← Quay lại trang sách

CHINTAMANI* VÀ NHỮNG CON CHIM

“E hèm...” ông doctor Vitásek nói, “ông biết không, tôi có chút hiểu biết về thảm Ba Tư, nhưng việc này tôi sẽ chứng minh cho ông biết, ông Taussig ạ. Bây giờ không còn như trước đây. Bây giờ bọn móc túi từ Trung Đông không làm thảm như ngày trước, thời người ta nhuộm len bằng màu làm từ bọ, từ lá cây indigo, từ thảo dược, từ nước tiểu lạc đà, từ hạt sùi* và từ các loại chất hữu cơ được tinh luyện; ngay cả len cũng không còn như trước và nếu tôi phải kể lại về mẫu thêu, tôi sẽ phải phát khóc. Nó là môn nghệ thuật đã mất đi, những tấm thảm Ba Tư ấy. Cho nên những tấm thảm cũ, được làm trước năm 1870 thì còn có giá trị gì đó; nhưng ông chỉ mua được những tấm thảm ấy khi các gia đình có truyền thống từ trước kia, vì lý do gia đình - cách các gia đình cao cấp nói khi họ mang nợ, phải bán những đồ cổ mà ông nội họ để lại.

(*) Chintamani (cũng viết là Cintamani, hoặc Chintamani Stone) là viên ngọc như ý trong cả Ấn Độ giáo và Phật giáo truyền thống.

(*) Hạt này do một loại bọ có cánh đẻ trứng lên lá cây mà tạo thành để bảo vệ trứng.

“Ông nghe nhé, lần ấy tôi nhìn thấy ở lâu đài Rožmberk* tấm thảm Transylvania xịn - đó là những tấm thảm nhỏ, thảm modlak mà người Thổ sản xuất vào thế kỷ mười bảy tại Transylvania*, thế mà bây giờ những người du lịch đi giày đế ốp sắt giẫm lên, chẳng ai biết nó có giá trị như thế nào, ừ, người ta có thể khóc được. Và một trong những tấm thảm đặc biệt quý hiếm trên thế giới hiện đang có ở nước mình đấy, ở Praha, thế mà không ai biết về nó. Nó là thế này: tôi quen biết với hầu hết các thương gia bán thảm ở nước mình và đôi khi tôi đến thăm họ để xem họ có gì hay hay trong kho không. Ông biết không, các đại lý ở Anatolie* và Ba Tư nhận được một tấm thảm cũ, bị lấy trộm từ nhà thờ đạo Hồi hay đâu đó và gói vào những hàng hóa khác rồi sau đó bán cả gói theo trọng lượng. Tôi nghĩ rằng họ có thể cuộn vào đó cả thảm ladik và thảm bergramo! Vì vậy đôi khi tôi đến thăm người buôn thảm này hay người buôn thảm nọ, tôi ngồi trên đống thảm, hút thuốc và xem họ có bán lẻ các loại thảm buchar, saruk hay tabriz không và đôi khi tôi hỏi: các vị có cái gì ở bên dưới, cái thảm vàng vàng ấy? Và này, đó là tấm thảm hamadan. Vì thế thỉnh thoảng tôi đến nhà bà Severýnová - bà ấy có cửa hàng nhỏ trên phố ở khu phố cổ Praha và đôi khi ở đấy người ta mua được những tấm thảm karaman và kelim rất đẹp. Bà ấy béo tròn và vui tính, hay nói và có nuôi một con chó bông cái, con này béo đến nỗi người ta phải ái ngại. Những con chó béo này khó tính và sủa như bị hen hay bị dị ứng nên tôi rất ghét chúng. Ông nghe này, đã ai trong các ông nhìn thấy chó bông con chưa? Tôi thì chưa, tôi nghĩ rằng tất cả các con chó bông cũng giống như các vị thanh tra, kiểm vé và phòng thuế, tức là đều già; cái này thuộc về nòi. Vì tôi muốn có quan hệ tốt với bà Severýnová, tôi thường ngồi xuống góc thảm nơi con chó bông Amina đang ngủ say trên tấm thảm vuông được gấp lại, tôi gãi lưng nó và con Amina rất thích thế.

(*) Lâu đài ở miền Nam Czech.

(*) Miền đất ở Rumania, trước đây thuộc về Thổ Nhĩ Kỳ.

(*) Khu Vực ở miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ.

“Bà Severýnová ạ, có lần tôi nói, bán thảm khó nhỉ; cái tấm thảm mà tôi đang ngồi lên cũng nằm đây hơn ba năm rồi.

