Chương 9 Người Đánh Cá Và Linh Hồn.
Tối nào người đánh cá trẻ tuổi cũng đi ra biển, quăng lưới xuống nước. Khi có gió thổi từ đất liền anh chẳng bắt được con cá nào cả hoặc may lắm là vài con cá con bởi vì đó là lúc ngọn gió cay nghiệt với đôi cánh màu đen gặp những ngọn sóng dữ. Nhưng khi gió từ ngoài khơi thổi vào bờ là lúc cá ngoi lên từ dưới đáy biển và bơi vào lưới của anh. Anh chỉ việc kéo lưới lên và mang cá ra chợ bán.
Đêm nào người đánh cá cũng đi ra biển, rồi có một đêm cái lưới nặng đến nỗi khó có thể kéo nổi nó lên thuyền. Anh cất tiếng cười, bụng bảo dạ: “Chắc là mình đánh lưới được tất cả cá tôm trong lòng biển, hoặc là bẫy được một con quái vật chán chết nào đó đủ để làm cho thiên hạ ngạc nhiên hoặc một cái gì kinh khủng đến mức Nữ hoàng cũng muốn nhìn.” Thế là thu hết sức lực anh kéo căng những sợi dây thừng thô ráp cho đến khi những đường gân nổi lên như dây chằng trên hai cánh tay anh. Chiếc lưới nổi lên dần, những mảnh bần xoay tròn trong dòng nước, cuối cùng nó nổi hẳn lên trên mặt nước.
Không có cá, không có con quái vật nào, cũng chẳng có cái gì kinh khủng cả, chỉ có một Nàng Tiên Cá bé nhỏ đang nằm ngủ.
Tóc nàng là một bộ lông cừu bằng vàng ướt đẫm, mỗi một sợi tóc là một sợi chỉ vàng vốn dùng để trang trí trên miệng li pha lê. Toàn thân nàng trắng như ngà, cái đuôi bằng bạc dát những viên ngọc lớn. Những sợi rong biển màu xanh quấn quanh những chiếc vảy bạc và ngọc. Đôi tai nàng giống hai con sò biển, đôi môi đỏ tựa san hô. Những con sóng lạnh vỗ lên ngực nàng, muối lấp lánh trên hàng lông mi rủ bóng.
Nàng đẹp đến nỗi chàng đánh cá đứng ngây người ra ngắm vì không biết làm gì khác. Đoạn chàng đưa tay ra, kéo lưới lại gần hơn và cúi xuống bên mạn thuyền ôm nàng bế lên thuyền. Khi bị chàng chạm vào người, Nàng Tiên Cá kêu lên một tiếng giống như một con chim hải âu bị kinh động và nàng tỉnh hẳn, khiếp hãi nhìn chàng trai với đôi mắt có màu tím hoa cà của đá thạch anh. Nàng quẫy mình cố trườn đi nhưng chàng trai đã ôm nàng rất chặt, không để cho nàng bỏ đi.
Khi biết mình không có cách gì trốn thoát, Nàng Tiên Cá bắt đầu khóc và nói: “Thiếp cầu xin chàng hãy để cho thiếp ra đi bởi vì thiếp là con gái duy nhất của vua cha mà phụ vương của thiếp tuổi đã cao lại rất cô đơn”.
Chàng đánh cá trẻ tuổi ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời: “Ta sẽ không để cho nàng trở về với biển khơi nếu nàng không hứa với ta một điều. Bất cứ khi nào ta gọi nàng thì nàng phải đến và hát cho ta nghe. Các loài cá tôm thích nghe các bài hát của các thủy thần và sẽ kéo đến đầy lưới của ta”.
“Nếu chàng thực lòng muốn thả thiếp, thiếp sẽ hứa với chàng điều đó.”
“Ta thật sự muốn để cho nàng bơi đi.” Chàng đánh cá nói. Thế là nàng bắt chàng phải hứa, rồi đến lượt mình cũng nói lên lời thề của một thủy thần. Chàng trai buông lỏng vòng tay và Nàng Tiên Cá lặn sâu xuống đáy biển, rùng mình bởi một nỗi sợ hãi mới mẻ.
Tối tối chàng đánh cá lại giong buồm ra biển, gọi Nàng Tiên Cá lên. Nghe tiếng, nàng nổi lên trên mặt nước hát cho chàng nghe. Xung quanh nàng bọn cá heo bơi lượn, trên đầu nàng lũ hải âu chao liệng.
Nàng hát một bài ca tuyệt diệu. Bởi vì đó là bài ca về những cư dân ở biển đi thành từng đàn từ hang này sang hang khác, mang những đứa con nhỏ trên vai; về những vị thần nửa người nửa cá, bộ râu như rong biển xanh, bộ ngực mọc đầy tảo biển, trườn qua những con ốc xà cừ có cái thân vặn xoắn mỗi khi vua Thủy Tề đi qua; về cung điện của vua Thủy Tề làm toàn bằng hổ phách với cái mái bằng ngọc lục bảo trong vắt, những con đường bằng ngọc trai, và về những khu vườn trong lòng biển, nơi những chiếc quạt lớn chạm trổ công phu làm bằng san hô rập rờn suốt cả ngày cùng với những con cá nhỏ lao đi như những con chim bạc, cỏ chân ngỗng bám vào vách đá và những con sứa màu hồng nằm lẫn giữa cát vàng. Nàng hát về những con cá voi lớn bơi đến từ các biển phía Bắc, nơi có những tảng nhũ băng sắc nhọn rủ xuống từ những cái vây; về bài hát của các mỹ nhân ngư mê li đến nỗi các thương gia phải đổ sáp vào tai để họ không nghe được lời mời gọi quyến rũ đến mức làm cho họ quên mất mình là ai mà nhảy tòm xuống biển tìm các nàng để đi đến chỗ chết đuối. Về những cái thuyền độc mộc trũng lòng với những cột buồm cao có những thủy thủ đu mình trên những sợi dây chão cùng những đám bọt nước xô vào rồi lại dạt ra ì ọp qua cửa sổ thành tàu; về những con hàu nhỏ vốn là những nhà du lịch vĩ đại khi chúng bám dọc theo sống tàu để được đi lại dọc ngang trên đại dương mênh mông, và về cả những con cá mực sống ở hai bên vách đá ngầm, thò những bàn tay dài đen đúa của chúng ra khi chúng muốn làm cho bóng đêm mau kéo đến. Nàng cũng hát về những con ốc anh vũ có riêng cho mình một cái thuyền tạc từ đá opan và lái thuyền bằng một cánh buồm bằng lụa; về những Người Cá vui vẻ chơi đàn harpơ có thể làm cho các loài thủy quái ngủ mê mệt; về những đứa trẻ đuổi bắt được những con cá heo có bộ da trơn bóng, vừa cười vừa cưỡi lên mình cá trong khi nó rẽ nước bơi đi; về cả các Nàng Tiên Cá nằm trên những lớp sóng bạc đầu giơ tay mời gọi những chàng thủy thủ và cả về những con sư tử biển có chiếc ngà cong cong, những con hải mã với chiếc bờm lướt sóng.
