương Liễu bèn cử đại quân phá gấp một đường xuyên qua rừng, định tràn xuống thôn tính nốt miền Nam. Để đối phó lại, lần nào cũng vậy, thoạt đầu họ tránh về những nơi hẻo lánh đợi một thời gian sau, khi đoàn quân miền Bắc đã chết vãn đi vì bệnh sốt mê sảng, vì kiết lỵ, vì dịch hạch, dịch tả, lúc đố họ mới từ bốn mặt ùa ra đánh một đòn quyết định khiến quân địch tơi bời, mảnh giáp chẳng còn, mạnh ai nấy kiếm một đường máu mà lủi về nước. Các cụ già gọi kế đó là “dĩ dật đãi lao”, dùng ưu thế nơi mình quật lại kẻ địch bị nhược điểm “thủy thổ bất phục”.
Các thi sĩ, cầu kỳ hơn, giải thích rằng: Dân tộc họ đến được miền Nam là theo ánh lửa thiêng của trái tim, còn kẻ địch tràn xuống miền Nam là theo tiếng gọi của lòng dục nhơ bẩn. Như vậy địch thắng sao nổi họ?
Và cứ mỗi mùa hè, ban đêm, nhìn đom đóm bay trên cánh đồng, người dân tưởng như sắp được gặp hồn viên tướng thủ lãnh, một đấng anh minh, kiên nghị đến chết rồi mà trái tim với bao dũng cảm và tình yêu còn soi sáng cho đồng loại vượt khỏi núi rừng âm u.
Trong khoảng im lặng hoàn toàn của canh khuya, những ánh đom đóm như thốt ra thành âm thanh êm ả, nhịp nhàng. Có đêm hè đom đóm bay về nhiều vô kể, sáng ngời như cả một mảnh vũ trụ sao vừa rụng xuống. Đến khi khối ánh sáng mênh mông ấy bay ra giữa sông cho ánh nước phản chiếu thì thực cả một cảnh huyền ảo như hư, như thực. Người dân chợt thấy đêm hè tràn ngập hồn thiêng, hồn thiêng của những người chết trên dọc đường Nam tiến, hồn thiêng của cả một nửa đoàn thể ở lại chặn địch để bị tận diệt dưới dòng sông Dương Liễu. Những hồn thiêng đó về đây vào những đêm hè này, mở hội hoa đăng, mừng đàn con cháu, qua bao gian lao nguy hiểm đã lập được một giang sơn bền vững tại một nơi có đủ biển, núi, sông, đồng ruộng và ánh sáng.