“Tấm thảm này nằm ở đây lâu hơn, bà Severýnová nói, cái tấm trong góc ấy đã được gấp lại hơn mười năm rồi đấy; nhưng đấy không phải thảm của tôi đâu.

“À vậy, tôi nói, nó là thảm của con Amina.

“Không đâu, bà Severýnová cười, nó là thảm của một quý bà, bà ấy nói là ở nhà không có chỗ để, vì thế bà ấy gấp lại và để nhờ ở đây. Nó làm tôi vướng víu, nhưng ít ra là chỗ ngủ tốt cho con Amina, phải không Amina?

“Thế là tôi kéo góc thảm, mặc dù con Amina tức giận nhảy lên sủa. Nó là cái thảm cũ, tôi nói, tôi được phép xem không?

“Sao lại không, bà Severýnová nói và bế Amina con lên. Nào Amina, lại đây, ông ấy muốn xem; lát nữa rồi Amina lại nằm mà. Im nào, Amina ơi, cấm sủa! Cút đi nào, đồ ngốc!

“Tôi bèn mở tấm thảm ra và tim tôi đập thình thình. Nó là tấm thảm anatolak từ thế kỷ mười bảy, một số chỗ đã bị mòn do đi lại, nhưng để các ông biết, nó là thảm chim với những mẫu thêu là Chintamani và những con chim. Những mẫu thêu này là loại mẫu thần thánh và rất hiếm. Tôi nói với ông nhé, nó là loại cực quý hiếm; và tấm thảm ở đây có cỡ ít nhất năm nhân sáu mét, tuyệt đẹp màu trắng, màu xanh ngọc lam và màu hồng anh đào. Tôi đứng bên cửa sổ để bà Severýnová không nhìn thấy nét mặt của mình, và nói: Cái giẻ này cũ quá bà Severýnová ạ, để ở đây đã quá lâu. Này, bà nói với bà ấy là tôi sẽ mua, nếu bà ấy ở nhà không có chỗ để nó.

“Khó đấy, bà Severýnová nói. Tấm thảm này không để bán, mà bà ấy luôn luôn ở Merano và Nizza; tôi không biết bao giờ bà ấy về nhà. Nhưng tôi sẽ thử hỏi bà ấy.

“Bà làm ơn nhé, tôi nói với giọng thản nhiên nhất rồi tôi đi. Để các ông biết, đối với người sưu tầm thì danh dự nhất là mua được những của hiếm với giá vài xu. Tôi biết một ông rất to và giàu có, ông ấy sưu tầm sách; ông ấy sẵn sàng mua một quyển cũ với giá vài nghìn, nhưng khi ông ấy mua được quyển thơ của Josef Krasoslav Chmelenský xuất bản lần đầu với giá hai koruna thì ông ấy nhảy lên vui sướng. Cái này là một môn thể thao, giống như đi săn sơn dương. Vì thế tôi ghi nhớ rằng tôi phải mua bằng được tấm thảm ấy với giá rẻ và sẽ tặng cho viện bảo tàng vì không có chỗ nào phù hợp với nó hơn. Có thể nó phải được bổ sung một cái bảng đề hàng chữ: Quà tặng của doctor Vitásek. Xin lỗi ông chứ con người ta có sĩ diện, đúng không nào? Tôi phải thú nhận là đầu tôi bốc cháy lên vì việc này. Và rất vất vả để tôi vượt qua chính mình để khỏi cứ hai ngày một lần đến ngó tấm thảm với mẫu thêu Chintamani và những con chim; tôi không thể nghĩ đến cái gì khác. Mình phải chịu đựng, tôi tự nhủ hằng ngày; tôi đã tự đặt cho mình một chướng ngại vật. Người ta đôi khi thích hành hạ mình. Thế nhưng sau mười bốn ngày tôi nhớ ra là có thể có ai đó phát hiện ra tấm thảm ấy, tôi vội đến chỗ bà Severýnová. Thế nào rồi? tôi hỏi ngay khi đến trước cửa.

“Gì cơ? bà ta ngạc nhiên hỏi lại tôi làm tôi phải ngớ ra. À, tôi nói, tôi bỗng dưng đi qua đây và bỗng nhớ ra cái tấm thảm trắng ấy; bà ấy có bán không?

“Bà Severýnová lắc đầu. Không đâu, bà ta nói, bà ấy bây giờ đang ở Biarritzi và chẳng ai biết khi nào bà ấy về. Thế là tôi lại ngó xem cái thảm còn ở đấy không; tất nhiên là con Amina béo hơn trước và lặc lè hơn mọi khi và đang chờ tôi gãi lưng cho nó.

