← Quay lại trang sách

Chương 14 Quyết Biệt.

Bởi vì ta là con gái của Khương Gia…

Một khi hai nhà nảy sinh xung đột, ta sợ ta sẽ hy sinh công tứ chọn nhà mẹ đẻ…

Một lời thành sấm truyền.

Rất lâu rất lâu rồi… trong một khoảng thời gian rất dài, Khương Trầm Ngư cảm thấy nàng đắm chìm trong một mộng cảnh hư ảo nào đó do chính nàng dệt nên. Trong giấc mộng này, nàng mang theo khát vọng nhỏ nhoi, ngóng trông một tia hy vọng cuối cùng.

Hy vọng có thể trở thành bằng hữu của Cơ Anh. Cho đù không phải là tình nhân, cho đù không liên quan đến ái tình, nhưng là chiến hữu, là đối tác, là người rất thân thiết.

Vì thế nàng tranh đấu, nàng cầu xin, nàng không chấp nhận số phận.

Nàng – Khương Trầm Ngư xưa nay chưa từng cam tâm. Xin làm mưu sĩ cũng được, mà đi sứ Trình quốc cũng xong, dưới cái vẻ ngoài tưởng như nguy hiểm mà muôn phần đặc sắc đó chẳng qua chỉ là sự chống đối vận mệnh của nàng mà thôi.

Nhưng nay, hai câu nói của Đỗ Quyên đã tuyên bố sự chống đối này của nàng biến thành một câu chuyện cười thực thụ.

Phụ thân…

Phụ thân…

Rốt cuộc cha đang nghĩ gì?

Hoặc nói cách khác, cha đang mưu toan gì? Kế hoạch của cha phải chăng đã bắt đầu từ nhiều năm trước? Bây giờ chính là thời điểm cha ra tay sao?

Ngấm ngầm giúp đỡ Di Phi trốn khỏi Trình quốc là bước quan trọng nhất trong kế hoạch ám sát Cơ Anh của cha sao?

Phụ thân… muốn… giết… Cơ Anh… Sáu chữ này đau thấu tâm can.

Khương Trầm Ngư nhìn Đỗ Quyên cách mình chỉ một bước, nghĩ đến thân phận thực sự của nữ tử này, nghĩ đến tất cả cảnh ngộ mà nàng ta đã gặp phải, lại nghĩ đến Họa Nguyệt trong cung, lại nghĩ đến bản thân phút này, nước mắt từ từ ngưng lại, thay vào đó là một tràng cười lớn vang lên.

Cười đau khổ. Cười nhạt. Cười lạnh. Cười tự trào. Cười như điên dại.

Nàng nhắm mắt lại, cười điên cuồng. Tiếng thét chói tai xé toang lồng ngực, tuôn trào bùng nổ.

Khương Trầm Ngư chưa bao giờ biết rằng hóa ra mình còn có thể gào lớn đến thế, nhưng cho dù dùng lực như thế nào, dường như vẫn không đủ, không đủ, vĩnh viễn không đủ!

Đỗ Quyên bị giật mình vì tiếng thét của nàng, nàng ta co rúm người lại, cuối cùng chau mày: “Trầm Ngư”.

Trầm Ngư không hề e ngại vẫn một mực hét, như thể phải xả hết thảy nỗi ấm ức trong đời, như thể loạn trí.

Đỗ Quyên bình tĩnh trở lại, lạnh nhạt nói: “Gào đi. Ngươi cứ thả sức mà gào đi. Năm đó ta cũng muốn kêu gào, nhưng cho dù là cơ hội kêu gào ấm ức ông trời cũng chẳng ban cho ta. Chỉ một điềm này thôi, ngươi cũng may mắn hơn ta rất nhiều Khương Trầm Ngư, dù cho ngươi có thừa nhận hay không, ngươi vẫn là đứa con may mắn nhất của Khương gia. Ngươi có biết tại sao Khương Họa Nguyệt không thể hoài thai không?”.

Nghe nàng ta đột ngột nhắc đến Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư run rẩy một lúc tiếng thét đau đớn trong nháy mắt đã nhỏ đi chỉ còn tiếng nghẹn ngào thốn thức của loài động vật bị thương còn sót lại trong cổ họng. Bởi vì Khương gia chỉ cần một hoàng hậu, mà Khương Trọng… chọn ngươi”.

Khương Trầm Ngư liền ngẩng đầu lên, khàn giọng hỏi: “Tỉ nói gì?”.

Nụ cười trên môi Đỗ Quyên trở nên có phần ác ý: “Ta nói còn chưa đủ rõ ràng sao? Trầm Ngư, ngay từ khi bắt đầu, Khương gia đã chọn ngươi – đứa con xuất sắc nhất, được yêu thích nhất của bọn họ, tiếp nối dòng máu của hoàng tộc, trở thành cánh tay đắc lực nhất, mạnh mẽ nhất của họ, thao túng Bích quốc. Cho nên, ngươi đã được chọn lựa để vào cung, Họa Nguyệt chỉ là một viên đá lót đường mà thôi”.

Cả người Khương Trầm Ngư run lên dữ dội. Chân tướng sự việc ào ào lộ diện, thậm chí còn chẳng cho nàng mảy may cơ hội nghỉ lấy hơi. Vốn cứ tưởng rằng là trời long đất lở, mà chưa từng nghĩ rằng còn có thể đau đớn hơn, thương tâm hơn, tuyệt vọng hơn nữa.

“Tình cảm của ngươi và Khương Họa Nguyệt rất thắm thiết phải không?

Ngươi được ban cho quyền tự do vào cung thăm nàng ta phải không? Mỗi lần ngươi vào cung thăm tỉ tỉ, người nhà có phải đều rất ủng hộ không? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao dân gian lại lưu truyền câu nói, con gái út của Khương gia đẹp như tiên nữ, nghiêng nước nghiêng thành’ sao? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao canh thiếp của Kỳ Úc hầu lại vô duyên vô cớ bốc cháy sao? Ngươi chưa từng nghĩ qua, tại sao hoàng thượng lại đột nhiên muốn ngươi vào cung sao? Hơn nữa còn để cho ngươi vừa vào cung đã đứng đầu quần phi?”.

Khương Trầm Ngư cuơng quýt hỏi: “Ý tỉ là tất cả đều vì… phụ thân?”.

Đỗ Quyên nhướn nhướn mày, vẻ mặt lại càng lộ vẻ giễu cợt: “Ngươi biết theo truyền thống một hoàng hậu cần có những điều kiện gì không? Phải xuất thân danh giá, nghi dung đoan trang, khí độ cao vời, tự nhiên hào phóng. Cho nên, ngươi được nuôi dạy khôn lớn theo tất cả những phẩm chất mà một hoàng hậu cần có, ngươi thử nghĩ mà xem, từ nhỏ đến lớn mọi. Người đều yêu cầu với ngươi nghiêm khắc nhất phải không? Phu tử dạy dỗ ngươi dụng tâm nhất phải không?”.

Nàng ta vừa nhắc tới, Khương Trầm Ngư liền nhớ ra, thuở nhỏ quả thực là như vậy. Bình thường, ca ca luôn quên làm bài tập, phu tử cũng không trách phạt, tỉ tỉ không làm tốt, phu tử cũng không soi mói. Chỉ có nàng, nếu có sơ suất, là sẽ bị dạy dỗ một cách rất tỉ mỉ kiên nhẫn, bị chỉnh đốn rất nghiêm khắc. Khi đó, chỉ nghĩ là phu tử cố ý bắt chẹt mình, chứ chưa bao giờ nghĩ rằng nội tình lại ẩn chứa chuyện sâu xa như thế?

Ngươi cũng rất giỏi, đã trưởng thành đúng theo mong muốn của Khương Trọng. Từ sau khi ngươi mười ba tuổi, thiên hạ đều biết con gái út của hữu tướng, mỹ mạo còn hơn cả tỉ tỉ tài đức song toàn, được mệnh danh là Bích quốc đệ nhất mỹ nhân”.

Lời đồn chốn phố chợ phần nhiều là thổi phồng, vì thế nàng tuy đã nghe thấy những tin đồn đó, nhưng chưa từng để tâm. Nhưng phản ứng của Hoàng Kim Bà, phản ứng của Chiêu Loan, rõ ràng đều chịu ảnh hưởng của những tin đồn đó cũng ngấm ngầm thừa nhận địa vị của nàng. Lúc này lại nghe Đỗ Quyên vạch rõ huyền cơ, cảm giác thật là… giống như một sự chế giễu trắng trợn.

