Chương 1 LẬP CHÍ PHẤN ĐẤU-VĂN VÕ TOÀN TÀI
Quyền, tiền, gái. Đời ta chỉ cần những thứ ấy, ta nhất định phải có những thứ ấy.
- Hòa Thân nắm bắt mọi tin tức trong triều, phân tích diễn giải đạo lý ẩn chứa trong đó, và những thầm kín trong nội tâm Hoàng đế...
Quyền, tiền, gái. Đời ta chỉ cần những thứ ấy, ta nhất định phải có những thứ ấy.
Hòa Thân đứng bên bờ kênh Vận Hà, tựa hồ mơ màng nhưng không để sót một vật gì lọt khỏi đôi mắt. Đôi mắt như bầu trời tháng giêng quang đãng, trong suốt, sâu thẳm. Ánh nắng ban mai chiếu sáng khuôn mặt non choẹt, thân hình cao lớn vạm vỡ của Hòa Thân.
Năm ấy, năm Càn Long thứ 27, Hoàng Lịch cùng Hoàng Thái hậu tuần du phương Nam lần thứ ba tại vùng Giang Triết, dừng chân tại Vận Hà. Hòa Thân và người nhà là Lưu Toàn từ Bắc Kinh đi xe đến bờ sông Vận Hà, phía nam sông Hoàng Hà.
Đã sống ở trên đời, phải hưởng thụ cuộc sống. Phải có quyền, có tiền, có gái, không thế thì sao gọi là sống!
Lúc này, Hòa Thân vừa tròn mười ba tuổi. Hai bờ sông cờ xí rợp trời, những chiếc thuyền màu sắc sặc sỡ trôi nổi bồng bềnh trên mặt nước, có cả nghi trượng tùy tùng, phi tần cung nữ, văn võ bá quan... Tất cả những cái đó khiến máu nóng trong người Hòa Thân sục sôi tâm thần xáo động.
Hòa Thân đứng lặng lẽ, ánh nắng mạ thêm một lớp đỏ chói trên khuôn mặt khôi ngô anh tuấn.
Cạnh đó, một ông lão đứng trầm lặng, chăm chú nhìn Hòa Thân. Một giờ rưỡi trôi qua, Hòa Thân quay mình bước đi, ông lão cũng rời khỏi chỗ.
Ông lão là người quản gia tâm phúc của Anh Liêm. Anh Liêm là Tổng đốc Trực Lệ đương nhiệm, nguyên đại thần Phủ nội vụ, Thị lang bộ Hộ, Thượng thư bộ Hình, Đô đốc Chánh Hoàng kỳ Mãn Châu, Hiệp biện đại học sĩ, sau làm đến Đông các đại học sĩ kiêm Thái tử thái bảo và trở thành Tể tướng.
Anh Liêm cho người tâm phúc của mình theo dõi quan sát Hòa Thân đã từ lâu. Ông có một cháu gái, khi mới hai tuổi, cha mẹ đã qua đời. Từ đó Anh Liêm vừa là ông vừa là cha mẹ của cô cháu, hết sức thương yêu cô cháu, xem cô cháu như viên ngọc. Đến nay cô cháu đã khôn lớn, là người ông, nhất định phải tìm cho cô cháu một đức lang quân vừa ý. Hơn nữa, cô cháu rất nết na dịu hiền, xinh đẹp, người ông tất phải tìm cho cô cháu một người chồng, phẩm hạnh trung chính, tài mạo song toàn. Một dịp tình cờ, Anh Liêm gặp Hòa Thân.
Một hôm, ngồi xe về dinh, ông bỗng nhìn thấy một con chó dữ của một gia đình bên lề đường đang chồm cắn một gã thanh niên. Người chủ nhà nọ không xua đuổi chó mà cười ha hả:
- Cậu đi vay tiền, không phải là kẻ cắp, sao chó lại cắn cậu?
- Nếu tôi ăn mặc sang trọng, vàng bạc đầy người, e rằng con chó kia lại cười với tôi - Gã thanh niên đáp.
Anh Liêm nghĩ bụng: gã thanh niên này quả nhanh trí hơn người. Khi nhìn thấy diện mạo anh ta, ông thốt lên: “Trong thiên hạ lại có trang nam nhi tuấn tú như thế này ư!” Đôi mắt long lanh, đôi mày thon dài, đôi má ửng hồng, đặc biệt, nốt ruồi đỏ tươi trên trán như hoa lựu trong mưa. Anh Liêm càng nhìn càng mến, rồi bảo phu xe, theo chàng trai đến thẳng nhà.
Anh Liêm bảo người nhà theo dõi quan sát mọi cử chỉ hành động của người thanh niên, và tự mình điều tra tường tận.
Gã thanh niên đó là Hòa Thân, sinh năm Càn Long thứ 15 (1750), họ là Nữu-hộ-lộc, một trong tám họ lớn ở Mãn Châu.
Chàng trai nguyên tên là Thiên Bảo, tự là Chí Trai, người Mãn chánh Hồng kỳ nhị giáp lạt, ở tại ngõ Lư Nhục trong Tây Trực Môn. Ông tổ năm đời của chàng là Ni-nha-ha-nạp Ba-đồ-lỗ, lập nhiều chiến công, truyền lại cho con cháu tước vị Đô úy khinh xa tam đẳng. Phụ thân của chàng trai là Thường Bảo kế tục tước vị này, chú họ của Thường Bảo là A-cáp-đốn-sắc đã anh dũng hi sinh khi theo Hoàng đế Khang Hy đi đánh Duy Cát Nhĩ, được truy tặng quân công. Thường Bảo được tặng Vân kỵ úy nhất đẳng. Đến thời Càn Long, kiêm nhiệm Đô thống Phúc Kiến. Do vậy Hòa Thân vẫn là con cháu nhà tướng.
Thường Bảo trung chính hiền hòa, làm quan thanh liêm, rất ít ở kinh đô, thường đi chinh chiến và đóng quân ở nơi biên ải xa xôi, vì nước nên rất ít để ý đến việc nhà, do vậy trong nhà không có của cải bao nhiêu. Năm Càn Long thứ 25, Thường Bảo bệnh nặng mất tại Phúc Kiến, gia cảnh Hòa Thân rơi vào vòng quẫn bách.
Hòa Thân có người em trai là Hòa Lâm, nhỏ hơn Hòa Thân ba tuổi, chào đời chẳng bao lâu thì cha mẹ đều qua đời, người dì ghẻ lại vô cùng tàn ác. Hai anh em Hòa Thân như cánh nhạn bơ vơ, giãi gió dầm mưa, tình cảnh thật thê thảm. Tuy vậy hai anh em vẫn hòa thuận, dựa nhau để sống, lại có Lưu Toàn là người nhà bôn ba xoay xở lo liệu, nên hai anh em dẫu như măng tre trên đồi hoang chịu đủ gió mưa bão táp, vẫn lớn lên khỏe mạnh, và hiện đang theo học ở trường Hàm An Cung Quan Học.
Vừa về đến dinh của Anh Liêm, ông lão báo ngay với Anh Liêm những điều mắt thấy tai nghe bên bờ kênh Vận Hà. Anh Liêm mừng thầm.
Hòa Thân rời khỏi bờ sông, người nhà Lưu Toàn đợi ở phía xa, thấy Hòa Thân đi đến, vội bước lên hỏi:
- Cậu ấm đi Bảo Định chứ?