“Sau đó ít hôm tôi phải đi London và khi đến đó tôi đến thăm ông Keith - ông biết chứ, Ngài Douglas Keith là người hiểu biết bậc nhất về thảm Trung Đông. Thưa ông, tôi nói với ông ấy, tôi xin hỏi, một tấm thảm anatol trắng với mẫu Chintamani và những con chim, cỡ năm nhân sáu mét. Ngài Douglas Keith nhìn tôi qua cặp kính trắng và cáu kỉnh gắt lên: Không có giá đâu!

“Tại sao vậy, tại sao không có giá, tôi thốt lên. Tại sao lại không thể có giá? Vì rằng thảm loại này cỡ đó không tồn tại, Ngài Douglas Keith nhìn tôi và bực tức quát lên. Anh ạ, anh phải biết rằng tấm thảm lớn nhất với mẫu thêu Chintamani và những con chim chỉ có cỡ ba nhân năm mét!

“Tôi đỏ mặt lên vì vui mừng. Thưa ngài, cứ coi như có thể tồn tại một tấm có cỡ như vậy thì giá của nó thế nào? Thì tôi đã trả lời anh rồi, không có giá, ngài Keith quát lên. Anh ạ, tấm thảm như vậy có thể là tấm duy nhất thì làm sao anh có thể định giá cho cái duy nhất chứ? Nếu cái gì đó là duy nhất thì giá có thể là một nghìn cũng như mười nghìn, tôi làm sao biết được? Tóm lại là tấm thảm như vậy không tồn tại, anh ạ. Chúc anh một ngày đẹp!

“Các ông hãy tưởng tượng ra tôi trở về như thế nào? Lạy Đức Mẹ Maria, con phải lấy được tấm thảm với mẫu ba viên ngọc Phật và những con chim! Nó sẽ có giá trị cho viện bảo tàng! Nhưng bây giờ các ông ạ, các ông hãy tưởng tượng là tôi không được phép thúc giục, vì cái này không là hàng sưu tầm. Và bà Severýnová không vì tấm giẻ cũ không phải của bà ấy mà phải mất công đi từ Merano đến Ostende và từ Baden đến Vichy. Cái mụ đàn bà ấy phải có quyển đại từ điển y tế trong nhà vì mụ có ngần nấy bệnh; tóm lại là luôn luôn ở một nơi để chữa bệnh bằng cách tắm nước suối khoáng. Vì thế cứ hai tuần một lần tôi đến chỗ bà Severýnová để ngó xem trong góc nhà còn tấm thảm với những con chim của mình không và gãi lưng con chó Amina tởm lợm đến mức nó sung sướng phát rên lên. Và để khỏi gây chú ý mỗi lần đến đây tôi mua một tấm thảm; ông nghe nhé, tôi đã mang về nhà ngần nấy thảm shiraz, shirvan, mosul, kabristan và cả đống thảm mét, nhưng trong đó cũng có một tấm derben cổ điển, ông ạ, và một tấm khorasan cũ màu xanh. Nhưng cái mà tôi trải qua hai năm ấy thì chỉ có người sưu tầm mới hiểu được. Không đời nào, nỗi đau của tình yêu không thể so được với những nỗi đau của nhà sưu tầm; nhưng có điều đặc biệt là không có nhà sưu tầm nào tự tử và ngược lại, thông thường họ thọ cao; rõ ràng cái này là niềm si mê khỏe mạnh.

“Có một hôm bà Severýnová nói với tôi: bà Zanelli, chủ cái tấm thảm ấy đã đến đây; tôi nói với bà ấy là tôi có người hỏi mua tấm thảm trắng trải nền và tấm thảm của bà ấy nằm đây đã lâu, nhưng bà ấy nói đây là thảm của gia đình, bà ấy không có nhu cầu bán nó và bảo tôi cứ giữ lấy.

“Thế là tôi, tất nhiên rồi, tự đến gặp bà Zanelli. Tôi vẫn nghĩ bà ta là một quý bà đẹp đẽ biết chừng nào, nhưng bà ta là một mụ xấu xí có cái mũi màu tía, đầu đội tóc giả, miệng mấp máy kỳ lạ và miệng bà ta luôn luôn mở lệch sang má trái gần đến tận mang tai.