“Để che giấu chờ thời, Khương gia luôn dùng thuật trung dung tức là với bất cứ việc gì cũng không tỏ ra xuất chúng, không phạm sai lầm, không lập công lao. Cho nên, khi ngươi vừa tới tuổi cập kê, để dập tắt ý muốn của những người muốn cầu thân với ngươi, Khương Trọng đã cố ý tung tin hứa gả ngươi cho Cơ Anh. Nhưng sau lưng lại âm thầm khẩn trương khai triển các khâu then chốt, lót sẵn đường, đốt canh thiếp, lại lợi dụng lòng đố kỵ của Hy Hòa phu nhân đối với ngươi, sự phòng bị của Chiêu Doãn đối với Cơ Anh, để ngươi thuận lợi vào cung, ngồi vững trên cái ngai Thục phi”.

“Lòng đố kỵ?”. Chân tướng giống như một tấm lưới lớn bị chìm dưới đầm lầy nhiều năm, khi nổi lên, loang lổ rách nát, tả tơi tàn tạ, lại vừa sắc lẹm, từng sợi từng sợi làm người ta bị thương.

Đỗ Quyên cười ha ha, vuốt ve mái tóc dài, than khẽ: “Quả nhiên, đến chuyện quan trọng nhất Khương Trọng cũng giấu ngươi, không cho ngươi biết. Ngươi nghĩ Hy Hòa phu nhân vào cung như thế nào? Ngươi nghĩ nàng ta vốn dĩ là ai?”.

“Nàng ta vốn dĩ là ai?”. Câu hỏi này vừa bật ra, Khương Trầm Ngư liền âm thầm phòng bị, nhưng khi Đỗ Quyên thong thả chậm rãi nói ra đáp án, nàng còn phải hứng chịu sự đả kích và nỗi tồn thương lớn hơn.

“Nàng ta vốn đĩ là tình nhân của Cơ Anh. Nàng ta mới là vị hôn thê thực sự của Cơ Anh!”.

Ngày đó, nam tử ấy vuốt. Ve chiếc bản chỉ, mỉm cười lắc đầu, nói không được, không thể nhường cho người khác;

Ngày đó, nam tử ấy ôm hòn giả sơn nôn ọe, toan vứt chiếc bản chỉ đó đi, nhưng cuối cùng lại không nhẫn tâm;

Bộ dạng tiều tụy của chàng, nàng từng nhìn thấy rõ ràng;

Còn nỗi lòng sâu kín của chàng, nàng lại chưa từng hiểu rõ.

Hóa ra, tất cả sự thất thố đó, tất cả sự ấm ức đó, tất cả nỗi khổ đau đó, đều vì con người ấy, mỹ nhân tuyệt sắc một thân bạch y quỳ giữa trời băng đất tuyết ấy, sủng phi của hoàng đế diễm lệ nhất cung đình, nổi bật giữa trần thế ấy, nữ tử thực sự cùng Cơ Anh thề nguyền sánh đôi mà phải chia lìa đó.

… Hy Hòa.

Khương Trầm Ngư nhớ tới Hy Hòa, nhớ tới điệu bộ mặt không cảm xúc quỳ bên ngoài cửa cung ngày hôm đó của nàng ta, nhớ đến Cơ Anh của ngày hôm đó vội vã chạy đến, đi lướt qua nàng ta, mắt không hề nhìn xuống;

Nhớ đến Hy Hòa triệu nàng vào cung đánh đàn, nàng im lặng đàn, Hy Hòa lặng lẽ nghe, sau đó, lệ sa đầm đầm;

Nàng nhớ đến Hy Hòa nôn ra máu, nhớ đến Cơ Anh cấp tốc dẫn theo Giang Vãn Y vào cung trị bệnh…

Những cảnh tượng đó nàng tận mắt chứng kiến, nhưng trong khoảnh khắc này, nàng mới thực sự hiểu rõ chân tướng sự việc.

Hóa ra…

Người công tử thích là nàng ta…

“Sao có thể?”. Khương Trầm Ngư lẩm bẩm: “Sao có thể… nếu như công tử thích Hy Hòa, sao có thể để nàng ta vào cung thành phi tử của hoàng đế?”.

“Ai mà biết được”. Đỗ Quyên tỏ vẻ không tán thành nói: ” Thứ hoàng đế muốn, kẻ làm thần tử có thể không dâng lên sao? Nhưng cặp đôi này cũng thật thú vị quá đi, thường xuyên gặp mặt, lại có thể vờ như không liên quan đến nhau, nếu không phải đám mật thám của Khương Trọng có bản lĩnh, khơi ra được, thì đâu có ai biết Hy Hòa phu nhân của triều ta hóa ra từng tằng tịu với Kỳ Úc hầu”.

“Hy Hòa… Hy Hòa…”. Khương Trầm Ngư lẩm nhẩm cái tên này, trong lòng trào đâng một thứ tình cảm vô cùng phức tạp. Nói không ghen tị là giả dối, vì dù gì vị công tử mà nàng một lòng ngưỡng mộ chính vì sự tồn tại của nữ tử này mà không thể thích một nữ tử nào khác; nhưng dường như không phải là rất oán hận, bởi Hy Hòa cũng chẳng thể ở bên Cơ Anh, phần nhiều nàng thấy bi thương, một nỗi bi thương rối bời.

Bởi vì, công tử khổ biết…

Khổ biết mấy…

Con người ôn hòa như thế, phải yêu sâu sắc đến nhường nào mới có thể uống cạn chén này đến chén khác trên bàn tiệc, buổn bã thất thố? Một Kỳ úc hầu phải nhẫn nhịn đau khổ đến nhường nào mới có thể giữ được vẻ ung dung điềm tĩnh thường ngày khi gặp người cũ giữa hoàng cung?

Khương Trầm Ngư nàng còn có thể mở miệng nói một tiếng “Ta ngưỡng mộ công tử” với Cơ Anh, còn công tử, đến một tiếng gọi âu yếm cũng không dám gọi nữa.

Hy Hòa phải đố kỵ biết mấy mới có thể không muốn nhìn thấy cảnh chàng lấy người khác?

Giữa chàng và nàng ta, rốt cuộc là yêu hận đan xen đến đâu không thể nào biết rõ, nhưng có một điềm rất rõ ràng rằng: Đó là thế giới chỉ thuộc về riêng hai người Hy Hòa và công tử, Khương Trầm Ngư, nàng không thể nào chen vào.

Từ khi bắt đầu, nàng đã thua cuộc.

Tiên nhân trong mây nào đâu thấy?

Đã rõ nhân duyên chẳng đúng người.

Giọng nói của Đỗ Quyên vẫn tiếp tục vang lên: “Cho nên, Cơ Anh không lấy ngươi, Hy Hòa cũng không để hắn lấy ngươi, hoàng đế lại càng không. Hoàng đế vì không muốn Cơ gia trở thành Khương gia thứ hai, nên không thể để hai nhà Cơ – Khương liên hôn, muốn phá đám hôn sự này thì phải dùng một hơn sự long trọng hơn để áp chế nó, lại thêm các mưu sĩ thúc giục bên cạnh, ngươi, Khương Trầm Ngư, đã từng bước từng bước trở thành Thục phi của hoàng đế, theo kế hoạch của Khương Trọng, mở cánh cửa đi đến ngai vị hậu đúng như ước nguyện của ông ta”.

Khương Trầm Ngư vô thức lắc đầu, lỗ tai trên tai trái như bị một ngọn lửa vô hình đốt cháy, khiến nàng đau đến bỏng rát, nó chứng kiến nàng đã từng khắc cốt ghi tâm như thế nào. Mỗi lần sờ lên đó nàng đều không kìm được nghĩ, nhất định là vì mình không đủ tốt, còn khiếm khuyết ở điểm nào để cho nên, mới không thể khiến người ấy thích. Sau đó nàng nghĩ mình phải thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn nữa cố gắng hết sức có thể để gần chàng thêm chút nữa.

Giờ ngẫm lại, những suy tư ấy chẳng khác gì một cái bạt tai, vả vào mặt nàng một cú bỏng rát. “Ngươi biết tại sao đêm nay ta phải giữ ngươi ở đây không? Bởi vì ngươi thân đáng giá vạn lượng hoàng kim, vốn liếng của Khương Trọng đều đặt cả vào ngươi, cho nên, ngươi tuyệt đối không thể xảy ra bất cứ sơ sảy nào. Hơn nữa, giữ ngươi ở đây còn có một dụng ý, chính là để ngươi mở to mắt ra nhìn rõ tất cả mọi việc”. Đỗ Quyên nói đến đây, ngữ điệu bỗng trở nên chậm rãi, thấp giọng thì thào như nói mơ: “Giấc mộng này, ngươi đã mơ suốt mười lăm năm, cũng nên tỉnh rồi”.