- Mấy ngày nữa bắt đầu học, học phí đã không cách nào xoay xở, nếu không đi nhanh, để lỡ việc học hành thì sao đành.
Lưu Toàn vội đỡ Hòa Thân lên xe, chiếc roi vút lên, xe cấp tốc chạy về hướng Bảo Định.
Hàm An Cung Quan Học không cần nộp học phí, nhưng tiền chi dùng cho mọi sinh hoạt khác làm sao thiếu được? “Học phí” mà Hòa Thân nói thực ra là tiền cơm áo.
Mười lăm khoảnh (đơn vị đo lường bằng 100 mẫu Trung Quốc, ND) đất ở Bảo Định là đất do vua phong cho ông nội Hòa Thân, giao cho trang chủ Lại Ngũ quản lý. Thường Bảo quanh năm ở ngoài biên ải xa xôi, Lại Ngũ nộp tô không đủ, Thường Bảo cũng chẳng truy hỏi. Sau khi Thường Bảo qua đời, mười lăm khoảnh đất ấy vẫn do Lại Ngũ quản, tiền tô tức nộp cho gia đình Hòa Thân càng ít hơn.
Thấy Hòa Thân đến, Lại Ngũ hiểu ý, nhưng vẫn tiếp đón chu đáo, rượu, đồ nhắm bày đầy bàn, hỏi han Hòa Thân và Lưu Toàn. Hòa Thân nói:
- Trang chủ không nên khách sáo, hôm nay tôi đến đây, muốn hỏi tiền tô, vì học phí của tôi và cậu em Hòa Lâm không biết dựa vào đâu, mười mấy nhân khẩu trong gia đình ăn mặc thiếu thốn. Nghĩ đến ông cũng lao tâm phí sức vì mười lăm khoảnh đất, thật là tri ân báo đức, cho nên hôm nay đến đây xin trang chủ lo liệu cho khoản tiền tô, mong trang chủ thu xếp thỏa đáng.
Lại Ngũ hỏi:
- Cần bao nhiêu?
- Một trăm lạng bạc - Hòa Thân đáp.
- Cậu chủ chưa rõ, mấy năm qua không lũ lụt thì hạn hán, có thu hoạch được gì đâu! Hơn nữa, lại thêm chuyện Đức Vạn Tuế Càn Long nam tuần, nhà nhà phải nộp thuế, quyên tiền nhiều hơn trước, thu nhập của mười lăm khoảnh đất đó được là bao? Nếu cậu cần tám, mười lạng, tôi có thể vét nồi vét chảo gom góp lo đủ cho cậu, còn một trăm lạng bạc thì bảo tôi đào đâu ra?
- Mỗi năm trang chủ nộp cho nhà tôi vừa tiền bạc và ngũ cốc chỉ được sáu bảy phần mười, còn năm nay chỉ nộp có ba bốn phần mười, chúng tôi không truy cứu bây giờ anh em tôi cần đến, lẽ nào bác thoái thác?
Không ngờ Lại Ngũ vụt đứng dậy:
- Cậu này, cậu này, cậu bảo tôi lấp liếm, tôi dấu diếm cậu ư? Hạn hán, lụt lội, thu hoạch kém, điền hộ lại dối trá, bảo tôi làm sao nộp được số bạc lớn như vậy? Nếu anh em cậu cần tiền bạc gấp, sao không bán quách khoảnh đất ấy đi, mà lại bảo tôi nộp tiền?
Lưu Toàn đâu có nhịn, nhảy cẫng lên quát:
- Mẹ mày, đồ lòng lang dạ sói, nhớ năm nào nhà ngươi còn là kẻ nghèo xơ nghèo xác lẽo đẽo xin xỏ cụ nhà trước đây, bây giờ nhà ngươi nảy ra thói dối trá, bạc tình bạc nghĩa thế này.
- Mày là tên tôi tớ chó má, chó dựa thế người, nói ta lừa dối, vậy chứng cớ đâu? - Nói xong, Lại Ngũ liền ra lệnh: - Tiễn khách!
Ngay lập tức, hai người tiến vào khiêng bàn mang đi.
Hòa Thân thấy thế, đưa đơn kiện đến Bảo Định. Bảo Định là cơ quan đầu não tỉnh, đơn kiện chuyển đến phủ Trực Lệ.
Không ngờ tri phủ Trực Lệ trách mắng thậm tệ Hòa Thân, nói rằng Hòa Thân vòi vĩnh tiền bạc, cưỡng bức trang chủ, lại còn gây rối làng xóm, nhẹ thì phạt trượng, nặng thì ngồi tù.
Lưu Toàn tức đến phát điên, nhưng nhìn thấy Hòa Thân vẫn lạnh lùng, không một lời phân trần, cũng không chút chau mày nhăn mặt. Ngược lại còn gật đầu chào viên tri phủ, quay người đi ra. Lưu Toàn lẽo đẽo theo sau, giật mình nghe Hòa Thân nói như sau:
- Lưu Toàn, về gấp, bán đất. Cho Lại Ngũ nhẹ gánh.
Đất nước miền Bắc vào tháng giêng, gió rét buốt tận xương. Chiếc xe ngựa chạy trên thảo nguyên mênh mông, bánh xe như lăn tròn quay tít trong tâm trí của Hòa Thân…
Gà vừa cất tiếng gáy, Hòa Thân đã xách kiếm ra vườn luyện tập, đợi khi trời hửng sáng, ngồi sánh đôi cùng em Hòa Lâm oang oang đọc sách.
Khi màn đêm buông xuống, chòm sao tam tinh di chuyển, hai anh em thắp đèn đọc sách, không hề nghỉ ngơi. Hòa Thân khắc khổ phấn đấu, lại có tài đọc qua là nhớ, ở trường không chút kiêu ngạo khi được thầy khen ngợi.
Lúc mười tuổi, năm Càn Long thứ 24, Hòa Thân và em trai Hòa Lâm được chọn vào Hàm An Cung Quan Học. Đây là phần thưởng lớn nhất đối với hai anh em sau mấy năm gian khổ cần cù. Hàm An Cung Quan Học là trường học tốt nhất ở kinh thành. Điều kiện đầu tiên để vào trường này phải là những người khôi ngô tuấn tú con em dòng dõi Bát Kỳ hoặc con em Phủ nội vụ, tuyển chọn khe khắt về mặt học hành, số lượng được chọn không quá tám mươi người, thà thiếu không dư. Học sinh học từ sáng sớm đến chiều tối mới được về. Gặp khi nắng mưa gió rét, nếu giáo viên và học sinh có người yêu cầu thì được phép ở lại trường. Phụ trách trường có đại thần quản lý, đại thần hiệp lý sự vụ Tổng tài Mãn - Hán. Tổng tài phải là hàn lâm, giáo viên phần lớn là hàn lâm, giáo viên không phải là hàn lâm thì rất ít, nhưng phải là người học giỏi có tiếng tăm, trải qua sát hạch mới có thể đảm đương nhiệm vụ.
Chí hướng đầu tiên trong cuộc đời Hòa Thân là được vào học ở trường này, vào đây như đi vào bể cả tri thức, ở đây Hòa Thân bơi lội không biết mệt mỏi. Trường không chỉ dạy các sách Kinh, Sử, Tử, Tập mà còn dạy các ngôn ngữ Mãn, Hán, Mông, Tạng,... đồng thời dạy cưỡi ngựa bắn cung, sử dụng binh khí.
