Chú Tôi
Cũng như mọi ngày, chiều chiều tôi thường cưỡi ngựa đi chơi mát để hứng ít gió núi, nhưng chiều nay, từ căn nhà tranh sơ sài của một nông phu bên đồi có tiếng sáo đưa ra làm tôi dừng ngựa. Bâng khuâng, tôi xuống ngồi lên một tảng đá trên ngọn đồi cỏ sắc gió thổi lả lướt. Cứ mỗi bận nghe điệu sáo ai thổi lên trong buổi chiều tà là tôi lại thấy nhớ chú Tư tôi và tôi lại tiếc,... tôi tiếc một bài sáo mà tôi đã không được nghe,.. Tôi nhớ chú tôi là phải, ai ở gần chú tôi thì chắc chắn sẽ được cười suốt ngày. Chú vui tính lắm mà, luôn luôn pha trò như trẻ con tuy đã vào quãng bốn mươi tuổi. Chúng tôi tuy là cháu nhưng cũng là các bạn đi hát và đi nhảy đầm của chú, nên thân mật chỉ gọi chú là Kép Già. Kể ra thì cái tên Kép Già ấy cũng đã phải mua hằng vài ba cái ấp mà ông tôi đã cho. Sau những năm cờ bạc chơi bời, những năm bốc trời mà cái gia tài năm trăm mẫu ruộng đã bay hết, chú thản nhiên đi làm đốc-công cho một hãng ô-tô ở Hải-phòng với một số lương rất còm!... Tuy thế, có gặp lại, vẫn thấy thú vui tươi pha trò như chưa có chuyện gì đáng quan tâm xảy ra. Những ngày đó tuy ít tiền nhưng chưa phải là những ngày ít chơi nhất: trong một tháng thì thường chú có mặt ở tiệm nhảy quá hai mươi đêm. Lúc đi làm cũng như lúc đi chơi, chú thường mặc một bộ quần áo tây xám cắt theo lối thể thao, đầu đội cái mũ cát-két. Chú ưa thể thao và giỏi võ Tàu ; nhiều người thợ làm công dưới quyền chú chỉ biết chú dưới cái biệt hiệu “ông cát-két”. Mỗi lần chú đặt chân tới tiệm khiêu vũ là các cô gái nhảy tới quấn quít chung quanh ; chú nói chuyện rất có duyên, và nhất là thường chú hay cho họ mấy chục trả tiền xe hoặc thết họ một chầu phở những phút ba đào. Tôi thấy tất cả yêu quý chú và gọi chú là “ba-ba” (thật rất lợi địa cho chúng tôi). Chú có hai con trai và một người con gái với người vợ cả mà nay đã ly-dị - Tất cả đều đi học ở Hà-nội. Lắm bữa ra Hải-phòng chơi, thấy chú chơi bời một cách quá độ như không cần giữ gìn đến sức khoẻ, tôi đâm ra nghĩ ngợi và tự hỏi: “Hay là chú có điều gì chán ngán trong đời’’... nhưng lúc đứng trước mặt chú, trước cái vui tính hầu như vô tư lự ấy tôi lại hết thắc mắc ngay. Tôi còn nhớ có một lần vào dịp lễ Phục-Sinh, nhân đuợc nghỉ bốn ngày nên tôi và em Lăng (con trai của chú) cùng nhau ra Hải-phòng chơi. Nhà chú bầy biện sơ sài không có một đồ vật gì quý ; chú ở với một người vợ không cưới mà tôi không biết là người thứ mấy (nói thứ mười mấy thì có lẽ đúng hơn) ! Tuy thế đêm nào chú cũng vẫn đi nhảy đến một hai giờ sáng. Buổi trưa hôm ấy chú dẹp bàn ghế lại rồi mở âm nhạc dạy hai chúng tôi nhảy độ nửa giờ xong rồi chú bảo: - Con trai thì cái gì cũng phải nên biết qua... Khi tối đến, đi dạo phố, lúc đi ngang qua một tiệm khiêu-vũ, nghe điệu nhạc vui vui vẳng đưa ra, chúng tôi ngỏ ý muốn vào thì chú bảo: - Vào chúng mày có nhảy thì tao mới cho vào không