Khương Trầm Ngư không đáp lại.

Thực tế, chưa đợi nàng phản ứng lại, đã có một giọng nói thay nàng lên tiếng: “Không sai, giấc mộng này đúng là nên tỉnh rồi. Nhưng, người phải tỉnh không phải là nàng ấy, mà là ngươi”.

“Hoàng thượng thánh minh!”.

Cùng với câu cung giá đồng thanh của tám vị mưu sĩ, Chiêu Doãn thả bước từ từ đi ra khỏi Bách Ngôn đường. Vừa đến cửa thư phòng, một trận gió ùa tới thổi chiếc trường bào và mái tóc dài của y tung bay về phía sau, y đưa tay lên giữ lại, qua kẽ tay mặt trăng cong như móc câu, không sáng cho lắm, trên bầu trời chẳng có một vì sao.

Y ngẩng đầu, cứ nhìn chăm chăm như thế, ánh sáng lấp loáng, còn y đứng trong bóng tối, một vùng hư ảo.

Phía sau, La Hoành khom lưng, nói: “Hoàng thượng, chúng ta…”.

Chiêu Doãn thả bàn tay đang giữ mái tóc xuống, ánh mắt bỗng dưng lạnh căm, khóe môi từ từ nhếch lên, kéo một đường cong mỏng mảnh thành một nụ cười cực kỳ lạnh lẽo nói: nói ngươi đã dám hại chết thần tử trẫm yêu quý nhất, thì phải có ý thức trả giá. Bạch Trạch lìa đời thể nào cũng cần có chút đồ bồi táng chứ?”.

“Vâng”. La Hoành chợt hiểu ra, lại cúi người lùi lại mà không phát ra tiếng động nào.

Đêm đó, Hàn lâm bát trí (tám vị quân sư) chết đột ngột tại nhà Hung thủ không rõ danh tính. Trở thành vụ án còn bỏ ngỏ của đế đô.

Ở một nơi rõ ràng chỉ có hai người, nhưng lại xuất hiện tiếng nói của người thứ ba, khiến Đỗ Quyên trong chốc lát kinh sợ hoảng hốt, vừa định nhảy lên thì cánh tay đau nhói, tiếp theo là mấy huyệt đạo bị điểm trúng, không thể nhúc nhích được nữa.

“Ai? Là ai?”. Đỗ Quyên vội hét lên: “Dì Mai! Dì Mai.”. Hét được hai câu, giọng nói đó đã lười biếng cất lên: “Đừng gọi nữa, dì Mai công phu mèo cào của ngươi bây giờ không chừng đã ngủ trong xó xỉnh nào rồi, ngủ rất say, có lẽ không thể đến cứu chủ được nữa “.

“Ngươi… ngươi…”. Sau giây phút thất thố ngắn ngủi, Đỗ Quyên mau chóng lấy lại bình tĩnh, chau mày đoán, hỏi: ” Ngươi là Tiết Thái?”.

Phía sau lưng nàng ta, một thiếu niên chậm rãi bước ra, ánh đèn dịu dàng chiếu lên thân hình mảnh khảnh của hắn, đôi mắt bờ mi đen láy, không phải ai khác, chính là – Tiết Thái.

Tiết Thái cười cười: Không hổ là chị ruột của Khương Thục phi”.

Đỗ Quyên “hừ” một tiếng: “Giờ này có thể âm thầm lẻn vào chỗ ở của ta, hơn nữa giọng nói còn non nớt như thế, ngữ khí lại ngạo mạn như thế, thì chỉ có thể là kẻ bị đày xuống làm nô lệ nhưng không hề giác ngộ – Băng Ly công tử”.

Đối diện với sự châm chích này, Tiết Thái chỉ lạnh nhạt nói một câu: “Nói hay lắm”.

“Với võ công của ngươi thì không thể đến được đây mà không làm kinh động đến ba tầng ám vệ bên ngoài. Nói đi, người đến cùng với ngươi, điểm huyệt đạo của ta là ai?”. Đỗ Quyên nói đến đây, đầu lông mày nhíu chặt: “Trừ phi là Phan đại tướng quân cũng đến?”.

Một thân hình cao lớn xuất hiện trong phòng mà không có lấy một dấu hiệu báo trước tia sét, tựa gió lốc. Người đó bước nhanh đến trước mặt Khương Trầm Ngư, giải huyệt đạo cho nàng, Khương Trầm Ngư mắt nhòe nhoẹt nước ngẩng lên nhìn y, trăm ngàn cảm xúc rối ren, vừa tủi thân vừa chua xót, không kìm được khẽ gọi một tiếng: “Phan tướng quân…”.

Người đó chính là Phan Phương.

Đỗ Quyên có được đáp án im lặng một hồi, hai hàng lông mày cong cong như lá liễu nhướn lên, hướng về Khương Trầm Ngư nói: “Từ lâu đã nghe muội muội thông tuệ, hóa ra trình độ diễn kịch cũng vào hàng thượng thừa. Cố ý hét toáng lên, để át tiếng động khi bọn họ lại gần, khiến ta không hay không biết, lại còn một lòng nghĩ ngươi đáng thương… Chậc chậc chậc, đúng là trăm nghe không bằng một thấy. Khương Trầm Ngư… ngươi quả nhiên… rất lợi hại… “.

Khương Trầm Ngư vịn vào tay Phan Phương, sắc mặt trắng bệch, không thừa nhận mà cũng chẳng phủ nhận.

Đỗ Quyên lại nói: “Được rồi, dù sao ta cũng không mong mọi chuyện có thể thuận lợi. Có thử thách mới có lạc thú… Hai vị đại nhân không đi cứu vị chủ từ siêu phàm của các ngươi, lại đến chỗ của ta, thiết nghĩ tuyệt đối không phải vì muộn nghe chuyện nhà của tỉ muội ta. Vậy thì để ta đoán nhé…”.

Tiết Thái ngắt lời nàng ta: “Không cần đoán, chúng ta đến đây là để bắt ngươi!”.

Gương mặt Đỗ Quyên như bị kim đâm, nụ cười ngay lập tức tắt ngấm.

Còn Tiết Thái lại cười: “Ngươi muốn khoe mẽ sự thông minh của ngươi, cho nên chuyện gì cũng phải suy đoán một lượt, để người khác phải kinh ngạc, phải đau khổ, ngươi mới thấy vui. Ban nãy ngươi vừa giày vò Thục phi nương nương giày vò đã chưa? Đáng tiếc thay, ta sẽ không cho ngươi cơ hội này”.

Đỗ Quyên chẳng nói chẳng rằng, sắc mặt cực kỳ khó coi.

Bắt giặc phải bắt tướng trước. Bây giờ, phiền thành chủ phu nhân đi cùng chúng ta một chuyến”.

“Đi đâu?” Đỗ Quyên cười hiểm độc: “Đông viện à? Ta khuyên các vị đừng tốn công phí sức nữa. Loại Thiên Hỏa Thần Du mà ta cố ý sai người mua về từ Trình quốc đó, chỉ cần đốt lên các loại nước bình thường đều không thể dập tắt nổi, nó có thể đun sôi một bể nước chỉ trong thời gian một khắc. Ngọn lửa ở Đông viện cháy lâu như thế, e rằng Kỳ Úc hầu của các ngươi đã sớm hóa thành tro rồi”.

Tiết Thái thong thả nói: “Ai bảo bọn ta muốn đưa ngươi đến Đông viện?”. Đỗ Quyên sững người ra một lát.

“Đề ra: Giáp muốn giết Ất, sau đó giá họa cho Bính. Nhưng đột nhiên Bính mất tích, hay nói cách khác, Bính chưa từng xuất hiện… thì phải làm sao?”.

Đỗ Quyên bỗng nhiên biến: “Ngươi…”.

“Nếu hoàng thượng Di Phi không hề vào đất của Bích quốc, mà lại xuất hiện trong yến tiệc của Yên vương ở ngàn dặm xa xôi, xin hỏi làm thế nào thành chủ phu nhân và phu quân của phu nhân gánh được tội danh không bảo vệ được Kỳ Úc hầu, để ngài chết trong phủ đệ của các ngươi?”.

Mặt Đỗ Quyên từ trắng chuyển sang đỏ, lại từ đỏ biến thành xanh, cắn môi nói: “Lẽ nào các ngươi… Không thể! Tuyệt đối không thể”.