Khi Nàng Tiên Cá cất tiếng hát, tất cả các loài thủy tộc nhỏ bé nhô lên từ dưới đáy đến nghe nàng. Chàng đánh cá chỉ việc ném lưới xuống bắt cá; những loài khác chàng bắt bằng xiên. Khi chiếc thuyền của chàng đã đầy cá, Nàng Tiên Cá lại lặn sâu xuống đáy biển, sau khi mỉm cười chào chàng. Tuy vậy, không bao giờ nàng đến gần để cho chàng chạm vào người mình. Thường thì chàng trai cất tiếng gọi nàng và nài nỉ nàng bơi đến gần, nhưng nàng không bao giờ đồng ý còn nếu chàng tìm cách đến gần thì nàng nhanh nhẹn lặn xuống đáy nhanh như một con hải cẩu hoặc là suốt ngày hôm ấy nàng không hiện lên nữa. Mỗi một ngày qua đi tiếng hát của nàng lại trở nên ngọt ngào hơn, say đắm hơn đối với chàng trai trẻ. Rồi đến một ngày tiếng hát trở nên tuyệt vời đến nỗi nó làm chàng quên mất cả lưới cũng như cái thuyền đánh cá. Những con cá ngừ đại dương với bộ vây đỏ như son và cặp mắt lồi màu vàng bơi vào lưới chàng từng đàn nhưng chàng cũng không thèm chú ý đến. Chiếc lao đánh cá nằm bên cạnh chàng, bất động; những sọt cá đan bằng miên liễu trống rỗng. Với đôi môi hé mở, đôi mắt nhìn xa mơ mộng, chàng ngồi lặng trên thuyền lắng nghe tiếng hát, nghe mãi cho đến khi màn sương mù trên biển buông xuống quanh chàng và vầng trăng lơ đễnh dát bạc lên cánh tay sậm màu nắng gió của chàng. Rồi một đêm không đợi lâu hơn nữa chàng kêu nàng lên và bảo: “Nàng Tiên Cá bé bỏng ơi, ta yêu nàng. Hãy bằng lòng nhận ta làm chồng bởi ta yêu nàng quá đỗi”.
Nàng Tiên Cá lắc đầu: “Chàng mang linh hồn con người. Nếu chàng có thể từ bỏ linh hồn ấy thì thiếp mới có thể yêu chàng”.
Thế là chàng đánh cá tự nhủ: “Linh hồn thì có ích gì đối với mình kia chứ. Mình không thể nhìn thấy nó. Cũng không thể chạm tay vào, chẳng hề biết nó là cái gì hết. Chắc chắn là mình sẽ tống khứ nó đi mà vẫn sung sướng là chính mình”. Với một tiếng kêu hân hoan vui sướng, chàng đứng lên trên chiếc thuyền đánh cá, đưa cả hai tay về phía Nàng Tiên Cá:
“Ta sẽ từ bỏ linh hồn của mình, rồi nàng sẽ là cô dâu của ta, còn ta là chú rể của nàng. Dưới đáy biển sâu chúng ta sẽ được bên nhau. Nàng sẽ hát cho ta nghe, đó là tất cả những gì mà ta khao khát và tất cả những gì mà nàng ao ước, ta nguyện sẽ làm cho nàng, nếu không cuộc sống của chúng ta mãi mãi sẽ bị chia lìa.” Nàng Tiên Cá bật cười vì sung sướng, vội giấu mặt sau những cánh tay, e thẹn.
“Nhưng ta phải đuổi linh hồn của mình đi như thế nào đây?” Chàng đánh cá kêu lên. “Nàng hãy cho ta biết cần phải làm gì và ta sẽ làm ngay”.
“Chính thiếp cũng không biết phải làm thế nào. Những cư dân đại dương không có linh hồn.” Nàng nói và lặn sâu xuống nước, đôi mắt đẹp ngước nhìn chàng, tha thiết.
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời nhô cao lên khỏi đỉnh đồi chừng một sải tay, chàng đánh cá đã tìm đến nhà vị Giáo sĩ, gõ lên cánh cửa ba lần. Một thầy tu trẻ nhìn qua cái cửa xếp, khi đã nhận rõ mặt người khách, anh ta mới kéo then cửa và nói: “Mời vào!”
Chàng đánh cá bước vào, quỳ xuống sàn nhà thơm mùi gỗ bấc, kêu to với vị giáo sĩ đang đọc một cuốn kinh thánh to tướng và bảo: “Thưa cha, con đang yêu một cư dân của biển khơi, nhưng linh hồn con đã ngăn cản những khát khao của con. Xin cha hãy cho con biết làm cách nào con có thể xua đuổi linh hồn của mình bởi vì sự thật là con không cần đến nó nữa. Mà nói trắng ra, nó thì có giá trị gì với con kia chứ? Con không thấy nó, không thể chạm đến nó và không biết nó là cái giống gì nữa.”
Giáo sĩ đánh vào ngực chàng và nói: “Than ôi, con điên mất rồi, hoặc là con đã ăn phải một loài cây độc, bởi vì linh hồn là phần cao quý nhất của một con người, được chính Chúa lòng lành ban cho chúng ta và chúng ta phải sử dụng nó một cách cao quý. Trên đời này không có gì quý giá hơn linh hồn con người và không một vật gì trên trần thế có thể so sánh được với nó. Linh hồn giá trị hơn tất cả vàng trên trái đất, quý báu hơn tất cả những viên hồng ngọc của tất cả những ông vua. Vì vậy, con của ta ạ, đừng nghĩ đến vấn đề này nữa, đó là một tội lỗi không có cách gì tha thứ được. Còn những cư dân ngoài đại dương, đó là những sinh vật khác loài, người nào đi với chúng cũng lầm đường lạc lối hết. Đó là những con thú ngoài cánh đồng cỏ không biết phân biệt tốt xấu và với chúng Chúa trời còn chưa chết”.
Đôi mắt chàng trai đẫm lệ khi nghe những lời phũ phàng từ miệng giáo sĩ. Chàng đứng lên nói: “Thưa cha, Thần Đồng Áng sống trong rừng và rất vui vẻ. Ngồi trên những tảng đá là Người Cá với những cây đàn harpơ bằng vàng đỏ. Hãy để cho con được sống như họ, con cầu xin cha đấy bởi vì tháng ngày của họ là tháng ngày của những đóa hoa. Còn linh hồn con, nó có ích gì cho con đâu nếu nó ngăn cản con với cái mà con yêu?”
“Tình yêu của thân xác chính là điều xấu xa” Giáo sĩ kêu lên, đôi lông mày giao nhau trên tinh mũi, “cái xấu xa và cái ác chính là những thế lực hắc ám, tà đạo mà Chúa trời phải chịu đựng khi người đi lạc trong thế gian này. Vị Thần Đồng Áng đáng nguyền rủa nơi nội cỏ! Những ca sĩ đáng nguyền rủa dưới đáy đại dương! Than ôi, chính ta cũng nghe tiếng gọi của chúng khi màn đêm buông xuống, chúng tìm cách quyến rũ ta xao nhãng việc đọc kinh. Chúng gõ lên cánh cửa sổ buồng ta và cười khanh khách. Chúng thì thầm bên tai ta câu chuyện về những niềm vui đầy tội lỗi. Chúng cố lôi cuốn ta với bao cám dỗ và khi ta cầu nguyện chúng kề môi sát miệng ta. Đó là những kẻ sa ngã, ta cho con biết đó chính là những kẻ sa ngã. Với chúng chẳng có thiên đường cũng không có địa ngục mà chúng cũng chẳng hề biết đến Chúa trời.”
“Thưa cha!” chàng trai kêu lên, “cha chẳng biết rõ những điều cha đang nói đâu. Một lần con kéo lưới bắt được Công chúa con vua Thủy Tề. Nàng còn rực rỡ hơn sao mai, trong ngần hơn cả Hằng nga. Vì cơ thể nàng con sẵn lòng cho đi chính linh hồn mình, vì tình yêu của nàng con sẽ chống lại cả thiên đình. Hãy nói cho con biết điều con cần ở cha và hãy để con ra đi trong yên lành”.
“Cút đi! Cút đi!” Giáo sĩ giận dữ kêu lên, “tình nhân của ngươi là kẻ khác loài và ngươi cũng sẽ lầm đường lạc lối với nó.” Thế là giáo sĩ không những không ban phúc cho chàng mà còn đuổi cổ chàng ra khỏi cửa.
Chàng đánh cá thất thểu ra ngoài chợ, chàng lê từng bước, đầu cúi gục như một người đang tột cùng đau khổ.
Khi các thương nhân thấy chàng đi đến gần, họ thì thầm với nhau về chàng, rồi một người bước lại gần, gọi tên chàng và nói: “Anh có cái gì để bán không?”
“Tôi sẽ bán cho ông chính linh hồn của tôi. Cầu xin ông hãy mua nó dùm tôi bởi vì tôi đã mệt mỏi vì nó lắm rồi. Nó thì có ích gì cho tôi kia chứ? Tôi không thấy nó, không chạm được vào nó, không biết nó là cái quái gì hết.”