Hòa Thân tư chất thông minh, đọc qua là nhớ. Quả thực khiến các vị hàn lâm kinh ngạc, họ khen ngợi tài năng của Hòa Thân nhưng không tôn trọng nhân cách của Hòa Thân.
Một lần, một bức tranh bay rơi trước mặt vị giáo viên hàn lâm. Tranh vẽ một con bọ ngựa cổ dài bụng phệ, mặt mày trông giống vị hàn lâm nọ. Vị hàn lâm nọ nhảy cẫng lên hét to:
- Ai vẽ đấy?
- Hòa Thân vẽ đấy. Cậu con của vị Tổng quản Phủ nội vụ nói.
Không đợi Hòa Thân phân trần, mười mấy roi vút lên bàn tay Hòa Thân. Hòa Thân biết rằng, dù cho vị hàn lâm nọ có biết bức tranh ấy là do cậu con của vị Tổng quản Phủ nội vụ vẽ đi nữa thì ông ta vẫn điên cuồng dồn nỗi bực tức lên đôi bàn tay của Hòa Thân. Hòa Thân không thể cãi lại vị giáo viên, bởi vì làm như vậy chỉ chuốc thêm sự chửi mắng đánh đập tàn nhẫn hơn, cũng không dám phê phán lỗi của cậu con vị Tổng quản phủ nội vụ. Chuyện như vậy, Hòa Thân gặp phải rất nhiều...
Ở nhà người cậu, bị lạnh nhạt, ở nhà người anh họ, bị khinh rẻ, bạn cũ của phụ thân thì xua chó đuổi đi. Họ xem mình như ôn dịch, chỉ lo trốn tránh không kịp.
Quyền, tiền, gái, đời ta chỉ cần những thứ ấy, ta nhất định phải có những thứ ấy. Bụng dạ Hòa Thân cứ nhai đi nhai lại mấy từ ấy. Trong ba thứ đó, quan trọng nhất là “quyền”, có quyền khắc có tiền, có gái, và có tất cả. Ta phải hưởng thụ, phải hưởng thụ cái thèm muốn, cái nịnh bợ, cái khuất phục của người khác; ta phải hưởng thụ những đình đài lầu các, xe ngựa thuyền bè, ngọc ngà châu báu, áo quấn gấm vóc; ta phải hưởng thụ quốc sách thiên hương. Có quyền khắc có tất cả những thứ ấy, mà muốn có quyền, trong xã hội ngày nay, thiên hạ là thiên hạ của một người, phủ quan là phủ quan của một người, nha môn là nha môn của một người, chỉ cần làm vui lòng “một người” đó là được rồi. Người đó là chân mạng thiên tử, người của thiên hạ, không một ai dám chống lại. Người đó nói anh vô tội là vô tội, dẫu tội to tầy trời, người đó nói anh có tội là có tội dẫu anh lòng dạ trong trắng. Lời nói của người đó là thánh chỉ, là khuôn vàng thước ngọc. Vinh nhục tất nhiên đều ở chỗ quân vương, vậy phải tìm cách gần gũi người đó, làm vừa lòng người đó, nhưng làm vừa lòng, nói vậy thôi đâu có dễ. “Kiếm sắc do mài dũa dày công. Mai thơm nhờ rét đậm trời đông”. Từ nay về sau, ta phải chăm chỉ hơn, học cho giỏi, để ý đến tất cả những gì Hoàng thượng làm, để ý đến những việc lớn trong thiên hạ, người ta thường nói: “Việc đời sáng tỏ do học vấn, tình người sâu đậm tức văn chương”. Ta phải học tất cả để ý tất cả…
Dòng suy nghĩ của Hòa Thân bay lượn trên mảnh đất mênh mông mờ ảo, bồng bềnh trên chín tầng mây dày đặc...
Vừa ngẩng đầu lên, đã đến ngõ Lư nhục, những cọng cỏ khô trên lầu cổng đang đón chàng, chiếc cổng tróc sơn đang đón chàng...
Hàm An Cung Quan Học thỉnh thoảng xuất hiện bóng dáng của Anh Liêm. Anh Liêm hỏi thăm kỹ về chương trình dạy của trường và tình hình học tập của học sinh, hết sức quan tâm đến từng học sinh, từ việc đi ở thường ngày đến tập quán cá nhân, từ tư chất bẩm sinh đến thành tích cá nhân, tìm hiểu tỉ mỉ về mọi mặt. Anh Liêm là vị đại thần thanh liêm chính trực được Hoàng đế trọng dụng, được cả triều đình và dân chúng khen ngợi. Các vị hàn lâm thấy ông đã bận rộn việc công còn thu xếp thời gian thỉnh thoảng đến thăm trường, hết sức quan tâm đến trường, nên vô cùng cảm phục. Hai năm sau, họ mới bừng tỉnh, kinh ngạc về tầm nhìn của Anh Liêm về lòng nhẫn nại của Anh Liêm, và mười năm sau, tất cả các vị hàn lâm của trường đều bị khuất phục bởi con mắt tinh đời của Anh Liêm.
Hòa Thân bán đất, gom đủ tiền sinh hoạt phí trong hai năm, bị người dì ghẻ mắng cho một trận té tát, nói chàng là đứa con mất dạy táng tận lương tâm... Từ đó Hòa Thân tiết kiệm việc chi tiêu gia đình, hai anh em chuyên cần phấn đấu hơn hẳn trước kia.
Hòa Thân ngoài việc học các môn học trong trường Hàm An Cung Quan Học ra, còn tự mình học thêm hai môn: Sưu tập các bài thơ văn của Càn Long, cố công bát chước chữ viết của Càn Long. Hòa Thân vốn có tài đọc qua là nhớ, thuộc làu tất cả thơ văn do Càn Long làm ra. Suốt ngày suy đoán tỉ mỉ. Hòa Thân suy đoán Hoàng thượng thích gì, ghét gì, muốn đi sâu vào thế giới nội tâm của hoàng đế, muốn biết rõ những thầm kín trong nội tâm của Càn Long.
Học sinh của trường Hàm An Cung Quan Học đều là con em dòng dõi Bát kỳ rất kiêu ngạo ngang ngược. Qua họ, Hòa Thân đã thí nghiệm sức chịu đựng và tính nhẫn nại của mình, giận vui không hề biến sắc; trước mặt các giáo viên, Hòa Thân thí nghiệm tài quan sát khả năng và thủ đoạn nịnh bợ của mình. Hòa Thân thăm dò, phán đoán mỗi một động tác, mỗi một biểu hiện của các giáo viên hàn lâm và mối liên hệ tất nhiên trong thế giới nội tâm của họ. Qua họ, Hòa Thân thí nghiệm có kết quả việc làm của mình. Dần dần, các vị hàn lâm, các vị tổng tài, và cả đại thần hiệu vụ đều biết Hòa Thân, đều thích Hòa Thân. Hòa Thân phát hiện, các vị giáo viên đó tuy tài cao học rộng, sách đọc vạn cuốn, nhưng lòng dạ hẹp hòi, không ai phục ai. Đôi khi nhìn thấy người khác oan ức dẫu không phải vui mừng trước tai họa của họ, nhưng vì muốn giữ mình, mà ít người dám lên tiếng vì chính nghĩa; nhìn thấy người có quyền thế, dẫu không phải là a dua nịnh bợ, tâng bốc, thì cũng tìm cách gần gũi làm quen...
Trong Hàm An Cung Quan Học, phần lớn học sinh không ham học, thích chơi bời đua đòi. Hòa Thân thì ngược lại ham học tất cả, chuẩn bị mọi thứ, đặt nền móng vững chắc cho tòa nhà lý tưởng của mình.