“Cái gì không thể? Là Di Phi không thể trốn khỏi cạm bẫy phu nhân giăng ra, hay là hắn không thể có mặt ở Yên quốc xa xôi?”. Ngữ điệu của Tiết Thái bỗng nhiên chậm lại: “Hay là việc ám sát Cơ Anh chẳng qua chỉ là một màn kịch hay mà phu nhân và tôn phu diễn cùng với nhau?”.

Đùng đùng, tiếng sấm bên ngoài cửa sổ vang lên ầm ầm.

Trong nhà im lặng như tờ.

Chỉ có Khương Trầm Ngư kinh ngạc nhìn Tiết Thái, rồi suy tư lại rối bời quay sang nhìn Đỗ Quyên, nhất thời không đoán ra nổi sự thật bên trong. Trong lúc nàng còn đang mờ mịt, Đỗ Quyên bật cười, đầu lông mày đang chau cũng giãn ra, khóe môi cong lên, vẻ mặt vốn dĩ thâm trầm trong chốc lát cũng trở nên hiền hòa khôn xiết, giống như vừa khôi phục lại khoảnh khắc lần đầu Khương Trầm Ngư gặp nàng ta – tĩnh lặng tao nhã như nước, linh hoạt thanh tú như ánh sáng.

Quả nhiên không gì có thể lừa được Băng Ly công tử…”.

Nàng ta vỗ tay.

Khương Trầm Ngư không kìm được hỏi: “Chuyện là thế nào?”.

Tiết Thái quay đầu nhìn nàng, trong ánh mắt mang theo một chút thương cảm, cuối cùng quay mặt đi nói: “Ta mệt rồi, không muốn nói”.

“Vẫn nên để ta nói cho nàng”. Phan Phương vẫn đứng bên cạnh nàng, y cất giọng: “Sau khi chúng ta đến dịch sở, cũng là lúc nàng cùng Đông Bích hầu đến chỗ này, Vệ thành chủ thẳng thắn giải thích tất cả mọi duyên cớ với hầu gia, sau khi suy nghĩ hầu gia quyết định án binh bất động. Vệ phu nhân là Gia Cát trong đám nữ nhân, một mặt vừa lập kế hỏa thiêu để đối phó Khương Trọng, một mặt sai người lén đào một đường hầm bí mật phía dưới nhà ở Đông viện, lại nhân lúc Vệ thành chủ dập lửa, để cho y xông vào biển lửa đưa hầu gia thoát ra ngoài theo đường hầm”.

Khương Trầm Ngư ngạc nhiên: “Cũng có nghĩa là…”.

Đỗ Quyên tiếp lời: “Ta đợi đã năm năm, cuối cùng đã đợi được cơ hội báo thù cho cha mẹ!”.

Rèm mi của Khương Trầm Ngư run rầy mãi không thôi, nàng nghĩ đến chân tướng.

Đỗ Quyên lạnh lùng cười nói: “Khương Trọng cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để lật đổ Cơ gia, nhưng bản thân ông ta không thể đích thân ra mặt, cho nên mới giao trọng trách này cho người ông ta tín nhiệm nhất, cũng là người có dòng máu thân thiết nhất với mình, con gái lớn của ông ta – chính là ta: Còn ta, điều binh khiển tướng dưới sự chỉ đạo của ông ta, đặt mai phục, mua dầu thiên hỏa, tìm một kẻ thế thân, ngồi đợi ngư ông đắc lợi. Ông ta tưởng rằng như thế là tuyệt đối kín kẽ, ha ha”.

Phan Phương nói: “Phu nhân thấu hiểu đại nghĩa, sau khi thương lượng với thành chủ, quyết định trở giáo giúp đỡ hầu gia. Cho nên đã diễn vở kịch lửa chảy đêm mưa, bây giờ có lẽ hầu gia cũng đã đến được nơi an toàn rồi”.

Đỗ Quyên bĩu môi: “Thấu hiểu đại nghĩa cái gì, ta chính là vì báo thù! Ta muốn Khương Trọng toi đời, đó mới là mục đích!”.

Khương Trầm Ngư nghe xong câu này, trong lòng trỗi dậy trăm ngàn cảm xúc. Không, nàng nghĩ, mình không buồn, nghe xong những điều này mình không hề buồn một chút nào, bởi vì mình đã tê liệt rồi, thực sự tê liệt hoàn toàn rồi…

Phan Phương nói tiếp: “Mà việc cơ mật này, vì thận trọng thành chủ chỉ nói cho ta, đến Tiết Thái cũng bị giấu giếm”.

Tiết Thái cao ngạo nói: “Hừ, không nói thì không nói. Tưởng ta thèm chắc? Cơ Anh vốn định dẫn ta cùng chạy trốn trong biển lửa, chẳng ngờ lại bị ta phát hiện ra huyền cơ trong mùi hương hoa, cho nên ngài lập tức thay đổi kế hoạch, mượn cớ đưa thư để tách ta ra, còn giả vờ giả vịt viết một trang giấy trắng để ta đưa cho Vệ Ngọc Hành”.

Thật hiếm khi Phan Phương mới đề lộ vẻ tươi cười: “Hầu gia nghĩ cho sự an toàn của ngươi”.

“Ngài đang thử ta mà thôi”. Tiết Thái hứ một tiếng: Tưởng một tờ giấy trắng là làm ta bó tay hết cách à? Ngài sai ta đi tìm Vệ Ngọc Hành, ta lại không tìm, mà hơn nữa lúc ấy Vệ Ngọc Hành cũng xông vào trong đám cháy rồi. Ta liền đi tìm Phan tướng quân, bụng nghĩ nếu Vệ Ngọc Hành có đi đời nhà ma, thì phải bắt mụ vợ của hắn đã rồi hẵng nói, chẳng ngờ lại biết được chân tướng sự việc ở chỗ Phan tướng quân”.

“Bây giờ, mật thám của Khương Trọng hẳn đã nhận được tin tức giả là kế hoạch thực hiện thuận lợi, chắc chắn sẽ lơi lỏng. Nhân cơ hội này ta đưa công tử bí mật về kinh gặp thánh thượng, vạch rõ từng tội trạng của ông ta, Khương Trọng sẽ không thể trốn thoát”. Có lẽ là vì sợ làm Khương Trầm Ngư kích động, khi nói những câu này, Phan Phương không nhìn vào mặt nàng: “Câu kết nước địch, ám sát trọng thần, hai tội danh này gộp thành tội chết”.

Đỗ Quyên nói: “Sở dĩ ta giữ ngươi ở đây, ngoài việc sợ ngươi nhất thời xúc động nghĩ cách cứu Cơ Anh rồi làm hỏng kế hoạch của chúng ta, thì nguyên nhân lớn nhất chính là để Khương Trọng an tâm, quân cờ quan trọng của ông ta phải được bình an vô sự”.

Khương Trầm Ngư lạnh nhạt đáp: “E là để phòng bất trắc giữ cho mình đường lùi mà thôi?”. Nàng nằm trong tay Đỗ Quyên, cho dù phụ thân biết được kế hoạch của bọn họ, thì cũng ném chuột sợ vỡ bình quý, nên sẽ dè chừng.

Quả nhiên, Đỗ Quyên nghe thế liền bật cười: “Ngươi muốn nghĩ như thế, thì tùy ngươi”.

“Vậy…” Khương Trầm Ngư bỗng nhiên cũng cười cười trong nụ cười hàm chứa một nỗi xót xa khó tả thành lời: “Các ngươi định xử trí ta thế nào đây?”.

Bọn Đỗ Quyên nghe xong đều đứng đờ cả người.

“Tỉ tỉ, chẳng nhẽ tỉ không biết, nếu phụ thân sa cơ thì cả Khương gia chúng ta còn có thể sống sao?”.

“Ta chỉ đối phó một mình Khương Trọng, ta đã cầu xin Kỳ Úc hầu một lời đảm bảo, cái chết của Khương Trọng sẽ không làm liên lụy đến người khác”. Đỗ Quyên nói một cách từ tốn: “Dẫu cho ngươi không tin ta, cũng nên tin… công tử của ngươi chứ?”.

Khương Trầm Ngư cười buồn bã: Công tử… của nàng.

Ha ha.

Giấc mộng lớn này, bây giờ cũng không thể không tỉnh rồi…

Công tử chưa bao giờ thuộc về nàng, không những không thuộc về nàng, mà còn là kẻ thù định mệnh của nàng. Cho đù là vì nguyên nhân gì, hình thức gì và kết cục gì.