Những tay lái buôn mỉa mai nhìn chàng và nói: “Linh hồn của một con người thì có ích gì với chúng tôi kia chứ? Nó không đáng một đồng xu sứt. Nếu bán con người anh như một tên nô lệ, thì chúng tôi sẽ mặc cho anh một bộ quần áo dân chài, sẽ đeo nhẫn lên ngón tay anh và biến anh thành một kẻ nô lệ của Nữ hoàng vĩ đại. Đừng nói chuyện linh hồn với tôi, nó chẳng là cái gì cả và không mảy may có giá trị đối với công cuộc làm ăn của chúng tôi”.
Chàng đánh cá bỏ đi, bụng bảo dạ: “Lạ lùng làm sao! Giáo sĩ thì bảo mình là linh hồn giá trị hơn tất cả vàng bạc trên đời, còn mấy con buôn thì nói nó không đáng giá một đồng xu sứt.” Thế là chàng ra khỏi khu vực buôn bán đi về phía bờ biển vắt óc ra nghĩ xem mình nên làm gì.
Đến trưa chàng sực nhớ ra một việc, một trong những người quen của chàng làm nghề thu gom cỏ xanhpie có lần đã kể cho chàng nghe về một phù thủy sống trong một cái hang ở đầu kia vịnh. Đó là một phù thủy khôn ngoan, tinh thông phép thuật. Chàng đứng bật ngay lên, ba chân bốn cẳng chạy về hướng cái hang vì chàng nóng lòng muốn rũ bỏ linh hồn. Một đám mây bụi cuộn lên sau chân chàng khi chàng chạy hùng hục trên bãi cát dọc bờ biển.
Khi thấy ngứa ngáy trong lòng bàn tay, phù thủy biết chàng đang đi đến. Cô ả cười khanh khách rồi xõa mái tóc đỏ rực. Với mái tóc đỏ đổ xuống như dòng suối lửa bao quanh người, phù thủy ra đứng trước cửa hang, trên tay cầm một nhánh độc cần đang nở hoa: “Ngươi thiếu cái gì?” Phù Thủy hỏi khi thấy chàng trai thở hổn hển chạy đến rồi quỳ gối trước mặt mình. “Muốn cá vào lưới của ngươi khi trời trở gió ư? Ta có một cái ống sáo bằng cây sậy, khi ta thổi lên thì cá đối sẽ ùa nhau vào vịnh. Nhưng giá nó khá đắt đấy cậu bé ạ, cái gì cũng có cái giá của nó hết.
“Ngươi cần cái gì? Một trận giông tố đánh đắm các con tàu và sóng đẩy những cái rương đầy châu báu lên bãi biển ư? Ta còn có trong tay nhiều trận bão hơn là bản thân Thần Gió, bởi vì ta phục vụ cho một người còn mạnh hơn cả gió. Chỉ với một cái rây và một xô nước ta có thể nhận những con tàu vững chắc nhất xuống đáy đại dương. Nhưng ta có một sự trao đổi cậu bé ạ.
Ngươi muốn cái gì? Ta biết một bông hoa mọc trong thung sâu, không một ai biết nó, ngoài ta ra. Những cánh hoa màu tím, một ngôi sao ở giữa nhụy hoa và mật của nó trắng như sữa. Nếu ngươi chạm bông hoa này vào đôi môi cương nghị của Hoàng hậu, nàng sẽ đi theo ngươi đến cùng trời cuối đất. Nàng sẽ nhảy ra khỏi giường của đấng quân vương và dù có phải đạp bằng cả thế giới nàng cũng sẽ đi theo ngươi. Nhưng phải có một cái để đánh đổi lấy nó đấy, cậu bé xinh trai kia ạ.
Ngươi thích cái gì? Ta có thể nghiền một tên đáng ghét ra thành vữa rồi quậy ra thành nước lèo bằng bàn tay người chết. Tưới thứ nước đó lên kẻ thù của ngươi trong lúc hắn đang ngủ, biến hắn thành một con rắn độc đen như bóng đêm, buộc mẹ hắn phải ra tay giết hắn. Với một bánh xe ta có thể bay từ mặt trăng đến thiên đình và với một quả cầu pha lê ta có thể cho ngươi gặp Thần Chết. Ngươi khao khát cái gì? Hãy nói cho ta biết ước muốn của ngươi ta sẽ làm ngay cho ngươi rồi ngươi sẽ trả lại cho ta một thứ cậu bé xinh trai ạ.”
“Khát vọng của tôi chỉ là một cái gì rất tầm thường vậy mà Giáo sĩ đã nổi giận và tống cổ tôi ra cửa. Nó cũng chỉ là một cái gì không đáng kể thế mà các tay lái buôn đã chế giễu tôi và khước từ. Chính vì thế mà tôi đến đây dù người ta có thể coi đây là một tội lỗi và mặc cho cái giá mà tôi phải trả đắt ra sao?”
“Vậy ngươi muốn điều gì?” Phù thủy hỏi, bước đến gần chàng đánh cá.
“Tôi muốn từ bỏ linh hồn mình.”
Mụ phù thủy chợt tái mặt, run rẩy khắp cả người rồi giấu mặt sau cái áo khoác màu xanh. “Chàng trai đáng thương, chàng trai đáng thương, đó là một việc làm kinh khủng lắm”.
Chàng trai vò rối tung mái tóc nâu dợn sóng, cất tiếng cười ha hả. “Linh hồn chẳng là cái gì đối với tôi hết. Tôi không thấy nó, không chạm được vào nó và cũng không biết nó.”
“Vậy ngươi sẽ đưa cho ta cái gì nếu ta bảo cho ngươi biết linh hôn là cái gì?” Mụ phù thủy hỏi nhìn chàng với đôi mắt tuyệt đẹp của mình.
“Năm đồng vàng, cái lưới đánh cá, túp lều tranh mà tôi đang sống, chiếc thuyền câu mà tôi đi đánh cá hàng ngày. Chỉ cần nói cho tôi biết cách rũ bỏ tâm hồn mình tôi sẽ sẵn lòng cho đi tất cả những gì mà tôi có”.
Phù thủy cười giễu cợt, dùng cành hoa độc cần phất phất lên người chàng: “Ta có thể biến lá vàng rơi rụng giữa mùa thu thành vàng, ta cũng có thể dệt ánh trăng suông thành chỉ bạc nếu muốn. Ông chủ của ta giàu có hơn tất cả các bậc vua chúa cùng vương quốc của họ cộng lại”.
“Vậy bà cần gì nếu cái giá bà đưa ra không phải vàng hay bạc?”
Phù thủy đưa tay ra vuốt tóc chàng trai bằng bàn tay trắng trẻo, mảnh dẻ: “Ngươi phải nhảy múa cùng ta cậu bé xinh trai ạ.” Mụ vừa cười vừa thì thầm nói với chàng.
“Không còn gì nữa sao?” chàng trai ngạc nhiên kêu lên và đứng phắt dậy.
“Không còn gì khác cả,” phù thủy đáp, lại mỉm cười với chàng trai.
“Khi mặt trời lặn chúng ta sẽ khiêu vũ cùng nhau ở một nơi bí mật nào đó,” chàng trai nói, “sau đó bà sẽ nói cho tôi biết cái điều mà tôi đang khao khát muốn biết”.
Phù thủy lắc đầu: “Đến khi trăng tròn, đến khi trăng tròn,” mụ đưa mắt nhìn quanh như để tai lắng nghe. Một con chim màu cánh trả kêu chíu chít từ tổ bay ra, lượn vòng vòng quanh cồn cát, ba con chim lông lốm đốm bay sột soạt qua một lùm cỏ xám xơ xác, con nọ gù gù gọi con kia. Trong không gian không còn âm thanh gì ngoài tiếng sóng vỗ bồn chồn vào bãi sỏi mịn trong phía dưới. Thế là mụ phù thủy đưa tay ra, kéo chàng trai lại gần, ghé đôi môi khô vào sát tai chàng.
“Tối nay ngươi phải trèo lên đỉnh núi,” mụ thì thầm. “Đó là Sabbath và ngài sẽ có mặt ở đó.”