“Thưa quý bà, tôi nói, đồng thời luôn luôn nhìn miệng bà ta đang nhảy nhót trên má, tôi muốn mua tấm thảm trắng của bà; tấm ấy tuy cũ, nhưng tôi có thể dùng cho... phòng tiền sảnh bà ạ. Và khi đợi bà ta trả lời, tôi cảm thấy miệng mình cũng bắt đầu mấp máy và nhảy sang bên trái; tôi không biết cái bệnh mấp máy miệng của bà ta là căn bệnh truyền nhiễm hay là do bực mình, nhưng tôi không cưỡng chế được nó. Ai cho phép anh? mụ đàn bà khủng khiếp ấy quát tôi với giọng the thé. Cút ngay! Ngay bây giờ! bà ta rít lên. Cái này là tấm thảm của gia đình mà ông tôi để lại! Nếu anh không đi ngay tôi sẽ gọi cảnh sát! Tôi không bán thảm, tôi là người của dòng tộc von Zanelli, anh biết chưa? Mary! Đuổi người này đi mau!

“Các ông nghe nhé, tôi chạy khỏi cầu thang như một cậu bé; tôi có thể khóc vì vừa bực vừa tiếc, nhưng tôi phải làm gì? Cả năm tôi đến chỗ bà Severýnová; con Amina đã học được cách kêu ủn ỉn, nó cực béo và lông đã rụng gần hết. Sau một năm bà Zanelli trở về; lần này tôi đầu hàng trước và đã làm một việc mà với tư cách của một nhà sưu tầm tôi có thể xấu hổ đến chết: tôi đã cử một người bạn, anh ta là trạng sư Bimbal, một người dịu dàng và để râu, cái này giúp anh ta lấy được niềm tin vô tận từ phụ nữ, để anh ta hỏi mua tấm thảm chim từ quý bà đáng kính ấy với giá phải chăng nào cũng được. Sau ba giờ Bimbal lảo đảo đi ra từ ngôi nhà ấy rồi lau mồ hôi. Đồ quỷ sứ, anh ta hổn hển nói, tao sẽ giết mày! Tại sao tao phải đến đấy vì mày để tao phải nghe về lịch sử gia đình Zanelli ba giờ liền? Để mày biết, anh ta quát lên đầy căm hận, mày không mua được cái thảm ấy đâu; mười bảy vị trong gia tộc Zanelli đang nằm trong nghĩa địa Olšany sẽ đội mồ đứng dậy, nếu tấm thảm kỷ niệm của gia đình bị đưa vào viện bảo tàng! Trời ạ, mày hại tao! Và anh ta bỏ đi mặc kệ tôi đứng đấy.

“Ông biết chứ: khi người đàn ông đã nhen nhúm cái gì đó trong đầu thì anh ta sẽ không quên. Và nếu anh ta là nhà sưu tầm thì anh ta có thể đi giết người; cái môn sưu tầm là một môn anh hùng. Thế là tôi đã quyết định là tôi sẽ ăn trộm tấm thảm có Chintamani và những con chim. Trước hết tôi xem khu vực lân cận; cửa hàng của bà Severýnová ở trong sân, những cổng ra vào bị khóa vào chín giờ tối và tôi không muốn mở cổng bằng chìa khóa giả vì tôi cũng không biết cách ấy. Từ cổng có thể đi xuống tầng ngầm, nơi người ta có thể ẩn nấp trước khi khóa cửa nhà. Trong sân còn có một cái kho nhỏ làm bằng gỗ, nếu trèo lên mái cái kho ấy thì có thể trèo sang được sân bên cạnh, sân ấy thuộc về quán bia và từ quán bia bao giờ cũng có thể ra ngoài được. Như vậy là rất đơn giản, quan trọng là làm thế nào để mở cửa sổ cửa hàng. Về việc này tôi đã mua một viên kim cương của thợ thủy tinh và học cách cắt ô kính trên cửa sổ nhà mình.

“Các ông nghe nhé, xin đừng nghĩ ăn trộm là việc đơn giản; cái này khó hơn là mổ sa ruột hay cắt thận người ta. Khó nhất là không để ai nhìn thấy anh. Thứ nhì là bao nhiêu chờ đợi và các khó chịu khác. Cái thứ ba là mình không rõ cái gì sẽ chờ đợi mình. Tôi phải nói với ông: đây là nghề khó và tiền thưởng ít. Nếu tôi bắt được kẻ trộm trong nhà mình tôi sẽ cầm tay hắn và nhắc nhở nhẹ nhàng: Người ạ, sao mà anh làm khổ mình đến thế; anh xem có nên ăn trộm của những người khác bằng phương pháp nhàn hạ hơn không?