Nghĩ đến ban đầu chỉ mong được sánh vai cùng chàng, mà nay mộng tan, hóa ra đến làm người xa lạ cũng không thể.

Tạm biệt.

Công tử, tạm biệt.

Khoảnh khắc này, ta, Khương Trầm Ngư, quyết biệt với chàng.

Rút cục cả đời này, không còn mặt mũi nào mà gặp, lo lắng thấp thỏm, không nỡ gặp…

Mãi mãi không gặp lại chàng.

Ngoài cửa sổ mưa vẫn rơi rào rào, mang đến cho người ta ảo giác rằng đêm nay sẽ kéo dài vô cùng vô tận, ánh sáng sẽ không đến, mưa gió sẽ không ngừng, mà hết thảy những chuyện vui sướng, những điều tốt đẹp, những thứ ấm áp, sẽ kết thúc từ đây.

Chính là: Đoạn trường chính hẳn đêm nay.

Tương tư một tấc tro tày mười phân.

Tiếp theo Tiết Thái và Đỗ Quyên còn nói gì đó nữa nhưng Khương Trầm Ngư chẳng nghe lọt vào tai một chữ nào. Nước mắt đã chảy cạn cùng câu chuyện thân thế mà Đỗ Quyên kể ban nãy, còn giờ phút này, cho dù đau 1òng hơn, nhưng nàng lại không rơi một giọt lệ nào.

Chỉ có tê dại, một sự tê dại sâu hun hút, giống như tơ bọc lấy cơ thể và trái tim của nàng, nàng nghĩ, như thế cũng tốt, bởi vì bọc kín rồi sẽ không còn bị thương, dẫu cho bên trong có thối nát đến đâu, máu chảy thành mủ đến thế nào đi nữa.

Lúc này, một tiếng bước chân gấp gáp từ xa đến gần, ngay sau đó cửa bị đập mạnh: “Phu nhân, không xong rồi! Phu nhân!”.

Đỗ Quyên cất cao giọng hỏi: “Chuyện gì?”.

Người ngoài cửa đáp: “Phu nhân, lửa đã tàn rồi. Nhưng, nhưng không những Kỳ Úc hầu, mà đến thành chủ cũng không thấy đâu nữa”.

Đỗ Quyên cả kinh: “Cái gì”.

Phan Phương lập tức giải huyệt đạo cho nàng ta, rồi dìu nàng ta đi ra mở cửa, bên ngơài là một người hầu trong Vệ phủ.

Đỗ Quyên hít sâu một hơi, trầm giọng nói: “Hít thở sâu, nói cho ta nghe”.

“Vâng, vâng”. Người đó quỳ xuống, run rẩy nói: “Là như thế này, ở bên này chúng thuộc hạ thấy ngọn lửa bốc cao không làm sao dập tắt được, cuối cùng một trù nương nghĩ ra cách dùng bột mì ướt ném vào, cuối cùng cũng dập được lửa. Nhưng tìm trong đó suốt một lúc lâu mà không thấy Kỳ Úc hầu và thành chủ đâu…”.

Đỗ Quyên trầm ngâm một lúc, nói: “Ta biết rồi. Ngươi cứ về trước đi; ta sẽ tới ngay”.

“Vâng!”. Người đó báo tin xong liền vội vã rời đi.

Phan Phương hỏi: “Chuyện là thế nào?”.

“Thời gian dập lửa sớm hơn so với dự tính, có lẽ là Vệ Ngọc Hành chưa kịp đưa hầu gia quay về”. Đỗ Quyên nhíu mày, nói: “Thận trọng trăm điều vẫn có sai sót, cứ tưởng trận hỏa hoạn này sẽ kéo dài tới tận giờ Mão mới ngừng”.

Tiết Thái bỗng phì cười một tiếng.

“Người cười gì?”.

“Không có gì, ta chợt nghĩ, trù nương của quý phủ thật là lợi hại. Nhưng thật khổ cho thành chủ đại nhân, nếu hắn tiễn công tử xong rồi quay về, không biết chừng lửa ở bên ngoài đã tắt, mở cánh cửa ngầm bên trong đường hầm nhảy vọt ra ngoài… chậc chậc…”. Tiết Thái còn chưa nói tiếp. Đỗ Quyên đã giậm chân nói: “Mất bò mới lo làm chuồng, bây giờ chúng ta đi sơ tán người bên đó, tuyệt đối không để người khác phát hiện ra đường hầm”.

Việc không thể chậm trễ, lập tức hành động.

Tiết Thái liếc Khương Trầm Ngư đang đứng im không nhúc nhích như một con rối gỗ, nói: Này, ngươi có đi được không?”.

Phan Phương nói: “Ta đỡ nàng”. Lời vừa mới dứt, Khương Trầm Ngư đột nhiên cử động.

Việc đầu tiên nàng làm chính là rút khăn tay lau khô nước mắt, sau đó gạt tay Phan Phương ra, lảo đảo đứng dậy, hít thật sâu, đứng thật vững, ưỡn thẳng sống lưng rồi bước qua bậu cửa.

Tuy nàng chẳng nói lấy một lời, nhưng đã dùng hành động để trả 1ời. Ánh mắt Tiết Thái nhìn nàng trong chốc lát bỗng sâu thẳm, tựa như thương xót, tựa như tìm tòi, lại như nỗi bi ai như có như không…

Đi qua hành lang gỗ dài hun hút, xuyên qua cánh cửa lớn, mùi khét cháy trong gió càng lúc càng nồng nặc. Khương Trầm Ngư nhìn thấy một khoảng đất trống đen trắng đan xen, màu đen là những cây gỗ cháy, màu trắng là bột mì, về cơ bản là cháy rụi chẳng còn thứ gì, những đoạn tường đứt gãy còn sót lại cũng đồ la liệt, cao không quá thắt lưng, vì thế chỉ nhìn qua là có thể thấy quả thực không có ai trong đó cả.

Ngược lại xung quanh có một đám đông bao vây, mồm năm miệng mười, bàn tán xôn xao, vô cùng náo nhiệt. Nhìn thấy Đỗ Quyên đến, lập tức im lặng. Điều đó cho thấy địa vị của vị phu nhân này trong phủ.

Đỗ Quyên còn chưa mở míệng, Tiết Thái đã xông vào giữa bãi đổ nát, đi một vòng, rồi trở về trước mặt Đỗ Quyên, một tay nắm chặt lấy tay áo nàng ta, giọng gấp gáp hỏi: “Sao, sao đến xương cốt cũng không có hả? Chủ nhân đâu? Chủ nhân đâu?”.

Đỗ Quyên sững người ra một lát, rồi thấy tay Tiết Thái luồn vào ống tay áo của nàng ta, viết lên lòng bàn tay nàng ta một chữ “khóc”. Nàng ta lập tức phản ứng lại ngay, làn môi run rẩy, thất thanh khóc lớn.

Nàng ta vừa khóc đám người dưới lại càng hoảng loạn, lũ lượt khuyên nhủ an ủi.

Tiết Thái lại viết thêm một chữ “ngất”.

Đỗ Quyên lập tức khó thở, ngã nhào ra phía sau. Không ngoài dự liệu, đã được Phan Phương đứng bên đỡ lấy.

“Phu nhân, phu nhân? phu nhân làm sao thế? Phu nhân…”. Mọi người nháo nhác hỗn loạn.

Tiết Thái cao giọng quát: “Các ngươi còn chờ gì nữa? Còn không mau đi mời đại phu?”.

Lập tức có một nhóm người quay lưng chạy đi, Tiết Thái dặn dò những người còn lại: “Các ngươi, xuống nấu canh gừng, mọi người ở đây đều ướt như chuột lột nửa đêm nay, đừng đề tất cả đổ bệnh ra đó. Các ngươi, đi truyền lệnh khóa cửa thành lại, trận hỏa hoạn này rất kỳ lạ, hiện tại lại vô cớ mất tích một số người, trước khi điều tra rõ chân tướng sự việc, không cho phép bất cứ người nào ra khỏi thành! Còn các ngươi nữa, đừng có đứng ngây ra đó, phải làm gì thì đi làm đi, đợi đại phu đến, thì mau chóng đi mời đại phu khám bệnh cho phu nhân…”. Hắn tuy là người ngoài tuổi còn nhỏ, nhưng lại là một nhân vật lớn được nhắc đến thường xuyên khắp đầu đường cuối ngõ ở Bích quốc. Lần này hắn đặt chân lên Hồi thành, mọi người đã được diện kiến người thực, đương nhiên cũng bàn luận về hắn từ lâu, nên tất cả đều nhận ra hắn. Vì thế lúc này hắn từ khách đổi thành chủ ra lệnh, mọi người đều cảm thấy không có gì là không thỏa đáng, lần lượt làm theo lời hắn, không lâu sau đã tản đi hết.