Chàng trai giật mình đưa mắt nhìn mụ còn mụ thì cười, phô hàm răng trắng.
“Sabbath mà bà nói đến là ai vậy?”
“Điều đó không có gì quan trọng. Tối nay cứ đến đấy, đứng đợi dưới gốc cây trăn rồi ta sẽ đến. Nếu có một con chó mực chạy đến thì hãy đuổi nó đi bằng một cành miên liễu, nó sẽ bỏ đi thôi. Nếu có một con cú nói chuyện với ngươi thì đừng trả lời. Đúng lúc trăng tròn nhất ta sẽ đến với ngươi, chúng ta sẽ cùng nhau nhảy múa trên bãi cỏ.”
“Nhưng bà có thề với tôi là sẽ nói cho tôi cách để đoạn tuyệt với linh hồn mình không?”
Phù thủy di chuyển toàn thân dưới ánh mặt trời, mái tóc đỏ rực phất phơ trong làn gió nhẹ.
“Nhân danh cái móng dê, ta xin thề.”
“Bà quả là một phù thủy tốt nhất trong các phù thủy,” chàng đánh cá nồng nhiệt kêu lên, “chắc chắn tối nay tôi sẽ nhảy múa với bà trên đỉnh núi. Tôi rất cảm kích bà đã không đòi tôi phải đưa vàng đưa bạc. Bà sẽ có điều mình muốn để đổi lại việc mà bà sẽ làm cho tôi.” Chàng trai ngả mũ, nghiêng mình thật thấp để chào mụ rồi chạy về thị trấn ven biển, lòng dào dạt niềm vui.
Phù thủy nhìn theo, cho đến khi bóng chàng đã khuất xa tầm mắt mụ mới quay vào trong hang lấy ra một cái gương từ trong một cái hộp làm bằng gỗ tuyết tùng rồi đặt cái gương lên kệ, đốt một chất bột gì đó trước cái lò than con ong và nhìn qua những cuộn khói bốc lên. Một lát sau, mụ nắm chặt hai bàn tay lại vì giận dữ: “Chàng trai sẽ phải là của ta, bởi vì ta cũng xinh đẹp chẳng kém gì cô ả”.
Buổi tối, khi trăng bắt đầu lên cũng là lúc chàng đánh cá leo lên đỉnh núi và đứng đợi dưới gốc cây trăn. Giống như một cái đĩa kim loại khổng lồ sáng bóng, biển êm đềm trải ra vô tận dưới chân chàng. Xa xa thấp thoáng bóng những con tàu đánh cá di chuyển trong cái vịnh nhỏ. Một con cú lớn có đôi mắt phát ra ánh lưu huỳnh màu vàng gọi tên chàng nhưng chàng không đáp. Một con chó mực chạy về phía chàng nhe răng gầm gừ. Chàng bẻ một cành liễu xua nó đi và con chó cụp đuôi lại bỏ đi, vừa đi vừa rên ư ử.
Vào lúc nửa đêm bầy phù thủy bay đến như một đàn dơi. “Phù!” Chúng kêu lên khi đáp xuống đất, “làm như có một ai ở đây mà bọn ta không biết!” Chúng hít hít, đánh hơi, í ới nói chuyện với nhau và ra dấu. Người cuối cùng xuất hiện chính là phù thủy nọ, mái tóc dài màu đỏ bay tung trong gió. Mụ mặc một tấm áo dài thêu con mắt chim công, đầu đội một chiếc mũ nhung xanh xinh xinh.
“Hắn ở đâu, hắn ở đâu?” Bầy phù thủy nhao nhao hỏi khi thấy mụ, nhưng mụ chỉ cười, chạy đến gần cây trăn, dắt tay chàng đánh cá ra ngoài một trảng cỏ dát đầy ánh trăng và họ cùng nhảy múa.
Quay tròn, quay tròn, phù thủy nhảy lên cao đến mức chàng trai có thể nhìn thấy cả cái gót giày màu đỏ của mụ. Chợt vẳng đến tai các vũ công tiếng vó ngựa phi nước đại, nhưng chẳng thấy bóng một con ngựa nào và chàng cảm thấy sợ hãi.
“Nhanh hơn nữa.” Phù thủy kêu lên, quàng tay quanh cổ chàng, hơi thở nóng hổi của mụ phả lên mặt chàng. “Nhanh hơn, nhanh hơn nữa!” Mụ kêu to, mặt đất chòng chành dưới chân chàng, đầu óc chàng bấn loạn và một nỗi kinh hoàng chụp xuống người chàng như thể có một cái gì đặc biệt xấu xa đang quan sát chàng, cuối cùng chàng nhận ra là dưới bóng một tảng đá lớn có một hình thù trước đấy chàng chưa từng nhìn thấy.
Đó là một người đàn ông mặc một bộ nhung đen cắt theo kiểu của người Tây Ban Nha. Khuôn mặt hắn xanh nhợt một cách khác thường trong khi đôi môi đỏ làm như vừa mới uống máu. Hắn tỏ vẻ mệt mỏi, tựa lưng vào tảng đá, uể oải nghịch một con dao găm. Trên bãi cỏ dưới chân hắn có vứt chiếc mũ có gắn lông chim, một đôi găng tay chiến binh viền đăng ten có đính những viên ngọc theo một họa tiết rất lạ mắt. Một chiếc áo khoác ngắn có những dải lông chồn rủ xuống từ hai vai, đôi bàn tay trắng, thanh tú lấp lánh những cái nhẫn. Đôi lông mi dày và rậm rủ xuống che cặp mắt khép hờ. Khi chàng đánh cá nhìn hắn, có một cái bẫy được giương ra. Cuối cùng đôi mắt họ gặp nhau và dù chàng trai cùng bạn nhảy xoay đến chỗ nào thì đôi mắt của hắn vẫn chụp lên người chàng. Chàng nghe phù thủy cất tiếng cười và chàng ôm chặt lấy eo cô ả, xoay tròn, xoay tròn như điên. Chợt có tiếng chó sủa trong rừng, các vũ công dừng lại, từng đôi từng đôi một đến trước người đàn ông, quỳ xuống trịnh trọng hôn tay hắn. Trong lúc họ tiến hành nghi lễ ấy, một nụ cười phớt qua trên đôi môi kiêu hãnh của hắn, như đôi cánh của một con chim lướt qua trên mặt nước và làm dòng nước xôn xao. Nhưng trên mặt người đàn ông không có nụ cười chỉ có một vẻ khinh miệt. Hắn vẫn không rời mắt khỏi chàng trai.
“Lại đây! Chúng ta phải bày tỏ lòng ngưỡng mộ,” Phù thủy thì thầm rồi dẫn chàng đi. Một ước muốn mãnh liệt muốn làm theo lời của mụ chiếm lĩnh linh hồn chàng và chàng lặng lẽ đi theo. Nhưng khi chàng đến gần người đàn ông – không ý thức được việc mình làm – chàng đã đưa tay lên ngực làm dấu thánh giá và gọi tên Chúa.
Đúng lúc ấy bầy phù thủy kêu ré lên như một bầy diều hâu hoảng loạn rồi đập cánh bay đi. Khuôn mặt xanh xao kì lạ đang quan sát chàng dúm dó lại vì một cơn đau ghê gớm nào đó. Người đàn ông quay lưng đi vào cánh rừng nhỏ, vừa đi vừa huýt sáo. Một con ngựa nhỏ giống Tây Ban Nha với bộ yên cương bằng bạc từ trong rừng chạy ra. Khi hắn nhảy lên mình ngựa, hắn còn ngoái đầu nhìn chàng đánh cá với đôi mắt buồn rầu, luyến tiếc.
Phù thủy với mái tóc đỏ toan bay đi nhưng chàng đánh cá đã túm lấy cổ tay ả, giữ chặt.
“Thả ta ra, hãy để cho ta đi. Ngươi đã gọi một cái tên không được phép gọi và làm một dấu hiệu không được phép làm”.
“Tôi sẽ không để cho bà đi nếu bà không nói cho tôi biết đều bí mật”.
“Bí mật nào?” Phù thủy hỏi lại, vật lộn với chàng như một con mèo hoang trong lúc mắm môi mắm lợi lại.