Thời gian như nước chảy, không quản ngày đêm. Trong Hàm An Cung Quan Học, Hòa Thân không kể sớm tối, cần mẫn khắc khổ, thoáng cái hai năm đã trôi qua, tiền bạc bán đất cũng đã cạn, xem chừng cuộc sống gia đình khó khăn, hai anh em khó tiếp tục theo học tại Hàm An Cung Quan Học, Hòa Thân lại đến bàn với Lưu Toàn. Lưu Toàn nói:
- Trước đây tôi không ngại mang cái mặt mo này chạy đông chạy tây gom góp tiền học, nơi này một lạng, nơi kia một tiền, cầm cố cả ngọc bội, tạm thời có thể chạy tiền chi dùng cho năm nay, chỉ sợ năm tới không chạy đâu ra.
Hòa Thân thầm tính: Học là cơ sở tiến thân, phải vững chắc, có thể học thêm một năm thì học thêm một năm. Sang năm sẽ nghĩ cách sang năm, tự học cũng được. Đợi sau khi nhận được tước vị Xa đô úy tam đẳng, mọi việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Trước đây không phải A Quế vừa làm thị vệ vừa học, suốt mấy năm ư? Do vậy sau khi nghe Lưu Toàn nói, nhìn bộ mặt rầu rĩ của Lưu Toàn, Hòa Thân cười:
- Bác buồn nỗi gì? Gặp Xuân Hương hay Hạ Liên? Hồn phách mất hết.
- Tình cảnh hôm nay nếu không có chỗ dựa, vay mượn nhiều thế này cậu có mà khóc.
Hòa Thân đưa cho Lưu Toàn ít bạc vụn, nói:
- Kiếm được món tiền này quả không dễ, tối nay chẳng thiệt đâu, hôn Xuân Hương hoặc Hạ Liên là xong tất.
Nói xong cười to, quay mình bước đi.
Hòa Thân từ nhỏ đã thích cười đùa hài hước, chỉ bởi hai năm qua không có như vậy nên Lưu Toàn nghi hoặc, tay cầm nắm bạc vụn mà lòng chẳng thấy hào hứng, miệng lẩm bẩm:
- Ăn cũng không no, còn đâu nghĩ đến chuyện ấy.
Hòa Thân đến trường, bị một người sai dịch dẫn đến phòng trực của Tổng tài trường. Hòa Thân bước vào, vội vàng quỳ xuống khấu đầu:
- Sư bác tổng tài cho kẻ học trò này đến, có gì sai bảo?
Nói xong, mặt nhìn thẳng, cứ quỳ sững đứng ở đấy.
- Đứng dậy, đứng dậy, đứng dậy nói.
Vừa nghe câu ấy không đợi vị tổng tài nói tiếp, Hòa Thân lên tiếng ngay:
- Kẻ học trò này đâu dám vô lễ trước mặt tổng tài đại nhân!
- Đứng dậy nói, ta không trách đâu.
Hòa Thân đứng dậy, xuôi tay đứng nghiêm, mặt vẫn nhìn thẳng.
- Hãy chào Anh Liêm đại nhân. Vị tổng tài bảo.
Hòa Thân lại quì xuống nói:
- Kẻ học trò này thỉnh an đại nhân.
Anh Liêm lệnh cho cậu ta đứng dậy:
- Không cần nhiều lễ, lão phu lại đây, chỉ vì trong hoa viên của lão phu có mấy cái đình lầu mới làm, chưa viết hoành phi. Lão phu thấy chữ viết của anh đôn hậu, khỏe đẹp, ung dung hào hoa, ẩn dấu sức mạnh phi thường, muốn nhờ anh viết hộ mấy bức hoành phi, không biết anh có bằng lòng không?
- Được lão gia quá khen, kẻ học trò này thật ngượng ngùng, nhưng lão gia đã sai bảo, kẻ hậu sinh này đâu dám từ chối, vả lại có ngài tổng tài ở đây, kẻ học trò này đâu dám trái nhã ý.
- Hà tất quá khiêm tốn, xe đã sẵn sàng, nhanh đi cùng với lão phu.- Anh Liêm nói.
Hòa Thân theo Anh Liêm vào phòng khách, viết xong hoành phi.
- Chữ viết của anh đẹp như thế này, hội họa tất cũng cao siêu. Lão phu có một cái quạt, xin công tử vẽ cho một bức tranh sơn thủy hoặc người. - Nói xong Anh Liêm cầm quạt đến.
Hòa Thân không thể từ chối, nhìn thấy chiếc quạt nền vàng nhạt, suy nghĩ một lát, cầm bút tô lên năm màu, vẽ thêm mấy nét. Anh Liêm đứng bên cạnh, càng nhìn càng kinh ngạc, càng nhìn càng thích thú. Loáng một cái đã vẽ xong. Bên trái bức tranh là hai cành trúc vút cao thẳng đứng, không phải màu xanh tươi đẫm nước, mà là màu hồng tươi óng ánh. Sau hai cành trúc, xa xa là dãy núi cao sừng sững đỉnh này chen đỉnh nọ, khe suối lượn vòng uốn khúc; những dải rừng rậm nhuộm màu ráng hồng. Bên phải bức tranh, một cụ già đang đứng, mặt nghiêng đầu ngẩng. Khuôn mặt cụ già chỉ phớt qua mấy nét, nhưng quần áo râu tóc thì vẽ rất kỹ. Tuy vẽ nghiêng nhưng thể hiện được phong thái của cụ già, vẻ mặt ung dung thư thái, áo để hở, tóc râu phất phơ trước gió. Sau lưng cụ già nhô lên một cây thông xanh biếc, cành lá xum xuê. Phía trên cây thông đề hai câu thơ:
“Dừng xe ngồi ngắm rừng phong chiều tà,
Tháng hai sương trắng lá hồng nhờ hoa”.
Anh Liêm nhìn cụ già trong tranh, càng nhìn càng thấy giống mình. Đến khi nhìn thấy câu thơ: “Dừng xe ngồi ngắm rừng phong chiều tà. Tháng hai sương trắng lá hồng nhờ hoa”, bản thân như bay bổng, bồng bềnh.
Anh Liêm khen ngợi, nói với Hòa Thân:
- Anh không ngại, hãy ở lại đây một hôm, dạo chơi ngắm cảnh hoa viên.
- Tiểu tử không dám làm phiền, giờ xin cáo từ, cám ơn lão gia đã quá yêu chiều.
- Sao lại nói thế, anh không thích ở đây?
- Tiểu tử rất thích...
Không đợi Hòa Thân nói hết câu, Anh Liêm nói:
- Vậy thế này, ở đây một hôm. - Nói xong, gọi người nhà dẫn Hòa Thân dạo chơi ngắm cảnh hoa viên. Ông ngồi trong phòng chờ.