Tiết Thái hạ lệnh cho người còn lại cuối cùng đi khóa cửa Đông viện lại, không cho người khác vào trong, sau đó dẫn theo một đám người đưa Đỗ Quyên giả vờ ngất về Tây viện.

Còn Phan Phương lại nhân lúc đám đông hoảng loạn khiêng Đỗ Quyên về phòng, chớp mắt một cái bóng dáng đã biến mất.

Khương Trầm Ngư thu trọn tất cả sự việc trong tầm mắt, trong lòng rõ hơn bao giờ hết: Tiết Thái lợi dụng cơ hội Đỗ Quyên ngất xỉu, điều toàn bộ đám người lộn xộn đi chỗ khác, lại sai Phan Phương ở lại chỗ bí mật đợi Vệ Ngọc Hành quay về, như thế, cho dù phụ thân có nghi ngờ, muốn sai ám vệ đến điều tra thì cũng không thể làm được.

Diệu kế…

Khương Trầm Ngư dán mắt nhìn vào bóng lưng Tiết Thái, y phục và mái tóc của hắn đều ướt sng nước mưa, đính bết trên thân hình gầy guộc của hắn, rõ ràng chỉ là một đứa trẻ chưa đến tám tuổi, nhưng lại có trí tuệ như thế, thật không thể biết được, có phải là trời muốn diệt Khương gia, gặp một Cơ Anh chưa đủ, còn phải gặp thêm một Tiết Thái nữa hay không.

Phụ thân ơi, dẫu cho người tính toán chu toàn, nhưng sinh chẳng gặp thời thì vẫn là sinh chẳng gặp thời, yên có Chương Hoa, Nghi có Hách Dịch, mà Bích đã có Tiết Thái, chính là trời Bích quốc không thể là thiên hạ của người được…

Sai lầm trong phút chốc của năm đó, giữ lại hắn để kiềm chế Cơ Anh, kết quả hắn lại trở thành cánh tay mạnh nhất của Cơ Anh.

Ý trời! Ý trời! Ý trời…

Nhưng ý trời cũng có lúc không hoàn toàn giúp đỡ một phía.

Chuyện phát sinh một canh giờ sau đó đã chứng minh rất rõ điều này.

Khi sáu vị đại phu bị mời ra khỏi phòng vì không thể chuẩn đoán bệnh chứng và kê đơn cho thành chủ phu nhân, thì Tiết Thái luôn lặng lẽ trầm ngâm đứng cạnh cửa sổ đã không thể nhẫn nại thêm được nữa, quay người lại hỏi Đỗ Quyên: “Tại sao Vệ Ngọc Hành vẫn chưa quay về?”.

Đỗ Quyên cũng mặt mày ưu tư: “Không biết… Ta đã bàn với chàng, đưa hầu gia ra khỏi cửa, chàng phải lập tức quay về. Tính thời gian, nửa canh giờ trước đáng lẽ chàng đã phải trở về rồi. Lẽ nào có việc gì khiến chàng chậm trễ?”.

“Lúc này mà còn có gì khiến hắn chậm trễ, tức là kế hoạch đã thất bại”. Tiết Thái cắn môi nói: “Ngoài ngươi và Vệ Ngọc Hành ra, còn có ai biết chuyện đường hầm không? Có người tiết lộ…”.

Chưa đợi hắn nói hết, Đỗ Quyên liền lắc đầu: “Không thể nào”.

“Ngươi chắc chắn chứ?”.

“Ta chắc chắn”. Lời lẽ của Đỗ Quyên rất kiên quyết: “Có tất cả bốn người tham gia đào đường hầm, bọn họ đều không quen biết lẫn nhau, mỗi người chỉ phụ trách một đoạn trong đó bốn đoạn ghép lại mới có thể thông đến cửa ra. Hơn nữa, để bảo mật, ta đều diệt khẩu cả bốn người rồi”.

Tiết Thái nhìn nàng ta bằng ánh mắt đầy phức tạp, không rõ là khâm phục hay là cảm khái nữa, cuối cùng nói: “Ngươi nói vị trí đường hầm cho ta, ta và Phan tướng quân đi thăm dò thử xem sao”.

Đỗ Quyên do dự một lúc. Tiết Thái cười lạnh: “Sao? Ngươi không tin ta à?”.

Đỗ Quyên thở dài, nói: “Điều cốt yếu không phải là tin hay không tin? Nếu như hầu gia xảy ra bất trắc, chúng ta đều phải chết. Ngươi ghé tai vào đây”.

Tiết Thái bước lên phía trước, Đỗ Quyên thì thầm một lượt vào tai hắn, hắn gật gật đầu, rồi quay người nhảy lên, nhảy lên nhảy xuống mấy lần rồi cuối cũng biến mất bên ngoài cửa sổ.

Đỗ Quyên dỏng tai lắng nghe, cảm khái nói: “Thằng bé này trời sinh kỳ tài, tuổi còn nhỏ mà đã hiểu biếtà có võ công như thế nếu gặp thời vận, tất sẽ có thành tựu lớn”.

Khương Trầm Ngư vẫn ngồi im trên ghế bên cạnh, dường như không nghe thấy.

Đỗ Quyên thấy nàng không có phản ứng, bèn cười nói: Tiêu cực như thế, không giống ngươi”.

Khương Trầm Ngư hỏi vặn lại: “Ta nên như thế nào đây?”.

Đỗ Quyên từ tốn đáp: “Khương Trầm Ngư mà ta nghe kể, dám yêu dám hận, cầm lên được cũng bỏ xuống được, bất cứ lúc nào cũng đều tích cực, quả quyết sẽ không giậm chân tại chỗ, càng không bỏ mặc cho người khác sắp đặt”.

“Cho nên?”.

Cho nên: “nếu ta là ngươi, lúc này lại càng phải nghĩ cách tự cứu mình khi nguy cơ đại thế đã mất, làm sao để thương tổn và tổn thất giảm xuống thấp nhất.

Gương mặt luôn bình tĩnh như thể đã chết của Khương Trầm Ngư cuối cùng đã có thay đổi, nàng ngước mắt nhìn Đỗ Quyên không chớp, nói bằng một giọng như đang nói mơ: Nhưng ta không phải là ngươi. Cho nên, ta không cần tự cứu mình”.

Đỗ Quyên choáng váng.

Khương Trầm Ngư mỉm cười, nụ cười nhàn nhạt thoảng qua trên gương mặt xanh xao, chiếu sáng đường nét như tranh vẽ của nàng, rõ ràng là một vẻ đẹp tuyệt đỉnh, nhưng lại xen lẫn một nỗi bi ai khó tả thành lời: “Sự tình đã đến nước này sức của một người thực sự quá nhỏ nhoi”.

Đỗ Quyên đang định nói thì Trầm Ngư lại tiếp: “Ta không cần tự cứu mình, bởi vì ta không thể rõ thiện ác, phân đúng sai, từ bỏ gia tộc, hiểu đại nghĩa đi cứu công tử đang gặp cơn nguy nan, lại càng không thể trọn đạo hiếu vẹn toàn tình thân để giúp gia tộc vào giờ phút then chốt. Cho dù xét về phương diện nào, ta cũng không có cách nào tha thứ cho bản thân, đối mặt với bản thân. Cho nên, kẻ sống thừa thãi như ta, căn bản không cần thiết phải tồn tại”.

“Ngươi…”.

Khương Trầm Ngư lại nói: “Hơn nữa, sở dĩ ta không tự cứu mình, có lẽ cũng vì ta biết trong thời gian ngắn sẽ không xảy ra chuyện gì chăng”.

“Ý của ngươi là gì?”. Đầu lông mày của Đỗ Quyên nhíu lại.

“Trong sự việc lần này, ta thừa nhận phụ thân đã coi thường ngươi, đó là sai lầm của người. Thế nhưng, chẳng phải ngươi cũng coi thường người hay sao?”. Nói đến đây, khóe môi của Khương Trầm Ngư nổi lên nụ cười châm biếm: “Tuy ta ngu độn, nhưng một người có thể lừa dối những người thân sớm tối bên mình hơn mười năm trời, ta không tin, trước bất cứ kế hoạch nào, ông ta sẽ không chừa cho mình một con đường lùi”.