“Tất nhiên là tôi không biết những người khác ăn trộm như thế nào, nhưng kinh nghiệm của tôi cũng không tốt cho lắm. Buổi tối căng thẳng ấy tôi chui vào ngôi nhà nọ và nấp trong cầu thang dẫn xuống tầng hầm. Nói như vậy là nói theo kiểu báo cáo của cảnh sát; trong thực tế tôi đã lởn vởn trước cổng nên đã làm cho mình trở nên đáng chú ý trước mọi người. Cuối cùng thì tôi đã quyết định một cách tuyệt vọng, cũng giống như người ta quyết định đi nhổ răng, tôi đi vào hành lang, tất nhiên rồi, tôi đã va phải một cô giúp việc đang đi đến quán bia bên cạnh để mua bia. Để cô ta khỏi làm ầm lên, tôi quát nạt cô ta là đồ nhóc con và cô ta liền bỏ chạy. Trong lúc tôi nấp trên cầu thang xuống tầng hầm thì các sọt đựng trăm thứ bà giằn ở đó do tôi lạc vào đấy đã đổ xuống và phát ra tiếng kêu to. Sau đó khi cô giúp việc mang bia trở về thì cô ta bực tức báo với người coi nhà là có người ngoài chui vào nhà, nhưng người coi nhà tuyệt vời ấy không để cô ta làm mất tập trung và tuyên bố rằng đây là một kẻ say đã nhầm đường đến quán bia. Sau mười lăm phút anh ta đã ngáp rồi ngật ngưỡng ra khóa cổng. Chỉ có ở tầng trên là cô giúp việc nấc rất to - lạ thật, những cô giúp việc thường hay nấc rất mạnh, chắc là do nhớ nhà. Tôi bắt đầu thấy lạnh, thêm vào đó ở dưới này hôi thối và tanh tưởi, cái gì tôi động phải cũng nhớp nháp. Trời ạ, ở đấy phải có rất nhiều dấu vân tay của doctor Vitasek, chuyên gia tuyệt vời về chữa bệnh đường tiết niệu của chúng ta! Khi tôi nghĩ là đã nửa đêm thì mới mười giờ tối. Tôi định bắt đầu vào nhà vào lúc nửa đêm, nhưng đến mười một giờ tôi đã không chịu đựng được nữa và đi ăn trộm. Ông không tin được là khi người ta đi trong bóng tối thì sẽ gây ra tiếng động như thế nào đâu, nhưng ngôi nhà vẫn im lìm trong giấc ngủ yên lành. Cuối cùng thì tôi đến bên cửa sổ và bắt đầu cắt thủy tinh ken két. Bên trong chó bắt đầu sủa om lên. Trời ạ, trong ấy là con Amina! Amina này, tôi gọi nhỏ, đồ quỷ, im nào, ta sẽ gãi lưng cho mày. Nhưng rất khó, các ông biết không, rất khó đặt viên kim cương vào đúng cái rãnh mà mình vừa mài. Cuối cùng thì tôi ấn mạnh và cả tấm thủy tinh đã vỡ và kêu vang. Giờ thì mọi người sẽ chạy xuống, tôi tự nhủ xem mình sẽ nấp ở chỗ nào; nhưng không có gì xảy ra. Sau đó với sự bình tĩnh hèn hạ tôi đã bẻ được mấy miếng thủy tinh nữa rồi mở cửa sổ ra. Bên trong con Amina sủa nho nhỏ để chứng tỏ là nó đang làm nhiệm vụ. Tôi chui vào qua cửa sổ và việc đầu tiên là lao đến con Amina. Amina này, tôi nói khẽ, lưng mày chỗ nào? Xem này, tao là bạn của mày nhé, đồ quỷ ạ, mày thích chứ? Amina sung sướng lăn ra uốn tròn. Bằng giọng bạn bè tôi nói với nó: Nào, giờ thì buông ra, béo ơi! Và tôi muốn kéo tấm thảm chim dưới thân nó. Lúc này con Amina có lẽ muốn nói đây là tài sản của nó và bắt đầu gào lên; đây không phải là tiếng sủa mà là tiếng gào. Trời ạ, Amina, tôi nói với nó, im nào, đồ quỷ! Đợi đấy, tao sẽ làm cho mày chỗ nằm tốt hơn. Rộp một cái tôi kéo rơi tấm thảm kirman từ trên tường, cái tấm này bóng phát tởm mà bà Severýnová cho là tấm thảm hiếm quý nhất của cửa hàng. Amina xem này, mày sẽ ngủ ngon trên tấm này nhé! Amina nhìn tôi vẻ quan tâm, nhưng hễ tôi đưa tay kéo cái thảm của nó thì nó lại gào lên. Tôi nghĩ rằng người ta phải nghe thấy tiếng gào của nó ở tận Kbylisy*. Thế là tôi lại phải gãi lưng nó để nó sung sướng và ôm lấy nó trên tay, nhưng hễ tôi sờ vào tấm thảm độc nhất có Chintamani và những con chim thì nó gừ lên như bị hen và như chửi bới. Trời ạ, đồ quỷ, tôi nói với nó đầy tuyệt vọng, tao sẽ phải giết mày!