Lúc này đúng vào dịp cuối tháng giêng, một trận tuyết nhỏ vừa rơi. Mặt trời tươi đẹp chiếu sáng, cả hoa viên rực đỏ. Hòa Thân nhìn qua phía trên lầu hành lang, thấy một dãy núi xa xa, màu xanh thẳm, xen lẫn tuyết trắng chói mắt, làm nổi bật bầu trời xanh trong. Trong hồ nước bên cạnh, đôi chim nhạn màu xanh biếc đang nô đùa, bỗng nhiên con nhạn trống vỗ cánh bay lên, lượn vòng cất tiếng kêu, chúc đầu nhìn xuống; con nhạn mái bên dưới nghểnh cổ nhìn lên cất tiếng dịu dàng đáp lại. Đôi nhạn ríu rít với nhau một lát, nhạn trống vụt nhào xuống, cả đôi lại vui đùa như lúc đầu. Hòa Thân bất giác than thở, vượt qua cầu gỗ đến bên bờ hồ. Nhìn những cành liễu mượt mà lả lướt trong tuyết, những ngọn bạch dương đầy nụ hoa phớt hồng trên đầu cành, khiến người ta dễ động lòng.
Hòa Thân dạo bước trong hoa viên. Anh Liêm đi thẳng lên phòng cô cháu. Cô cháu Tể Văn đang vén bức rèm cửa sổ nhìn ra ngoài, nghe tiếng bước chân, vội quay đầu lại, mặt mày rạng rỡ, má lúm đồng tiền, đuôi mắt dễ thương. Anh Liêm nói:
- Lòng cháu vui sướng, lòng ta cũng vui sướng. Cháu biết không, ông đã quan sát anh ta hai năm rồi.
- Đã vậy sao để anh ta mặc quần áo quá mỏng manh đến thế?
- Ái dà, tạm thời thôi, lại xót xa cho anh ta rồi, trách ông ư?
Hòa Thân bước vào phòng, ngồi bên bàn, Anh Liêm nói:
- Lão phu có một việc muốn nói với anh.
- Không biết lão gia có việc gì sai bảo kẻ hèn này.
- Lão phu đã quan sát anh hai năm nay. Anh là dòng dõi nhà tướng, có hai anh em, cần cù trung chính, là người khá hơn cả trong số con em dòng dõi Bát kỳ. Ta biết anh chưa đính hôn với ai, nên muốn gả cô cháu gái cho anh, ý anh thế nào?
Hòa Thân đâu có biết Anh Liêm đã theo dõi quan sát mình, cũng không ngờ có việc vui to lớn thế này, vừa nghe Anh Liêm nói xong, nước mắt muốn tuôn trào, cúi đầu bái lạy:
- Đại nhân tổ phụ, bậc chí tôn đại học sĩ, gả cháu gái cho kẻ hàn sĩ này, tấm lòng thật như nhật nguyệt trên trời.
- Cháu đứng dậy, đã nhận ta là ông thì không nên khách sáo. Cháu gái ta, từ nhỏ, cha mẹ mất sớm, ta nuôi dưỡng lớn khôn, mong anh đối xử tốt với nó, đến lúc trăm tuổi ta cũng ngậm cười.
Anh Liêm đỡ Hòa Thân dậy.
- Ân đức của tổ phụ đối với cháu cao như trời dày như đất, nếu cháu phụ nàng, trời đất không dung!
- Ông biết cháu vay mượn nhiều tiền bạc, vay hết bao nhiêu cho ông biết, ông hoàn trả hộ cháu. Ngày mai, ông cho mai mối đến nhà cháu, dù cháu và mẹ kế có bất hòa chăng nữa, nhưng lễ không thể thiếu, việc này phải thưa chuyện với mẹ kế cháu. Cháu từ nay về sau an tâm ở trong trường học tập, không phải lo lắng vì cuộc sống. Đợi đến lúc học xong, sẽ chọn ngày thành hôn cho hai cháu.
Từ đó, Hòa Thân và Hòa Lâm không phải bận tâm vì sinh kế, an tâm học tập, càng ra sức chăm chỉ.
Năm Càn Long thứ 32, Hòa Thân đã mười tám tuổi tốt nghiệp trường Hàm An Cung Quan Học. Thuộc làu “Tứ thư”, “Ngũ kinh”, “Lịch sử”. Đúng là tài ba lỗi lạc, không sách nào không thông, không cái gì không hiểu, đọc thông viết thạo các ngôn ngữ Mãn, Hán, Mông, Tạng... Cưỡi ngựa bắn cung, sử dụng binh khí đều tài giỏi.
Viên Mai, người nổi tiếng trong thiên hạ đương thời đã làm bài thơ ngợi khen anh em Hòa Thân như sau:
Thở nhỏ ham thơ văn. Danh vọng không ai bằng.
Giương cung chim nhạn rơi. Vung bút vẽ trời mây.
(Nguyên văn: Thiếu tiểu văn thi lễ. Thông hầu cập quán quân. Loan cung chu nhạn lạc. Kiện bút lý ma vân)
Dưới ngòi bút của Viên Mai, Hòa Thân đúng là văn võ toàn tài. Được như vậy là nhờ có sự đào tạo rèn luyện của Trường Hàm An Cung Quan Học.
Năm Càn Long thứ 32 (1767), Hòa Thân mười tám tuổi, đón nhận năm huy hoàng đầu tiên của cuộc đời, một năm tràn đầy hạnh phúc, cùng với Phùng Thị, cô cháu gái của Anh Liêm, kết thành vợ chồng.
Giờ động phòng hoa chúc, khi vén chiếc khăn che mặt cô dâu, Hòa Thân đã không nén nổi, quỳ hai gối xuống sàn đất, nghiêm chỉnh khấu đầu ba lượt: “Hoàng thiên hậu thổ quá yêu thương ta, tổ tông thần linh quá yêu thương ta, tổ phụ Anh Liêm quá yêu thương ta, đã ban cho ta người vợ hiền xinh đẹp thế này!”. Hòa Thân thầm khấn tạ ân, tiếp tục quỳ tại chỗ.
Chỉ liếc qua Hòa Thân đã thấy cô dâu là một cô gái không những xinh đẹp tuyệt vời, mà còn thông minh hiền thục. “Tể Văn” có nghĩa là ráng ngũ sắc giữa bầu trời sau cơn mưa, cái tên đẹp thay! Nàng vì ánh dương mà sáng chói, nàng vì bầu trời mà đáng yêu, nàng vì ngọn gió mà tư thái tăng thêm, tình cảm phong phú. Ta là vầng hồng của nàng, ta là bầu trời của nàng, ta là ngọn núi của nàng. Ta phải cho nàng tắm gội trong ánh hào quang của ta, nằm trong lòng ta, say đắm trong tình cảm của ta. Hòa Thân hiểu sâu sắc một người vợ thông minh hiền dịu, quan trọng như thế nào đối với sự thành công của sự nghiệp anh ta. Hòa Thân không kiềm chế nổi, lại khấu đầu thêm ba lần, trịnh trọng khấn: “Tạ ân Hoàng thiên hậu thổ, tổ tông thần linh, tổ phụ Anh Liêm!”
Phùng Thị thấy vậy, lòng tràn ngập yêu thương:
- Tạ ơn một lần thôi, đứng đậy nào.
Hòa Thân nâng chén rượu, hai người uống rượu giao bôi. Hòa Thân cầm con gà luộc lên định xé ra, Tế Văn vội nói:
- Còn nóng đấy, nghe nói bụng chàng không được tốt.
Hòa Thân, ngày thường ở trong Hàm An Cung Quan Học, nhớ lần đầu tiên khi tướng phủ đưa các món ăn ngon đến, Hòa Thân bỗng khóc. Nhớ đến cảnh ấy Hòa Thân nói:
- Những thức ăn đó đều do nàng sai người mang đến?
- Có ngon không? Tế Văn hỏi. - Em chàng lần đầu tiên được ăn như vậy bỗng khóc.