“Bà biết rõ tôi muốn cái gì!.”
Đôi mắt màu xanh cỏ non của phù thủy mờ lệ và mụ nói với chàng đánh cá: “Hãy hỏi ta bất cứ điều gì ngoại trừ điều đó”.
Chàng bật cười, vẫn giữ mụ rất chặt.
Khi thấy mình không thể giằng ra khỏi bàn tay chàng trai trẻ, phù thủy thì thầm vào tai chàng: “Chắc chắn là ta cũng xinh đẹp như các cô con gái của biển cả và cũng hấp dẫn như các cư dân trong vùng nước xanh.” Mụ mơn trớn và định ghé mặt sát vào mặt chàng.
Nhưng chàng trai đã cau mày, xô vào người mụ mà nói: “Nếu bà không thực hiện lời hứa của mình, tôi sẽ giết bà như giết một con mụ phù thủy tồi tệ.”
Phù thủy xám ngắt lại như đóa hoa trên một thân cây phản trắc, rung chuyển từ gốc đến ngọn. “Cứ làm như thế đi. Đó là tâm hồn của người chứ không phải của ta. Cứ làm như là ngươi muốn.” Nói xong mụ rút từ trong thắt lưng ra một con dao nhỏ có tay cầm làm bằng da rắn lục đưa cho chàng.
“Cái này thì có ích gì cho tôi?” Chàng trai ngạc nhiên hỏi.
Phù thủy im lặng một lúc, một vẻ kinh hoàng bao trùm lên khuôn mặt của mụ. Đoạn mụ xõa mái tóc dài ra trước, mỉm cười với một vẻ quái dị rồi nói: “Cái mà con người gọi là bóng của thân xác thì không phải là như vậy mà chính là cái bình đựng linh hồn. Hãy quay mặt về phía biển quay lưng về phía mặt trăng, cắt một đường quanh cái bóng dưới chân ngươi, đó chính là linh hồn ngươi, làm như vậy, linh hồn sẽ rời bỏ ngươi ra đi.”
Chàng trai trẻ run rẩy khắp cả người. “Đúng thế chứ?”, chàng lẩm bẩm.
“Đúng vậy và ta ước gì ta không phải là người nói với ngươi điều này.” Phù thủy kêu lên, sụp xuống chân chàng trai, nức nở.
Chàng trai đẩy phù thủy ra, để lại mụ một mình trên bãi cỏ, đi đến dốc núi, chàng dừng lại dắt con dao nhỏ vào thắt lưng và bắt đầu xuống núi.
Linh hồn vốn từ hồi nào đến giờ vẫn yên ổn trong chàng, gọi tên chàng lên và nói: “Lạ thật, tôi vẫn sống trong ông suốt bao nhiêu năm qua và là người đầy tớ tận trung với ông chủ. Nay ông muốn đuổi tôi đi, phải chăng tôi đã làm gì nên tội?”
Chàng trai bật cười: “Ngươi chẳng làm hại gì đến ta nhưng ta không cần đến ngươi. Thế giới này vô biên, có cả Thiên đường và Địa ngục cùng một ngôi nhà tranh tối tranh sáng giữa hai nơi đó. Hãy đi đến nơi nào mà mi muốn, có điều đừng làm phiền ta nữa bởi vì tình yêu của ta đang vẫy gọi ta.”
Linh hồn năn nỉ chàng đánh cá hết lời nhưng chàng một mực không lay chuyển, chỉ lầm lũi nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác với những bước đi kiên định vững vàng như một con dê núi. Cuối cùng chàng cũng xuống dưới mặt đất và bờ biển vàng hiện ra trước mắt chàng.
Toàn thân sáng lên như một pho tượng đồng tuyệt đẹp của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp, chàng trai đứng trên bãi cát quay lưng về phía mặt trăng. Những ngọn sóng bạc đầu chìa những cánh tay trắng vẫy gọi chàng và xa xa phía trên những lớp sóng có những bóng hình mờ mờ ảo ảo làm những cử chỉ tôn kính về phía chàng. Trước mặt chàng là cái bóng của chàng đổ dài xuống cát, đó cũng chính là linh hồn chàng. Và sau chàng, cao cao trên đầu là vầng trăng lơ lửng, đổ xuống trần dải ánh sáng màu mật ong.
Linh hồn cất tiếng van vỉ lần nữa: “Nếu quả thực ông nhất định rũ bỏ tôi, hãy để cho tôi ra đi cùng với trái tim ông. Cuộc đời này là một chốn cay độc xấu xa, hãy để trái tim làm bạn đồng hành với tôi.”
Chàng trai lắc đầu rồi nở một nụ cười buồn: “Vậy ta sẽ yêu như thế nào nếu cho ngươi trái tim của ta?”
“Xin ông hãy rủ lòng thương, hãy cho tôi trái tim ông. Thế gian này độc ác vô chừng và tôi lấy làm sợ hãi.”
“Trái tim là nơi tình yêu ta trú ngụ, thôi đừng chần chừ nữa, từ nay chúng ta đi đường ai nấy đi.”
“Như vậy, tôi không được yêu hay sao?” Linh hồn hỏi.
“Hãy đi đi, ta không còn cần đến ngươi nữa,” chàng trai kêu lên dứt khoát, rồi rút từ thắt lưng ra con dao nhỏ có tay cầm làm bằng da rắn lục, cắt một đường quanh cái bóng dưới chân mình. Cái bóng vươn dậy, đứng đối diện với chàng, nhìn chàng, nó cũng cao bằng chàng.
Chàng trai nhảy lùi lại một bước, dắt dao vào thắt lưng, một cảm giác ớn lạnh chụp lên người: “Ngươi hãy đi đi, đừng để ta nhìn thấy mặt ngươi nữa.”
“Không, chúng ta còn phải gặp nhau,” Linh hồn nói. Giọng nó trầm, réo rắt như tiếng sáo, đôi môi hầu như không mấp máy trong khi âm thanh vẫn phát ra.
“Chúng ta gặp nhau như thế nào?” Chàng trai kêu lên. “Ngươi không định theo ta xuống biển sâu đấy chứ?”
“Mỗi năm một lần tôi sẽ đến chỗ này, gọi ông lên,” Linh hồn nói: “Rất có thể là ông cũng cần đến tôi.”
“Ta cần đến ngươi làm cái quái gì kia chứ? Nhưng thôi ngươi cứ đi mà làm cái mà ngươi muốn”. Nói rồi chàng trai nhảy tòm xuống nước, các vị thủy thần nửa người nửa cá thổi vào những cái khèn, Nàng Tiên Cá nhô lên trên lớp sóng đón chàng, quàng hai tay quanh cổ chàng, hôn lên môi chàng.
Linh hồn đứng một mình trên bãi biển hiu quạnh tràn ngập ánh trăng thanh, nhìn theo đôi tình nhân. Khi họ chìm sâu xuống nước, nó bỏ đi, nước mắt nhỏ xuống thành vũng dưới chân.
Một năm sau Linh hồn quay lại bãi biển, tha thiết gọi chàng đánh cá lên. Chàng trai nhô lên từ đáy biển, hỏi vọng vào bờ: “Tại sao ngươi lại gọi ta?”
“Hãy bơi vào gần đây, tôi có chuyện muốn nói với ông chủ vì tôi đã gặp nhiều điều rất thú vị.”
Thế là chàng trai bơi vào bờ, nằm xuống chỗ nước cạn, gối đầu lên một cánh tay và lắng nghe.
“Khi ông bỏ tôi mà đi, tôi quay mặt về hướng Đông bắt đầu cuộc hành trình. Những gì khôn ngoan và thông thái đều bắt đầu từ phương Đông. Tôi cứ đi như thế được 6 ngày, đến ngày thứ bảy thì đến một ngọn đồi thuộc về phần đất của người Tartar. Tôi ngồi dưới bóng một cây liễu bách để tránh ánh mặt trời chói chang. Mảnh đất bốn chung quanh khô cằn cháy sém dưới một mặt trời như đổ lửa xuống trần. Con người chỉ ghé qua hoang mạc xơ xác này như lũ ruồi bò trên một chiếc đĩa bằng đồng trơn bóng.