phí tiền đi mất... Bây giờ tao không giầu như ngày xưa đâu. Hai chúng tôi nhìn nhau, rồi ấp úng khẽ đáp: - Được rồi! Thế là ba chú, cháu và con đi vào. Ngày ấy tôi mới có mười bảy tuổi, Lăng mười sáu; chúng tôi còn đang lạ lùng vui sướng và bỡ ngỡ thì đã thấy hai ba cô gái nhảy chạy tới, cô thì khoác lấy tay chú, cô thì lục túi rút cái mùi-xoa nói: - Cho em cái này nhá, ba-ba nhá. Cô thì nũng nịu: - Kẹo em đâu, em bắt đền đấy. Chú liền giới thiệu: - Đây là Huân, cháu ba-ba, còn đây là Lăng, con ba-ba đấy - Phải liệu mà đưa cho khéo nhá, mới tập nhảy cả đấy... Điệu kèn rộn rịp hòa với long trai tưng bừng bắt đầu mớm lớn, còn để ý từng nốt trứng cá, từng sợi tóc, lúc nào cũng có lọ nước hoa nho nhỏ trong túi. Như hai con chim ra giàng, chúng tôi nem nép thu hình nhìn các cô lộng lẫy tươi cười như một cảnh trời xa lạ đầy hứa hẹn nồng nàn. Điệu nhạc tăng-gô đã lên, đèn lờ mờ đỏ như gợi những cảnh của đời mộng ảo vào lòng trẻ ; chú giơ tay chỉ hai cô gái nhảy khéo ngồi ở góc phòng rồi bảo chúng tôi: - Thằng Huân ra con kia,... thằng Lăng con kia. Còn thẹn nên bước ra được vài bước, chúng tôi lại trở lại chống chế sợ vấp cùng hỏi lại chú là lúc mới bước phải bước chân nào trước, v.v... Đã mấy bài nhạc qua mà chúng tôi vẫn chưa dám nhảy làm chú phải gắt: - Con trai thì sự cái đếch gì mà ngượng nhảy bừa đi chứ! Thấy chú đã tức nên tôi phải đánh liều ra nhảy... nhưng Lăng thì vẫn cứ ngượng, chú bảo mấy lần anh cũng vẫn cứ thẹn: bảo mãi anh ấy mới đi đến gần cô gái nhảy, nhưng rồi nghĩ thế nào anh lại lạt lẽo cười cười quay trở lại, làm chú cáu đỏ mặt lên thét lớn: -Nhảy! Khổ! chàng trai mới có mười sáu, còn giữ những bông hồng héo không đâu ở trong ngăn kéo, thấy bố cáu điên rồi mới sợ hãi đành bước ra vừa khóc vừa ôm lấy cô vũ nữ đi điệu tăng-gô âm thầm du dương!... thật quả có âm thầm du dương. Nhưng từ đó tối nào chúng tôi cũng đi nhảy: lòng trai mới nở, sẵn sàng yêu đương, Lăng mê ngay cô Bích có đôi mắt đen rất buồn: còn tôi... Chiều chủ nhật, ngủ trưa dậy không thấy chúng tôi đâu, chú liền đến tiệm khiêu vũ thì bắt gặp chúng tôi đương nhảy buổi ban ngày! Trông thấy chú vào, chúng tôi ngượng nghịu như kẻ có lỗi bị bắt quả tang ; nhưng chú tôi cười bảo: - Tao đoán chúng mày chỉ đến đây thôi, tao phải vội đến vì sợ chúng mày vây với gái lỡ đến thiếu tiền chăng. Thật là chú chu đáo quá! Ba tháng sau, vào lúc đầu hè, sau một tháng ra Hải phòng ở chơi với bố, Lăng bỗng bị bệnh thương hàn và qua đời rất mau giữa năm mười sáu tuổi. ít lâu san, nhân có dịp ra Hải phòng, tôi định phải giữ lễ phép để tỏ lòng, kính trọng nỗi buồn của chú, nhưng vừa thấy mặl tôi chú đã tươi cười nói: - Anh Huân còn có thời giờ ra chơi được với Kép cơ đấy à? Thế nào, dạo này nhảy đã giỏi chưa?... Tối nay ta đi nhảy chứ... ... Và chú lại vẫn pha trò như thường, duy chỉ trên bàn con để một tấm hình anh