- Thiếp chỉ nhìn thấy chàng, chưa nhìn thấy em chàng, không biết mỗi lần gửi áo quần vào có vừa khổ người em chàng không?
- Áo quần lần nào cũng do nàng chọn ư?... Nàng làm sao nhìn thấy ta?
- Mỗi lần chàng đến nhà thiếp, thiếp đều nhìn thấy, lúc ấy mùa xuân giá rét, chàng ăn mặc mỏng manh.
Nghe đến đấy, Hòa Thân gục vào lòng nàng, khóc, chàng nghĩ đến cảnh mẹ mất sớm, mới bốn tuổi đã mất đi tình yêu của người mẹ, cha cũng qua đời, hàng ngày đi xa, mẹ kế lại tàn ác, anh em chẳng làm gì có tình thương thắm thiết như thế này. Tể Văn nhìn thấy chàng như thế, đưa tay xoa đôi má chàng, nâng mặt chàng lên, hôn nhẹ, nốt ruồi đỏ lần đầu tiên được nhìn thấy.
Kể sao xiết nỗi ân ái vợ chồng. Hòa Lâm cũng được hưởng sự ấm áp của người “chị dâu”. Anh em Hòa Thân đắm chìm trong biển cả hạnh phúc. Ngày tháng trôi nhanh, bất giác đã một năm trôi qua. Hòa Thân với tư cách văn sinh viên thừa hưởng tước vị Khinh xa đô úy tam đẳng, Hòa Lâm tiếp tục ở lại trường học, Lưu Toàn mở cửa hàng kinh doanh và chăm nom công việc gia đình.
Một hôm, Tể Văn nhàn rỗi, cùng cô a hoàn chuyện phiếm, bất chợt cô a hoàn nói:
- Em nói câu này, không biết trời cao đất dày, xin mợ chớ trách mắng.
- Chúng ta trước đây từng gọi nhau chị em, hôm nay sao mà khách sáo thế. Có gì cứ nói, dù em nói thế nào.
- Lão gia quá keo kiệt. Người nhà mang tiền đi mua bán, lão gia tự mình tính toán, đếm chi li từng xu từng hào, cái đó có là bao, những người ăn kẻ ở thì quần áo vải thô, ngày ngày húp cháo, rất ít khi thấy thịt cá, mấy nữ tì theo tiểu thư đến đây, có cô nào chịu nổi? Chẳng biết tiểu thư - mợ có biết không.
- Sao ta không biết những điều đó? Nghĩ rằng lão gia đã nhiều năm nghèo khổ, tiết kiệm quen rồi, nên thông cảm lão gia.
A hoàn nghe Tể Văn nói thế, im lặng không trả lời cảm thấy khó chịu.
Hòa Thân về nhà, Phùng Thị nói:
- Phu quân, chàng cần kiệm cho gia đình, thiếp rất khâm phục, nhưng gia đình bây giờ đã sung túc, việc ăn mặc của kẻ ăn người ở cũng nên khá hơn.
Hòa Thân tán thành, nhưng lại bảo Lưu Toàn:
- Dọn cơm riêng cho những người theo phu nhân về đây, áo quần sáng sủa một tí, còn những người khác, tất cả như cũ. Việc chi tiêu tiền bạc đều do ta quyết định, quy định này vĩnh viễn không thay đổi. Riêng bác cần bao nhiêu tiền bạc, tùy ý sử dụng.
Lưu Toàn nhất nhất vâng lệnh.
Kẻ tham lam thường hay keo kiệt. Hòa Thân cả đời keo kiệt bủn xỉn khó ai sánh kịp, chỉ biết có khấu trừ, không chịu bỏ ra một hào, một xu, trong nhà ông ta, trừ mấy người quản gia tâm phúc ra, tất cả đều mặc quần áo vải thô, ăn thì cơm ít cháo nhiều. Sau này ai cũng biết ông ta keo kiệt đến thành tật rồi.
Hòa Thân sau khi với tư cách Văn sinh viên thừa hưởng tước vị Khinh xa đô úy tam đẳng, rất là an nhàn, rất vừa ý với chức vụ này. Một mặt an tâm đọc sách, theo con đường thi cử tiến thân; mặt khác, vạn nhất con đường này trắc trở, thì từ chức này trèo lên, rất nhanh chóng được gần gũi Hoàng thượng. Chỉ cần bây giờ phải an tâm đọc sách, chuyên tâm làm việc.
Một hôm, Hòa Thân đang đọc sách, bỗng nghe các bạn đồng sự bàn bạc về chuyện Dương Ứng Cư tự vẫn. Dương Ứng Cư là đại học sĩ đương triều kiêm Tổng đốc Vân - Quý, có thể nói là dưới một người trên vạn người, vì sao bỗng nhiên không được Hoàng thượng sủng ái mà phải tự vẫn? Hòa Thân bước đến vồn vã hỏi thăm, các đồng nghiệp nghĩ rằng anh Hòa Thân này hàng ngày rất ít nói, cớ sao hôm nay cao hứng đến thế. Đương nhiên chẳng ai truy hỏi làm gì, nếu có hỏi thì trả lời vậy thôi. Họ đều là con em dòng dõi Bát kỳ, phần lớn là con em các đại quan của triều đình, lẽ nào không biết cụ thể.
Nước Miến Điện ở phía nam Trung Quốc, từ đời Vĩnh Lịch về sau, không hề qua lại với Trung Quốc, không triều cống. Đến năm Càn Long thứ 18, Ngô Thượng Hiền, người Châu Thạch Bính tỉnh Vân Nam đến vùng bộ lạc Ca Ngoa, đông Miến Điện khai khoáng, dựng lên một xưởng khai thác bạc khá bề thế.
Lúc này Trung Quốc lại đang khuyên Vương Mãng Đạt La dâng sớ làm phiên quốc. Miến Điện đồng ý cử sứ tiến cống, dâng lên mấy thớt voi, một tháp mạ vàng, Càn Long cũng ban thưởng sứ thần Miến Điện hậu hĩ. Không ngờ Tổng đốc Vân Nam dụ dỗ Ngô Thượng Hiền về nước, vu ông ta tham ô tiền thuế của xưởng sản xuất bạc, bắt ông ta ngồi tù. Ngô Thượng Hiền một lòng yêu nước, lại bị vu cáo hãm hại, oan ức mà không chỗ kêu, tức quá chết. Xưởng khai thác bạc đóng cửa. Từ đó Miến Điện có loạn, thổ ty vùng Mộc Sơ, Ung Tá Nha, đưa quân vào Miến Điện, dập tắt phiến loạn, tự xưng Miến vương, đặt tên nước là Miến Điện. Không ai phản đối, chỉ có hai thổ ty Quế Gai và Mộc Bang không chịu khuất phục, liên kết nhau đem binh tấn công. Ung Tá Nha lệnh cho con là Mãng Kỷ Thụy mang quân nghênh chiến, đánh bại bộ tộc Quế Gia và Mộc Bang. Thổ ty Mộc Bang là Hãn Đệ Mãng bị giết, thổ ty Quế Bang là Cung Lý Nhạn chạy đến Điền Biên. Quế Gia vốn là hậu duệ của Quế Vương Quan triều Minh, từng mở xưởng khai thác vàng ở Ba Long, rất giàu. Tổng đốc Vân Nam Ngô Đạt Thiện, nghe ông ta là nhà cự phú, lệnh cho ông ta dốc túi nộp tiền. Cung Lý Nhạn không chịu, Ngô Đạt Thiện lệnh cho biện lại trục xuất ông ta ra khỏi địa phương. Cung Lý Nhạn không còn cách nào bèn đến địa phận thổ ty Mạnh Liên. Thổ ty Mạnh Liên là Đao Phái Xuân ngày thường hay giao du với Ngô Đạt Thiện, quan hệ rất tốt. Lúc ấy nghe Cung Lý Nhạn vào địa phận mình, bí mật đem người tập kích Cung Lý Nhạn. Cung Lý Nhạn vì xem Đao Phái Xuân là bạn, không đề phòng nên bị ông ta bắt.