Đến trưa thì có một đám mây bụi đỏ bốc lên từ đàng xa. Khi những người Tartar nhìn thấy thế, bọn đàn ông vội kéo căng dây cung nhảy lên lưng ngựa phóng đến chỗ đó. Bọn đàn bà vừa la oai oái vừa bỏ trốn trên các cỗ xe chở hàng, núp mình sau các tấm rèm.
Vào lúc trời sập tối cánh đàn ông quay về, năm người đã bị bỏ lại phía sau, một số kẻ bị thương. Số còn lại thắng ngựa vào xe và vội vã bỏ đi. Có ba con chó rừng từ trong một cái hang lao ra, nhìn theo họ. Rồi chúng nghếch mũi lên trời đánh hơi và bỏ chạy theo hướng ngược lại. Khi trăng mọc, tôi thấy một ngọn lửa trại bập bùng cháy trên hoang mạc bèn tìm đường đi về hướng đó. Có một tốp nhà buôn đang ngồi quanh đống lửa, trên những tấm thảm, những con lạc đà bị buộc lại, phía sau họ những người nô lệ da đen đang dựng lều bằng da thuộc trên bãi cát và làm một bức tường cao từ một cây lí gai.
Khi tôi đến gần, người đứng đầu đoàn lái buôn đứng dậy, rút gươm ra và hỏi tôi có công việc gì mà đến đây. Tôi bèn đáp rằng tôi là một Hoàng tử và rằng tôi vừa trốn khỏi quân Tartar, bọn chúng đang tìm bắt tôi làm nô lệ. Người thủ lãnh mỉm cười, chỉ cho tôi thấy 5 cái thủ cấp xiên vào một cây tre dài. Đoạn ông ta hỏi tôi ai là nhà tiên tri của Chúa trời và tôi đáp đó chính là Mohammed. Khi nghe thấy cái tên nhà tiên tri giả trá này, ông ta cúi đầu, cầm lấy tay tôi dẫn tôi đến ngồi bên cạnh ông. Một người nô lệ mang đến cho tôi sữa ngựa đựng trong một chiếc đĩa gỗ và một miếng thịt cừu nướng.
Ngày hôm sau trời vừa rạng sáng chúng tôi đã lên đường. Tôi cưỡi trên lưng một con lạc đà lông đỏ đi ngay cạnh thủ lĩnh. Một chiến binh chạy trước chúng tôi mang một cái giáo rất dài. Những chiến binh khác chạy ở hai cánh, đàn la đi tập hậu với những người lái buôn. Đoàn người có cả thảy 40 con lạc đà, số la thì nhiều hơn gấp đôi.
Chúng tôi từ đất nước của người Tartar đi vào đất nước của những người nguyền rủa mặt trăng. Chúng tôi gặp những người Âu mới đến Ấn Độ đang đứng canh gác vàng của họ trên những tảng đá trắng. Những con rồng có vảy nằm ngủ trong hang động. Khi đi ngang qua vùng núi, không ai dám thở vì sợ bão tuyết có thể đổ ập xuống và mỗi người đàn ông đều che mạng bằng sa. Khi đoàn người đi qua các thung lũng, người lùn Pigmê bắn tên vào chúng tôi từ những đầm lầy mọc đầy cây dưới nước, đêm đến chúng tôi nằm nghe những tộc người man rợ đánh trống, khua chiêng suốt đêm. Khi đến ngọn tháp của bọn Vượn chúng tôi để trái cây trước mặt chúng để chúng không chọc phá chúng tôi. Khi đi qua tháp của loài rắn chúng tôi đổ sữa ấm vào những cái tô đồng đưa cho chúng uống và chúng để cho đoàn người đi qua yên lành. Ba lần cuộc hành trình đưa chúng tôi đến bờ sông Oxus. Chúng tôi vượt sông trên những chiếc bè gỗ có những quả bong bóng lớn thổi đầy hơi giấu ở bên dưới. Những con hà mã dữ tợn nhe nanh, chỉ chực ăn sống nuốt tươi chúng tôi. Cả những con lạc đà nhìn thấy chúng cũng phải sợ nữa.
Các ông vua ở những vùng đất chúng tôi đi qua đều bắt chúng tôi nộp thuế nhưng không gây phiền hà gì, khi chúng tôi đặt chân lên lãnh địa của họ. Dân sở tại ném qua tường cho chúng tôi lương ăn: nào bánh bột ngô nướng với mật, bánh làm bằng thứ bột mì hảo hạng có trộn với quả chà là. Bởi vì cứ một trăm giỏ bánh như vậy chúng tôi lại đổi cho họ một chuỗi hạt hổ phách.
Khi cư dân của một số thôn làng nhìn thấy chúng tôi đi đến họ đã bỏ thuốc độc xuống giếng rồi bỏ trốn lên các đỉnh đồi lân cận. Chúng tôi đánh nhau với người Magadae sinh ra đã là những người già, càng lớn lên lại càng trẻ ra mãi và cho đến lúc chết thì trong hình dạng của hài nhi. Chiến đấu với người Laktroi, họ tuyên bố mình là những đứa con của hổ dữ, sơn khắp người họ những vằn sọc màu vàng và đen; cầm cự với người Aurantes có phong tục chôn người chết trên ngọn cây, bản thân họ thì sống trong những cái hang tăm tối vì sợ Thần Mặt Trời – chúa tể của họ sẽ tàn sát họ hàng loạt. Chúng tôi cũng đụng độ với người Krimny – giống người thờ phụng loài cá sấu, họ đeo hoa tai bằng thủy tinh xanh cho cá sấu và nuôi loài này bằng sữa và thịt loài thú hai chân tươi sống. Chúng tôi cũng giao tranh với giống người Agozonbae có cái mặt hao hao giống loài khuyển; chạm trán với người Siban có cái chân giống chân ngựa và chạy nhanh hơn cả loài này nữa. Một phần ba số người trong đoàn chết trong các trận giao tranh, một phần ba chết vì đói khát. Số còn lại xì xào sau lưng tôi, tung tin rằng tôi đã mang đến mọi xui xẻo cho họ. Tôi bèn bắt một con rắn cực độc loài vaipơ có sừng để cho nó cắn mình. Khi người ta thấy tôi vẫn không hề hấn gì họ còn sợ tôi hơn nữa.
Đến tháng thứ tư chúng tôi đi đến thành phố của người Itel. Trời vừa tối thì chúng tôi đi đến một cánh rừng nhỏ ngoài thành phố, không khí oi bức khó chịu vì mặt trăng đang phiêu du ở vùng Scorpion. Mọi người hái những trái lựu chín trên cành, ép lấy chất nước ngòn ngọt của nó uống cho đỡ khát rồi nằm trên những tấm thảm phương Đông đợi trời sáng.
Khi mặt trời vừa nhô lên ở đường chân trời chúng tôi bật dậy, đến gõ vào cánh cổng thành. Người gác đứng nhìn xuống từ những lỗ châu mai hỏi giấy thông hành. Người thông ngôn đáp chúng tôi đến từ hòn đảo ở Syria với những món hàng trao đổi, buôn bán. Họ bắt giữ một vài con tin, bảo chúng tôi họ sẽ mở cổng thành vào buổi trưa và buộc chúng tôi đợi cho đến lúc ấy.
Đến trưa họ mở cổng thành thật, khi chúng tôi đi vào phố, người ta đổ ra đứng đầy đường nhìn chúng tôi diễu qua. Có một anh mõ đi rao khắp thành phố với một cái tù và. Chúng tôi đứng trong khu chợ, những người nô lệ da đen mở tung các súc vải và những cái rương làm bằng gỗ sung dâu có chạm trổ công phu. Khi họ làm xong nhiệm vụ, những tay lái buôn bày ra những món hàng lạ mắt, nào là những cuộn vải len hồ cứng từ Ai Cập, những súc vải sơn từ đất nước của người Êtiopia, vải xốp màu tím của xứ Tyre, những tấm thảm treo màu xanh từ xứ Sidon; những chiếc li tạc bằng hổ phách vàng ẩn kín mình dưới đất, những chiếc bình pha lê và cả những chiếc lọ độc đáo làm bằng đất nung. Từ trên mái một ngôi nhà có một đám đàn bà đứng nhìn chúng tôi. Một người trong bọn đeo một cái mặt nạ bằng da óng ánh nhũ vàng.