Sắc mặt Đỗ Quyên đột ngột biến đổi.

” Nói không chừng, tôn phậm trễ chưa quay về lại là một trong các đường lui của người…”. Âm kết thúc của chữ cuối cùng nặng nề kéo dài, một trận gió thổi ào tới khiến ánh nến trên bàn lay động, trong bóng tối, gương mặt Khương Trầm Ngư trắng bệch như tuyết, lạnh 1ẽo như sương.

Tiết Thái khoác chiếc áo tơi lên người theo Phan Phương tiến vào đường hầm.

Đường hầm vốn đĩ cũng không có gì đặc biệt, mặt đất rất bình thường, sàn gỗ đã bị thiêu cháy trong cơn hỏa hoạn, nhấc phiến đá còn sót lại lên, đó chính là lối vào. Nhưng sau khi vào bên trong, lại là một khoảng trời đất khác. Đúng như Đỗ Quyên đã nói, đường hầm từ Đông viện ra bên ngoài này do bốn người lần lượt đào và ghép lại mà thành, vì thế khi đi đến điểm cuối của mỗi đoạn đường, đều phát hiện con đường phía trước bị bít kín, mà huyền cơ lại nằm ở điểm nối các thông đạo với thông đạo, các điểm giao tiếp mỗi điểm mỗi khác. Có điểm ở phần đầu, có điểm ở phần glữa, lại có điểm phải nhảy lên trên, tách ngọn đèn phía trên đầu và vòm đá hình vòng cung ra, mới có thể phát hiện một lối vào khác nằm ở bên trên.

Nếu không phải đã được nói trước, e rằng lần mò tìm kiếm thì phải mất rất nhiều thời gian mới có thể tìm được lối ra.

Có thể cảm thấy rõ ràng đoạn thông đạo cuối cùng chếch xéo lên phía trên, mặt đất lầy lội, ướt lép nhép.

Phía cuối có một cánh cửa bằng đá.

Tiết Thái mở ô vuông ngầm ở bên cạnh cửa theo cách Đỗ Quyên chỉ, kéo cái móc bên trong ra gõ mấy cái, rơi nói với Phan Phương một câu “Nín thở” sau một tiếng “cạch”, cánh cửa đá từ từ mở ra, một dòng nước ồ ạt ào vào trong phút chốc.

May mà hai người đã có chuẩn bị trước, nín thở bơi lên phía trên, không lâu sau liền trồi lên khỏi mặt nước.

Hóa ra cửa ra của đường hầm lại là một chiếc giếng khơi.

Hai người men theo vách giếng trèo ra ngoài, bên ngoài là một khoảng sân nhỏ, trong sân đang phơi vô số tấm vải, nhìn có vẻ như đây là một phường nhuộm vải. Cửa nhà phía không xa không đóng kín, bị gió thổi một cái liền phát ra tiếng cọt cà cọt kẹt.

Phan Phương trầm giọng nói: “Ta vào trước”.

Tiết Thái gật gật đầu.

Phan Phương giơ ngón tay đếm đến ba, tung người một cái không một tiếng động chạy qua mở cánh cửa.

Ngọn đèn dầu bên trong cánh cửa chao đảo vì cơn gió đột ngột tạt vào, dưới bóng sáng mờ mờ tỏ tỏ, Tiết Thái đứng thẳng nhìn về phía trước, sắc mặt hơi bệch ra.

Máu.

Vết máu vương vãi khắp nơi.

Thi thể la liệt.

Nhìn cách ăn vận của những thi thế ấy, dường như là thợ làm công của phường dệt vải, mười bảy người, không một ai sống sót.

Phan Phương tiến lên kiểu vết thương của họ, kinh ngạc nói: “Những người này tuy ăn mặc như người làm công, nhưng gân cốt cứng cáp, võ công không tồi. Nhưng họ đều chết hết. Từ đó có thể thấy, kẻ giết họ có võ công cực cao”.

Tiết Thái không nói gì, đi đến. Trước một thi thể, vừa khám xét vừa nói: “Y phục tuy cũ kỹ, chí ít cũng phải giặt ba lần trở lên, nhưng đồ mặc bên trong vẫn còn mới, chất vải là vải gai Ô Long do huyện Thừa của Giang Đông sản xuất. Đồ bên trong và đồ bên ngoài không bị sờn cho lắm, có thể thấy họ mới thay quần áo chưa lâu”.

“Cũng có nghĩa là?”.

“Cũng có nghĩa là…”. Tiết Thái đứng dậy, nhìn những thi thể nằm trên mặt đất: “những người này không phải là người Vệ phu nhân sắp xếp đợi ở đây ứng cứu, mà đã bị người khác đánh tráo”.

“Ý ngươi nói họ là người của Khương Trọng phái đến đợi ở đây mai phục hầu gia?”.

“Nếu là người của Vệ phu nhân, nàng ta đã chọn phường nhuộm vải này làm cửa ra, chắc chắn không phải là chuyện trong một hai ngày, để bưng bít tai mắt thiên hạ, cho dù nàng ta có đổi người thì cũng không thể đổi toàn bộ trong một ngày, hơn nữa bên ngoài là phố chợ, nơi này ban ngày vẫn phải mở cửa làm ăn buôn bán. Nếu đột nhiên thay người làm mới, hàng xóm tất sẽ sinh nghi. Mà những người do nàng ta sắp đặt cũng không thể đồng loạt cả mười bảy người thay áo lót trong cùng một ngày. Cho nên, căn cứ vào hai điểm này ta đoán rằng, họ tuyệt đối không phải người của Vệ phu nhân”.

Phan Phương gật gù, nói: “Không sai. Có thể tắm rửa thay áo trước khi hành động, để gột bỏ tất cả manh mối có thể bị truy tìm trên người, chỉ có một loại người – sát thủ. Mà theo cách nói của triều đình Bích quốc, họ còn có tên gọi là – ám vệ”.

Tiết Thái đẩy một cánh cửa khác trong phòng bước vào bên trong, bên trong là phòng ngủ, nhìn như không có gì khác lạ nhưng mùi máu tanh nồng nặc, Tiết Thái khụt khịt mũi, lần theo mùi máu đi đến bên cạnh giường, kéo bức màn ra – quả nhiên lại có một đống thi thể chất chồng nằm trên giường, mà hết thảy đều bị lột sạch lớp áo ngoài.

Phan Phương lại kiểm tra vết thương của họ, nói: “Đây mới là những người làm thực sự. Bọn họ đều không biết võ công. Xem ra bọn họ bị những kẻ ngoài kia giết. Chúng ta có thể đưa ra một giả thiết như thế này không? Vệ thành chủ đưa Hầu gia từ mật đạo ra ngoài thì phát hiện ra những người thợ làm này đã bị bọn ám vệ đánh tráo, cho nên Vệ thành chủ mới giết những tên ám vệ này, hộ tống Hầu gia rời khỏi đây, cho nên mới quay về dịch sở muộn?”.

Tiết Thái “ồ” một tiếng: “Xem ra có vẻ là như vậy… Đỗ Quyên làm việc cẩn thận, nơi này đã là cửa ra, đương nhiên càng bình thường càng tốt. Nếu là ta, ta cũng sẽ tuyển người làm thực sự”. Nói đến đây, đầu mày của hắn chau lại, lầm bầm nói: “Kỳ lạ quá…”.

“Cái gì kỳ lạ…?”.

“Tướng quân đếm đi”. Tiết Thái chỉ vào đống thi thể.

Phan Phương đếm đi đếm lại, tổng cộng trên giường có mười tám thi thể.

“Tại sao trong này có mười tám xác chết, mà ngoài kia chỉ có mười bảy?

Nếu có tất cả mười bảy tên ám vệ đến, thì không có lý gì chúng lại cởi hết quần áo trên mười tám người thợ làm này. Nếu chúng đã cởi hết mười tám bộ quần áo thì điều đó cho thấy có mười tám tên ám vệ cần hóa trang. Vậy tên ám vệ còn thiếu đã đi đâu mất?”.

“Có lý” Phan Phương gật đầu tán đồng, y trầm mặc nói: ” Lẽ nào tên ám vệ đó đã biến mất cùng Hầu gia? Cũng có nghĩa là, chính hắn đã giết mười bảy người ngoài kia”.

“Một lúc giết chết mười bảy người, không phải là điều mà một người võ công bình thường có thể làm được… “.

“Đúng vậy, lúc đầu ta vốn nghĩ rằng mười bảy tên ám vệ là do Vệ Ngọc Hành giết chết, bởi dù gì hắn cũng là một võ trạng nguyên, cao thủ đệ nhất, nhưng giờ xem ra sự việc lại cơ hồ không giản đơn như vậy…”.