Người bạn tri giao cố cựu đó của Cung Lý Nhạn đã cướp toàn bộ vàng bạc của Cung Lý Nhạn và đem nộp Cung Lý Nhạn cùng vợ con và nô bộc cho Tổng đốc Vân Nam. Số tiền cướp được chia cho Ngô Đạt Thiện một nửa. Vợ của Cung Lý Nhạn là Tương Chiêm có phần xinh đẹp, Đao Phái Xuân không nỡ vứt bỏ, muốn lấy làm thiếp. Tối đến đưa Tương Chiêm vào nhà trong, buộc cùng ngủ chung. Tương Chiêm không đồng ý, Đao Phái Xuân dùng thủ đoạn cưỡng bức. Tương Chiêm cùng đường sinh kế.
- Thiếp xin theo hầu chàng, nhưng xin thả bọn nô tỳ của thiếp, và chọn ngày lành cử hành hôn lễ, như vậy thiếp mới tùng phục.
Đao Phái Xuân vui mừng khôn xiết. Tương Chiêm liên tục chuốc rượu, Đao Phái Xuân say túy lúy. Tương Chiêm họp số nô tỳ của mình lại, dùng dao chặt Đao Phái Xuân ra mấy khúc, rồi mở cửa chạy chốn. Lúc này, những người của bộ tộc Mạnh Liên do uống rượu mừng vui, say khướt quên hết mọi việc. Hôm sau mới biết đầu mục mình bị giết, vội vàng đuổi tìm Tương Chiêm, nhưng Tương Chiêm đã như cá thoát khỏi lưỡi câu, lắc đầu quẫy đuôi chuồn thẳng.
Tương Chiêm chạy thoát khỏi Mạnh Liên, đến vùng thổ ty Mạnh Cấn, nghe ngóng biết được chồng mình đã bị Tổng đốc Vân Nam Ngô Đạt Thiện sát hại, khóc đến chết đi sống lại, vừa tức Miến Điện vừa giận Trung quốc, nên thỉnh cầu thổ ty Mạnh Cấn xâm lấn Điền Biên, báo thù cho chồng. Mạnh Cấn thấy Tương Chiêm nước mắt đầm đìa, dung nhan tiều tuỵ, nên thương tình, không tính toán mạnh yếu, xâm lấn biên giới Vân Nam. Tổng đốc Ngô Đạt Thiện chỉ biết vơ vét tiền bạc, ngoài việc này ra chẳng có bản lĩnh tí nào, nghe báo Điền Biên có loạn vội cho người về kinh thành vận động xin điều đi nơi khác. Tục ngữ nói: “Có tiền mua tiên cũng được”, dùng mấy vạn lạng vàng bạc, Ngô Đạt Thiện được điều khỏi Vân Nam, đến làm Tổng đốc Xuyên - Thiểm. Triều đình điều Tuần vũ Hồ Bắc là Lưu Tảo đến Vân Nam.
Lưu Tảo lệnh cho Tổng binh Lưu Đắc Thành, tham tướng Hà Quỳnh Chiếu, tướng Minh Hồng tiến theo ba đường tiễu phỉ, tất cả đều bị thất bại. Lưu Tảo vô kế bó tay,triều đình nghiêm khắc khiển trách và lệnh cho Đại học sĩ Dương Ứng Cư đến Vân Nam chỉ huy. Dương Ứng Cư đến Vân Nam, Lưu Tảo sợ ông ta tra hỏi nên tự vẫn chết. Lúc đó là năm Càn Long thứ 30.
Lúc này ở biên giới Vân Nam dịch bệnh đang hoành hành, quân lính Mạnh Cấn rút lui, Dương Ứng Cư thừa cơ cho quân tấn công Mạnh Cấn, quân Mạnh Cấn hơn một nửa bị bệnh chết, không thể chống cự, một số thì chạy trốn, một số đầu hàng. Dương Ứng Cư thấy tình thế thuận lợi, muốn tiến quân mưu chiếm Miến Điện, lập nên chiến công truyền đời. Phó tướng Triệu Hùng Bảng ở Đằng Việt nói: “Miến Điện mới lập, các thổ ty Mộc Bang, Man Mô đều tình nguyện quy phục nên thừa thắng tiến nhanh”. Dương Ứng Cư lại ba lần viết sớ tâu lên triều đình, nói là người Miến đang mong đợi đại quân thiên triều cấp tốc đến biên ải. Càn Long vốn muốn chiếm cứ Miến Điện, nói: “Miến Điện tuy là vùng hoang vu phía nam, nhưng đã thuần phục Trung Quốc từ Triều Minh, mà lại xâm lược mưu phản, triều đình không thể không bắt họ thuần phục”, nên ra lệnh cho Dương Ứng Cư tiến quân.
Dương Ứng Cư truyền hịch tiến đánh Miến Điện, đem 50 vạn quân, ngàn khẩu đại bác, tiến sâu vào Miến Điện, khiến tù trưởng Như Cai Uý Uy lo sợ, vội vàng đầu hàng,tránh cái chết không chỗ chôn thân. Dương Ứng Cư cử quan phiên dịch đến các thổ ty Mạnh Mật, Mộc Bang, Man Mô, Cảnh Tuyến, dụ dỗ họ hiến đất cống nạp. Lúc này tù trưởng Miến Điện Ung Tá Nha đã qua đời, truyền vị cho người con thứ Mạnh Tuấn. Mạnh Tuấn thấy hịch của Dương Ứng Cư, không hề sợ hãi, ngược lại còn đem quân xâm lấn biên cương Trung Quốc. Các thổ ty vốn lừng chừng lưỡng lự và không thành tâm quy phục. Triệu Hùng Bảng lãnh năm trăm. quân, từ Đằng Việt vượt qua ải Thiết Bích, công kích chiếm lĩnh Tân Nhai của thổ ty Man Mô. Tân Nhai là con đường giao thông quan trọng Trung - Ấn, quân Miến không chịu đánh, thủy lục cùng tiến, lục quân công phá Mục Bang, Cảnh Tuyến. Triệu Hùng Bảng nghe tin quân Miến đột ngột tiến đánh nên hốt hoảng vứt bỏ vũ khí, đốt cả xe chiến, chạy trở về ải Thiết Bích. Hàng vạn quân Miến đuổi sát theo sau Triệu Hùng Bảng, đuổi đến tận ngoài ải.