(*) Tên một khu phố ở Praha, xa trung tâm.

“Ông nghe nhé, tôi không thể hiểu nữa, tôi đứng nhìn cái con chó tởm lợm béo mỡ và hèn hạ ấy với lòng căm thù điên dại tôi chưa từng trải qua, nhưng tôi không thể giết nó. Tôi có mang con dao rất tốt và đeo nó trên dây quần; tôi có thể cắt tiết hay siết cổ nó, nhưng tôi có trái tim. Tôi ngồi xuống cạnh nó trên tấm thảm thánh thần và gãi tai cho nó. Đồ hèn, tôi tự nhủ thầm, chỉ cần một hai động tác là xong; anh đã mổ cho bao nhiêu người và nhìn họ chết trong đau đớn và kinh hoàng; vậy thì tại sao anh không thể giết nổi một con chó tởm? Tôi nghiến răng để thêm dũng cảm, nhưng không thể. Tôi bắt đầu khóc, tôi đoán là vì thấy mình nhục nhã. Lúc này con Amina thút thít kêu và liếm má tôi.

“Đồ khốn kiếp, đồ lợn, đồ xác chết vô dụng, tôi gầm từ quát nó và gãi vào chỗ lưng rụng hết lông của nó; sau đó tôi chui qua cửa sổ để ra sân; đây là một trận thua và rút lui. Sau đó tôi muốn nhảy lên mái kho gỗ và nhảy lên mái để sang sân bên kia rồi qua quán bia để ra ngoài, nhưng tôi đã hết sức hoặc cái mái nhà cao hơn tôi dự đoán trước đây, tóm lại là tôi không leo lên được. Thế là tôi chui xuống tầng hầm và đứng ở đó đến sáng. Tôi gần chết vì mệt. Tôi thật ngốc, tôi đã có thể ngủ trên tấm thảm, nhưng tôi không nghĩ ra. Buổi sáng tôi nghe thấy người coi nhà mở cổng. Tôi đợi một lát rồi ra ngoài. Người coi nhà đứng bên cổng và khi nhìn thấy người lạ đi ra từ hành lang anh ta thấy lạ, nhưng không to tiếng.

“Mấy hôm sau tôi qua thăm bà Severýnová. Trên cửa sổ cửa hàng đã có thêm lưới sắt và trên tấm thảm thánh thần có mẫu thêu Chintamani, tất nhiên là thế, con chó tởm lợm và đáng ghét đang nằm. Khi thấy tôi nó nhảy lên vui sướng và ngoáy tít cái khúc lòng dồi mà ở những con chó khác người ta gọi là đuôi. Ông ạ, bà Severýnová vui tưng bừng nói, đây là con Amina vàng của tôi, kho báu của tôi, con chó yêu quý, ông biết không, kẻ trộm đã lọt vào đây qua cửa sổ và Amina của chúng tôi đã đuổi được nó đi! Ông ạ, tôi chẳng đổi nó lấy bất cứ thứ gì trên đời này, bà ấy tự hào tuyên bố. Nhưng nó rất mến ông, ông ạ; con này nó biết ai là người trung thực, đúng không Amina?

“Tất cả là thế. Tấm thảm độc nhất có mẫu chim ấy vẫn nằm ở đấy cho đến nay, nó là, theo tôi, một trong những thảm thêu hiếm có nhất trên thế giới. Và cho đến hôm nay con chó Amina xấu xí, bẩn thỉu và hôi hám vẫn phì phò trên tấm thảm ấy. Tôi nghĩ rằng sẽ có ngày nó chết ngạt vì mỡ và có thể tôi sẽ lại thử một lần nữa, nhưng tôi phải học cách cưa lưới sắt đã.”