Ngày đầu tiên giới tu hành đến chỗ chúng tôi đổi chác; ngày thứ hai là những nhà quý tộc và ngày thứ ba đến lượt những người làm nghề thủ công và các nô lệ. Đó là phong tục ở xứ này đối với giới thương nhân nước ngoài trong những ngày họ còn nán lại thành phố.
Chúng tôi ở lại khoảng một tuần trăng và khi trăng héo úa dần vào những ngày cuối tháng tôi đâm mệt mỏi chỉ muốn tránh xa các đường phố nên đã đi đến một khu vườn trong một khu vực đền thờ. Các thầy tu trong những chiếc áo choàng màu vàng lặng lẽ đi lại giữa những hàng cây xanh rờn, trên những con đường lát đá hoa cương màu đen chạy bên cạnh những ngôi nhà đỏ đỏ hồng hồng trong đó thờ phụng các vị chúa của họ. Những cánh cửa chùa này được sơn son thiếp vàng rực rỡ với hình những con bò mộng và con công chạm trổ với những cái đầu vươn lên và có thiếp vàng. Mái chùa được lợp bằng loại sứ có màu xanh nước biển và xanh lá cây; mái hiên cong cong có kết những tràng hoa với những quả chuông nhỏ. Khi đàn bồ câu trắng bay qua, chúng chạm cánh vào những quả chuông làm bật lên những âm thanh réo rắt vui tai. Trước cửa đền thờ là một cái ao bốn chung quanh lát đá mã não có vân rất đẹp, nước trong ao trong vắt như một tấm gương. Tôi nằm bên bờ ao, đưa những ngón tay xanh xao ra chạm vào những cái lá sen to bản. Một trong những thầy tu đi đến, đứng cạnh tôi. Thầy tu mang một đôi dép có quai hậu, một chiếc làm bằng da trăn mềm mại, chiếc kia làm bằng những cọng lông chim. Đầu ông đội một chiếc mũ tế màu đen có những dải tua rua bằng bạc. Trên chiếc áo thụng có thêu 7 con bướm vàng và mái tóc quăn được xịt cho cứng bằng chất antimon. Đứng cạnh tôi được một lúc ông lên tiếng hỏi tôi muốn gì. Tôi nói nguyện vọng của tôi là được gặp Chúa của họ. “Chúa đang đi săn,” tu sĩ nói, nhìn thẳng vào mặt tôi với đôi mắt xếch, ti hí.
“Xin hãy cho tôi biết người săn ở khu rừng nào, tôi sẽ đến tìm ngài.”
Tu sĩ vuốt những đường viền mềm mại quanh cái áo thụng bằng những ngón tay để móng nhọn hoắt: “Chúa đang ngủ.”
“Hãy cho tôi biết ngài ngủ trên chiếc giường nào, tôi sẽ đứng canh gác bên người,” tôi nói tiếp.
“Chúa đang đi ăn tiệc”. Ông ta lại kêu lên.
“Nếu rượu thưởng tôi sẽ uống với người, nếu là rượu phạt tôi cũng sẽ uống cùng người,” đó là câu khẳng định của tôi.
Thầy tu cúi đầu suy nghĩ một lát rồi cầm tay tôi kéo tôi đứng lên, dẫn tôi vào trong đền thờ.
Ở gian đầu tiên, tôi gặp một tượng thần ngồi trên một cái ngai làm bằng ngọc thạch anh có cẩn những viên ngọc lớn của phương Đông. Đó là một bức tượng một người đàn ông tạc bằng ngà voi. Trên trán tượng có một viên hồng ngọc lớn, dầu lạp nhỏ từ tóc tượng xuống đến bắp chân. Hai bàn chân đỏ như nhuộm máu của một đứa con nít, quanh bụng tượng có một sợi thắt lưng bằng đồng có đóng bảy cục bêrin.
Tôi hỏi người tu sĩ: “Đây mà là Chúa ư?”
“Đúng thế, đây là Chúa.”
“Đưa tôi đến gặp Chúa,” tôi giận dữ kêu lên, “không thì tôi sẽ giết ông”. Và tôi chộp lấy tay ông ta, cái tay lập tức héo úa như chiếc lá khô.
Thầy tu quay ra lạy van tôi: “Hãy để cho Chúa tể của tôi chữa bệnh cho tên đầy tớ của người, rồi tôi sẽ đưa ông đến diện kiến người.”
Thế là tôi hà hơi vào bàn tay ông ta, lập tức nó trở lại bình thường rồi ông ta run rẩy đưa tôi vào gian thờ thứ hai. Ở đây tôi thấy một tượng thần đứng trên tòa sen làm bằng ngọc bích có đính những viên ngọc lục bảo rất lớn. Bức tượng cũng tạc bằng ngà voi và to gấp đôi bức tượng thứ nhất. Trán tượng là một viên ngọc lớn, bộ ngực quết đầy bột trầm hương và quế. Một tay tượng cầm một cây quyền trượng cong đầu bằng ngọc, tay kia cầm một quả cầu pha lê. Tượng mang một đôi hài cao bằng đồng, quanh cái cổ ngắn, mập mạp có đeo một cái vòng bằng đá sêlênit.
Đến đây tôi hỏi tu sĩ: “Đây mà là Chúa ư?”
“Dạ, đúng thế”.
“Đưa ta đến gặp Chúa của ngươi ngay, nếu không ta sẽ giết ngươi.” Nói rồi tôi chạm vào mắt hắn, hai con mắt trở nên mù lòa.
Thế là tu sĩ lạy lục tôi: “Hãy để cho Chúa chữa bệnh cho đầy tớ của Người rồi tôi sẽ đưa ông đến gặp Người.”
Nghe nói thế, tôi liền phà hơi thở vào mắt hắn và ánh sáng lại trở lại trên cặp mắt ấy. Tu sĩ run lẩy bẩy, dẫn tôi đến gian thờ thứ ba và trời ơi ngạc nhiên chưa, chẳng hề có tượng thần gì cả cũng chẳng có một hình hài nào, chỉ duy nhất một tấm gương lồng trong một cái khung kim loại hình tròn đặt trên một bệ thờ bằng đá.
“Thế Chúa của các người ở đâu?” Tôi hỏi.
“Không, làm gì có Chúa, chỉ có tấm gương mà ông đang nhìn vào,” tu sĩ đáp, “đó chính là tấm gương Minh Triết. Nó phản chiếu tất cả những gì có trong cõi trời và cõi nhân gian, giữ lại mặt cái người đang nhìn vào nó. Vì nó không phản chiếu, nên người nào soi vào nó cũng đều có thể trở nên khôn ngoan hơn. Có nhiều cái gương khác ở đây, đó là những tấm gương Ý kiến. Nhưng chỉ có duy nhất một tấm gương Minh Triết. Ai sở hữu tấm gương này sẽ biết hết mọi chuyện kể cả những thứ vẫn còn đang được giấu kín trước con mắt của họ. Người sở hữu tấm gương này không thể không thông tuệ. Vì thế ở đây nó là chúa tể và chúng tôi thờ phụng nó”. Tôi nhìn vào tấm gương này và tôi thấy nó đúng như lời ông thầy tu nói.
Thế là tôi làm một việc lạ lùng, nhưng chẳng phải tất cả những điều tôi làm từ ngày ở đây ra đi đều là lạ lùng sao? Vâng, tôi đã lấy cắp tấm gương Minh Triết. Bây giờ xin ông chủ hãy để cho tôi trở về với ông, làm một tên đầy tớ trung thành và ông sẽ thông thái hơn tất cả những người đàn ông thông thái nhất và sự Minh Triết sẽ là của ông. Hãy để tôi trở về với ông như thể không có một ai trên đời này có thể khôn ngoan hơn ông”.