Dương Ứng Cư nghe tin thất trận, vừa kinh sợ vừa hối hận, vội tìm cách tránh né, đang biểu về triều đình cáo bệnh, và không tấu báo lên triều đình sự thật bị bại trận và hàng vạn quân Miến đang xâm phạm bờ cõi. Triều Thanh nghe Dương Ứng Cư lâm bệnh vô cùng lo lắng, vội lệnh cho Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Đình Chương đến Vân Nam, hiệp trợ với Dương Ứng Cư giải quyết công việc, đồng thời lệnh cho thị vệ Phụ Linh An đi cùng ngự y đến xem bệnh tình Dương Ứng Cư, và xem xét tình hình quân sự. Dương Đình Chương đến Vân Nam, cử đề đốc Vân Nam Lý Thời Thăng dẫn một vạn bốn ngàn quân tiến vào ải Thiết Bích. Lý Thời Thăng chia quân tiến theo hai đường: Tổng binh Ô Nhĩ Đăng Ngạch tiến theo hướng Mộc Bang, Chu Luân theo hướng Tân Nha. Tù trưởng Miến Điện nghe tin quân Thanh chia quân tiến đánh, bèn lui quân giả vờ thua, cho sứ cầu hòa. Lý Thời Thăng tin thật, cho dừng hai cánh quân, thương thuyết với phía Miến Điện. Dương Ứng Cư nghe tin thương thuyết, hết ốm ngay, và cùng với Lý Thời Thăng báo tin thắng trận. Dương Đình Chương thấy công việc đã xong vui vẻ rút lui, tấu báo với triều đình, Dương Ứng Cư đã khỏi bệnh, thần xin về lại Lưỡng Quảng. Dương Đình Chương được lệnh triệu về triều. Dương Ứng Cư bám chặt Dương Đình Chương để thăm dò tình ý.
Nào ngờ sau khi Dương Đình Chương đi, quân Miến bỗng vòng qua Nhẫn Quang, chiếm biên giới Đằng Việt, Dương Ứng Cư vô cùng hốt hoảng, vội lệnh cho Ô Nhĩ Đăng Ngạch và Tổng binh Lý Đắc Thành đến cứu viện. Quân Miến thấy có viện binh liền rút theo hướng ải Thiết Bích. Cửa ải Thiết Bích do Lý Thời Thăng trấn giữ, không dám chặn đánh, để mặc quân Miến đánh phá. Dương Ứng Cư dấu luôn chuyện đó không báo về triều. Lúc này Phụ Linh An mật tấu Triệu Hùng Bảng, Chu Luân rút lui để mất đất, Lý Thời Thăng gặp địch không đánh. Càn Long biết được tình hình thực sự vô cùng phẫn nộ, quở trách Dương Ứng Cư. Dương Ứng Cư đổ lỗi cho Ô Nhĩ Đăng Ngạch, và Lưu Đắc Thành. Càn Long càng nổi giận truyền chỉ bắt Dương Ứng Cư về hỏi tội. Lệnh cho tướng quân Minh Thụy ở Y Lê đến Vân Quý, trong lúc Minh Thụy chưa đến thì Tuần vũ Ngạc Ninh thay mặt. Ngạc Ninh tấu báo Dương Ứng Cư tranh công hiềm khích, dấu bại nói thắng, khi quân dối chúa. Càn Long tức giận, lập tức bắt Dương Ứng Cư về kinh, lệnh ông ta tự vẫn.
Hòa Thân nghe các đồng sự bàn tán chuyện đánh nhau ở Miến Điện, bụng nghĩ: “Miến Điện là nơi xa xôi hẻo lánh, núi cao rừng rậm, sơn lam chướng khí, làm thế nào mà dùng binh? Dương Ứng Cư bị thất bại, không phải là một minh chứng ư? Đánh Miến tất phải thương vong nhiều người, hao phí quá lớn tiền của, họ chẳng phải được không bù mất? Thế nhưng, Hoàng thượng muốn uy đức của Người tỏa sáng bốn phương, muốn lãnh thổ của Đại Thanh vô biên, muốn triều Thanh hơn hẳn các triều đại khác, để Người hơn hẳn các đời vua khác. Qua đó Hòa Thân càng thấy sức nặng của đồng tiền. Ngộ Đạt Thiện họa trút trên đầu, tham của đáng chết. Nhưng chính vì tham của mà có của, chính vì sẵn của mà thoát khỏi thị phi, để kẻ khác giơ đầu chịu tội. Hòa Thân phân tích tỉ mỉ mọi tình tiết.
Hòa Thân cáo biệt mọi người về nhà, trên đường đi, nhìn thấy nhiều người xúm xít quanh mấy chiếc xe tù. Trong chiếc xe tù đi đầu có một ông lão mặt mày gày gò, chiếc xe sau phần đông là trai tráng mặt mũi người nào cũng sưng húp. Hòa Thân hỏi dò và biết rõ.
Nguyên là, một khóa sinh ở huyện Thiên Chiêm, tỉnh Triết Giang tên là Tề Châu Hoa có viết cuốn: “Danh Sơn Tàng” và “Ngục Trung Tế Lã Lưu Lương Văn” mà gặp họa lớn, bị xử chết lăng trì, con cháu vị thành niên của anh ta đều bị xử trảm, vợ, dâu và cả đứa cháu chưa đầy tuổi đều bị bắt bán làm nô lệ.
Lã Lưu Lương là một văn nhân đầu triều đại nhà Thanh, gọi triều Thanh là “Bắc triều”, triều Minh là “Bản triều”, chủ trương “phân biệt Hoa, Di”. (Di là man di mọi rợ- ND), đuổi Di ra ngoài biên ải. Do đó, Lã Lưu Lương bị các Hoàng đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long căm ghét. Tề Châu Hoa lại dám phóng túng báng bổ như vậy, họ không phải là đi tìm cái chết sao.
Hòa Thân lại nghĩ chuyện không lâu trước đó, cử nhân Thái Hiển, người huyện Hoa Đình, tỉnh Giang Tô, do viết cuốn “Nhàn Ngư Nhàn Lục” đã phạm điều kiêng kỵ, bị chặt đầu, học trò, sách, thợ khắc bản in của Thái Hiển đều bị đi đày. Thời Khang Hy có vụ án “Minh Sử”, thời Ung Chính có vụ án “Tra Tự Đình, Tằng Tĩnh” cho nên Hoàng đế Càn Long rất nhạy cảm đối với những sự việc thế này. Hòa Thân thầm nghĩ: “Đại Thanh vốn từ ngoài biên ải tiến vào Trung Nguyên, nên mang tâm lý tự ti, thêm vào đó tư tưởng bài ngoại của người Hán từ xưa đã thành truyền thống, do vậy mấy đời vua nhà Thanh đều nghi kỵ, Hoàng đế Càn Long ắt không dễ gì bỏ qua bất cứ câu chữ “ám chỉ” nào.
Cứ như thế, Hòa Thân nắm bắt mọi tin tức trong triều đình, phân tích đạo lý ẩn chứa trong đó và những thấm kín trong nội tâm của Hoàng đế.
Nháy mắt, hai năm đã trôi qua. Hòa Thân tuy chưa thành đạt trong thi cử, nhưng nhờ cần mẫn làm việc bám sát quan trên, nên dành được chức vụ càng quan trọng hơn, được chọn vào làm ở bộ phận Niêm can xứ, và Loan nghi vệ hiệu vệ. “Niêm cam xứ” lo việc nghi lễ khi vua ngự giá, đồng thời đảm nhiệm công việc cảnh vệ. Những người trong bộ phận này phải là những người đẹp trai tuấn tú, anh dũng nhanh nhẹn trong số con em quan chức cao cấp dòng dõi Bát kỳ, ngày thường luyện tập nghiêm ngặt về võ công và cả lễ tiết để sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm thị vệ bên cạnh Hoàng đế. Nhiều tướng quân xuất thân từ đó. Hòa Thân chỉ còn cách Hoàng đế một bước, bắt đầu sự nghiệp lớn lao của mình.