Tiết Thái đi vài bước, ánh mắt bỗng bị thứ gì đó thu hút, hắn thất thanh kêu “á” một tiếng.

“Sao thế?”.

Tiết Thái chạy đến bên cửa sổ, mép cửa có chỗ bị nứt, vì thế ở phía góc có ngoắc lại một miếng vải, hắn lấy miếng vải xuống, thở dài nói: “Là của chủ nhân”.

Đoạn Thiên La, chỉ làm tuyến, đường thêu tinh xảo độc nhất vô nhị – thiên hạ bây giờ chỉ có Cơ Anh mới có thể mặc, xứng để mặc và dám mặc chiếc áo trắng này.

Trên góc viền của miếng vải còn dính vài vết máu. Dẫu không thể xác định là máu của Cơ Anh hay máu của người khác nhưng phát hiện này đã đủ khiến người ta kinh hoảng.

Tiết Thái cầm miếng vải, rồi lại lục soát tứ phía, cuối cùng hắn đã tìm ra được một thứ khác nằm im lìm trong một góc tường tăm tối nhất. Nếu như miếng vải khiến hắn chỉ mới chau mày, thì bây giờ nhìn thấy vật này hắn đã hoàn toàn hoàn toàn kinh sợ…

Đó là chiếc bản chỉ khâu bằng da thuộc.

Chỗ mép đã bị sờn lông, màu sắc nhạt nhòa nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra vốn dĩ nó có màu đỏ.

Nếu không phải là Tiết Thái tìm kỹ, mắt lại tinh tường, thì thật khó có thể phát hiện có một vật như thế nằm trên mặt đất.

Phan Phương tò mò hỏi: “Đây cũng là đồ vật của hầu gia?”.

“Đâu chỉ có vậy” Tiết Thái lẩm nhẩm: “Ta có thể vạn lần khẳng định, chủ nhân thà vứt bỏ mọi thứ cũng không nỡ vứt bỏ chiếc bản chỉ này “.

“Nó quan trọng đến thế à?”. Phan Phương cả kinh: “Vậy…”.

“Chiếc bản chỉ xuất hiện ở đây, có nghĩa là…”. Tiết Thái quay đầu, gương mặt nhỏ bé đến lúc này mới đầu tiên để lộ sự hoảng loạn – sự hoảng loạn bình thường mà một đứa trẻ tám tuổi nên có: “Chủ nhân chết rồi. Phải làm sao?

Phan tướng quân, chúng ta… phải làm sao?”.

Cửa Tây viện khẽ khàng đẩy ra.

Một đôi giày thêu hoa màu đỏ bước vào một cách không gấp cũng không chậm, trong tay bưng một chiếc khay, trên khay có một bát canh đặc, màu sắc xanh đen, rất kỳ lạ.

Đỗ Quyên nghe thấy tiếng động liền cau mày, cất tiếng hỏi: “Là ai? Lẽ nào ta chưa hạ lệnh không được sự cho phép không được tự ý xông vào sao?”.

Người đó cười khẽ: “Là ta đây, cũng không được vào sao?”.

“Dì Mai?”. Sau cơn kinh ngạc, Đỗ Quyên lại càng nghi ngờ: “Sao dì lại tới đây?”. Không phải bà ta bị bọn Phan Phương Tiết Thái bắt giữ rồi sao?

“À dì Mai day day cổ của mình, nói: “Cú đánh đó của Phan tướng quân cũng thật hiểm, ta nằm trên đất hai canh giờ mà vẫn không đứng dậy nổi. Nếu không phải có ngươi tới cứu, lão nô có lẽ cũng chết trong phòng chứa củi rồi”.

Não của Đỗ Quyên ầm một tiếng, nhận ra có gì đó không đúng.

Dì Mai là tâm phúc của nàng ta.

Là người nàng ta đã chọn ra từ trong đám tử tù khi đến Hồi thành năm đầu tiên.

Dì Mai tên thật là Thẩm Mai, vốn là thất phu nhân của đầu lĩnh sơn trại tội ác chồng chất Nhất Phách Châu, sau khi Nhất Phách Châu bị tống vào ngục, bà ta cũng bị khép vào tội chết. Đỗ Quyên sau khi chứng thực hoàn cảnh thân phận của Thẩm Mai mới cất nhắc bà ta làm nô bộc thân thiết của mình. Mà hơn bốn năm qua, người này cũng thực sự đáng tin cậy, trong tối lẫn ngoài sáng đều giúp đỡ nàng ta không ít việc.

Nhưng Đỗ Quyên bản tính thận trọng kín đáo, tuy là tâm phúc, nhưng việc của Cơ Anh lần này cũng chưa từng nói rõ với bà ta. Khi Đông viện bị cháy, chỉ là giả vờ giả vịt sai dì Mai đi cản trở Vệ Ngọc Hành. Nghe nói bà ta bị Phan Phương đánh ngã, trong lòng còn thở phào nhẹ nhõm, không ngờ bây giờ bà ta lại xuất hiện, hơn nữa sự xuất hiện này lại còn kỳ lạ như thế. Lẽ nào, cũng có chuyện gì xảy ra với bà ta rồi sao?

Đỗ Quyên tuy lòng đầy nghi ngờ nhưng vẫn kìm chế, lạnh nhạt nói: “Đêm nay trong phủ tình hình rối như canh hẹ, ta đúng là quên mất dì. Trở về là tốt rồi. Dì mang cái gì vào thế? Là thuốc à? “.

Dì Mai cười: “Mũi của phu nhân quả nhiên vẫn thính như xưa. Không sai, lão nô nghe nói phu nhân mắc bệnh nặng, cho nên mang tới một phương thuốc lành”.

Bà ta càng lại gần, mùi thuốc càng nồng, Đỗ Quyên cụp mi, gằn giọng nói: “Dì Mai khách sáo quá. Nhưng ta cảm thấy khỏe hơn rồi, bát thuốc này không cần dùng đâu”.

“Ấy phu nhân nói gì thế? Càng là lúc sắp khỏi bệnh càng nên uống trọng dược, để bệnh bị đầy hoàn toàn ra khỏi người. Phuxem, lão nô đã mang tới rồi, tốt xấu gì phu nhân cũng uống một ít đi”. Dì Mai nói đoạn, nhẹ nhàng ấn vào lưng Đỗ Quyên đưa bát thuốc đến bên môi nàng ta.

Rốt cuộc Đỗ Quyên không thể giả vờ không có chuyện gì nữa, giãy giụa quát: “To gant Mụ dám ép ta uống thuốc?”.

Dì Mai không hề nhúc nhích, trên mặt nở một nụ cười mỉm ngọt ngào thân thiết, nói: phu nhân bị bệnh rồi, có bệnh thì phải uống thuốc. Ngoan, đừng sợ, thuốc này rất ngọt, không đắng tẹo nào đâu…”.

“Buông ra! Buông ta ra ngay… khụ… mụ! Mụ dám… khụ khụ… mụ…”. Đỗ Quyên tuy giãy giụa rất mạnh, nhưng vẫn bị đổ vào miệng không ít thuốc, sự phản kháng của nàng ta dần dần biến thành tuyệt vọng: “Tại, tại sao? Khụ… tại sao… Dì Mai đổ xong chỗ thuốc đó, buông tay ra, cười híp mắt nói: “Phu nhân không phải sợ hãi thế. Không phải là thuốc độc”.

Nhưng… nhưng ta… Trời ơi!”. Đỗ Quyên thét lên một tiếng, lăn từ trên giường xuống, cả thân hình bắt đầu không ngừng co quắp, thảm thiết kêu gào: “Là thứ gì? Đây là thứ gì?”.

“Đây chẳng qua chỉ là một chút hình phạt ban cho ngươi mà thôi”. Người nói câu này không phải là dì Mai.

Khương Trầm Ngư vẫn luôn đứng bên cạnh lạnh lùng quan sát bấy giờ quay đầu lại nhìn về phía phát ra giọng nói, thì thấy Vệ Ngọc Hành bên ngoài cửa.

Gió tối hiu hiu thổi, ánh sáng và bóng tối loang lổ, hắn đứng ở cửa ra vào, áo bay phấp phới, mơ hồ như tiên khách trên trời.

Lúc này, hắn lại xuất hiện bằng cách đó, thực sự kỳ dị đến cực điểm. Nhưng Khương Trầm Ngư giờ đã không còn kinh ngạc, hay nói cách khác, thiên