Lăng. Sau đấy gần một năm, một hôm tôi được tin chú dọn về ở làng Tam lộng, cách tỉnh Vĩnh yên sáu cây số. Lên chơi, tôi thấy chú điềm nhiên sống trong một căn nhà tranh sơ sài với người vợ không cưới và đứa con nhỏ mới sinh. Tôi vẫn biết chú đã vung phá rất nhiều tiền trong thời oanh liệt, đã ăn cơm đỏ với muối những ngày không việc làm, đã qua bao đời tình ngắn ngủi, đã chết mất con yêu; tôi vẫn nói: “Những người như thế họ còn cần gì”. Nhưng lắm lúc thấy chú như người không có tình mà chỉ biết pha trò, như trời sinh ra chỉ để cười và để làm người khác cười theo , tôi phải đâm nghi: “Hay có điều gì bí ẩn đây!” Cho đến một hôm đứng chơi ở ngoài vườn, tôi hỏi người ở trung thành của chú về đời riêng của chú thì anh ta bảo: - Từ ngày cậu cả mất đi, cháu nằm ngay nhà ngoài nên cháu thấy nhiều hôm ông cháu khóc suốt đêm. - “À!...” Tôi khẽ gật đầu: tin ấy đánh vào lòng tôi quá mạnh làm tôi không nói gì được nữa. Tôi chớp luôn mấy cái rồi yên lặng nhìn cảnh vật thường nhìn hằng ngày, tôi cảm thấy như nó lạ lùng khác trước: lòng tôi đã đổi thay. Thì ra bây giờ tôi mới hiểu: “Phải, bỏ Hải phòng là phải, những vết thương đó không thể hàn gắn được!’’ Tôi vẫn nghi ngờ cái vui kia mà, tôi biết sau bộ mặt vô tư lự ấy có ẩn tâm hồn đa cảm, một tâm hồn nghệ sĩ - Chú đã chả chơi đàn nhị và nổi tiếng một thời là gì ! Đến bây giờ tôi còn nhớ độ bốc mả ông Trẻ Khoa tôi, một người mà tới nay thầy tôi vẫn khen là tài- hoa phong-nhã nhất bực một thời. Ông đã nỗi tiếng là tay chơi bời hào hoa và đàn giỏi thời ông. Họ nhà tôi đã có nếp cứ mỗi đời có một người đàn địch nổi danh mà ! Bốc mả ở trên đồn điền Tam-lộng. Trước hôm để tiểu vào một kiểu đất mà thầy địa lý đang không thiếu lời tán dương, tôi thấy chú tôi mở tủ mang ra một ống sáo trúc thật đẹp, thật nhẹ, rồi yên lặng lau chùi ra dáng cảm động lắm. Cả buổi đó, tôi không nghe thấy chú nói đùa bỡn nữa!... Chẳng may cha tôi lại sai tôi đi Hà-nội có việc cần gấp làm tôi không được nghe tiếng sáo ấy. Nhưng hai hôm sau, chị tôi về nói chuyên rằng chiều hôm đó, lúc vừa đặt tiểu xuống huyệt rồi, chú tôi mặc áo trắng dài, chít khăn tang, ngồi xuống bên cạnh thổi một bài sáo hay mà buồn lắm. Chú vừa thổi mà nước mắt đầm đìa chảy ướt cả hai má - Bà tôi không cầm được òa lên khóc – và tất cả khóc theo. Thế mà tôi không đượcc nghe tiếng sáo ấy, tiếng sáo tài tử tặng tài tử, tiếng sáo mà chú tôi đã rút tận hồn để thổi vào hồn người chú đã qua đời. Từ đấy lắm lúc tôi cứ thấy vẩn vơ tiếc, như tiếc một cái gì không thể xẩy ra hai lần trong đời này !... Và từ đó, những lúc ngồi buồn một mình trên đồi thanh vắng, tôi cứ hay nghĩ đến cảnh chú tôi lau ống sáo trong bàn tay run run mà bùi ngùi... Rồi tưởng tượng đến tiếng sáo buồn bay theo gió chiều trên ngọn đồi hiu quạnh... - Chú tôi vui tính thế mà khóc sướt mướt! Trời ơi! tôi muốn ôm lấy tâm hồn ấy mà an ủi...