Nhưng người đánh cá mỉm cười. “Tình yêu còn tốt đẹp hơn sự thông tuệ; Nàng Tiên Cá yêu ta, thế là đủ.”
“Không, không có điều gì quan trọng hơn sự thông thái”.
“Tình yêu quan trọng hơn, tốt đẹp hơn”. Chàng đánh cá khẳng định và lại lao xuống nước, Linh hồn lủi thủi ra đi, nước mắt nhỏ xuống thành vũng lầy trên đường.
Một năm nữa lại trôi qua, Linh hồn lại đến bờ biển gọi người đánh cá lên. Chàng nhô lên từ dưới thủy cung hỏi: “Này, ngươi tìm ta có chuyện gì vậy?”
“Xin ông lại gần đây để tôi có thể kể cho ông nghe những chuyện có một không hai mà tôi đã tận mắt chứng kiến.”
Thế là chàng đánh cá bơi vào bờ, nằm xuống chỗ nước cạn, gối đầu lên cánh tay và lắng nghe.
“Khi tôi chia tay ông, tôi quay mặt về hướng Nam bắt đầu cuộc hành trình. Tất cả những gì quý báu đều xuất phát từ hướng này. Tôi cứ miệt mài đi trên con đường rộng thênh thang, thẳng tắp được 6 ngày thì đến đô thành Ashter. Suốt dọc đường tôi thấy bụi đỏ nhuộm tất cả mọi vật bởi hàng đoàn người hành hương cũng làm những cuộc hành trình vạn dặm như tôi. Sáng ngày thứ bảy tôi mở mắt ra thấy một thành phố nằm ngay dưới chân tôi, bởi vì nó nằm ngay trong lòng chảo của một thung lũng.
Có chín cổng dẫn vào thành phố này, ở mỗi cổng có một con ngựa bằng đồng hí vang lên khi người Bedouin từ trên núi tràn xuống. Các bức tường thành đúc bằng đồng và các vọng gác trên tường thành cũng có mái lợp bằng đồng. Mỗi tháp có một cung thủ đứng gác tay cầm cung. Mỗi khi mặt trời lên anh ta bắn một mũi tên vào một cái kẻng và khi mặt trời lặn anh ta thổi tù và báo hiệu.
Khi tôi tìm cách vào thành, người gác chặn tôi lại và hỏi tôi là ai; tôi đáp mình là một tín đồ Hồi Giáo và tôi đang trên đường đến thành phố Mecca, nơi có một cái mạng xanh trong đó người Koran thêu những con chữ bạc lên bàn tay của các thiên thần. Những người lính gác ngạc nhiên đến nỗi họ để cho tôi vào thành mà không hỏi thêm. Trong thành nhộn nhịp như ở một phiên chợ lớn. Chắc chắn là ông cũng muốn ở với tôi. Dọc những con đường nhỏ hẹp người ta treo đầy những chiếc đèn lồng bằng giấy, bay phấp phới như những con bướm lớn. Khi ngọn gió thổi qua, các mái nhà nâng lên hạ xuống như những quả bong bóng nhiều màu. Các thương nhân ngồi phía trước các sạp hàng của mình trên những tấm thảm bằng lụa. Các ông để râu dài đen và thẳng, những chiếc khăn xếp của họ trang trí những vòng tròn màu vàng lấp lánh. Một số người bán cúc thủy dương và những hương liệu đặc biệt từ những hòn đảo ở Ấn Độ Dương; tinh dầu cô đặc chiết xuất từ hoa hồng, trầm hương và đinh hương lá nhọn như chiếc móng tay. Khi có ai đó dừng lại nói vài lời với họ, họ bèn ném một nhúm nhựa thơm vào một lò than để cho không khí sực nức hương trầm. Tôi gặp một người Syri cầm trong tay một cây gậy nhỏ nom như một cây sậy. Những cọng khói màu xám bốc lên từ cây gậy và khi bốc cháy nó có mùi như mùi quả hạnh màu hồng vào mùa xuân.
Một số người khác bán những chiếc vòng tay bằng bạc, bốn chung quanh chạm nổi những viên ngọc lam, vòng đeo cổ chân bằng đồng có đính những viên ngọc nhỏ, vuốt hổ bọc vàng, vuốt báo cũng bọc vàng, những đôi hoa tai bằng ngọc lục bảo, nhẫn đeo tai bằng ngọc bích... Từ các quán trà vẳng ra tiếng đàn ghita, những tên nghiện thuốc phiện với khuôn mặt trắng xanh, tươi cười nhìn khách bộ hành.
Đáng tiếc là ông đã không có mặt ở bên tôi. Những tay bán rượu khuỳnh khuỳnh khuỷu tay hích đám đông để vượt lên phía trước, vai vác một bao da màu đen thật lớn. Đa số bọn họ bán loại rượu Schiraz, ngọt như mật. Họ rót rượu vào những chiếc li thiếc nhỏ, cắm vào miệng li một cọng rơm. Trong chợ còn có những người bán trái cây, thôi thì đủ các loại: những trái vả chín mọng với những thớ thịt màu tím; những trái dưa hấu tỏa ra mùi xạ hương và có màu vàng của ngọc tôpa, thanh yên vàng mọng, táo chín hồng, từng chùm nho trắng, những trái cam tròn vàng ửng và những trái chanh có màu vàng tươi...
Một lần tôi trông thấy một con voi đi qua. Vòi voi sơn màu đỏ rực và màu vàng củ nghệ, đôi tai nó có đeo một tấm lưới bằng lựu cũng đỏ rực. Voi dừng lại trước một sạp hàng, thản nhiên ăn cam mà ông chủ hàng chỉ đứng cười. Ông không thể hiểu nổi người ở đây kì lạ ra sao đâu. Khi có chuyện vui mừng họ bèn tìm đến người bán chim, mua một lồng chim rồi thả chim lên trời để cho niềm vui của họ được nhân lên nhiều lần, khi buồn họ lấy gai tự đâm vào người mình để nỗi buồn của họ không giảm đi.
Rồi một buổi tối nọ tôi thấy mấy người nô lệ khênh một cái kiệu lớn đi qua chợ. Cáng làm bằng những gióng tre phủ nhũ vàng có những cái cọc sơn màu đỏ rực cùng những con công bằng đồng. Qua cửa sổ có che một tấm màn thêu những con ong đính những hạt ngọc trai nhỏ của người Hồi Giáo, tôi thoáng thấy khuôn mặt xanh xao của một người Grassy nhìn ra và mỉm cười với tôi. Thế là tôi vội vã đi theo mặc cho những người nô lệ đi như chạy, vừa đi vừa cau có nhìn tôi. Thực ra tôi chẳng quan tâm, tôi chỉ cảm thấy tò mò ghê gớm.
Cuối cùng họ dừng lại ở một ngôi nhà vuông vức quét vôi trắng. Nhà không có cửa sổ, chỉ có một cửa ra vào nhỏ như cửa vào nhà mồ. Bọn nô lệ đặt kiệu xuống, gõ cửa ba lần bằng một cái vồ bằng đồng. Một người Armenia trong chiếc áo captan truyền thống may bằng da màu xanh nhìn qua cửa xép, khi thấy rõ họ anh ta mới mở cửa, trải một tấm thảm xuống đất để cho người đàn bà ngồi trong kiệu bước lên. Trước khi đi vào nhà, nàng còn ngoái đầu nhìn lại và mỉm cười với tôi lần nữa. Tôi chưa từng gặp người nào có nước da xanh xao đến thế.
Khi mảnh trăng hạ tuần lại hiện ra tôi quay về chỗ cũ tìm ngôi nhà nọ nhưng nó không còn ở đấy nữa. Thế là tôi biết người đàn bà là ai và tại sao nàng lại mỉm cười với tôi.
Chắc chắn ông sẽ tiếc là không có mặt ở đấy. Có một bữa tiệc ở chỗ của vầng trăng mới và một vị hoàng đế trẻ tuổi đã rời bỏ cung điện của mình đến đền thờ để cầu nguyện. Tóc và râu ông hoàng này được nhuộm bằng những cánh hoa hồng, đôi má đánh một lớp phấn vàng; hai bàn tay và hai bàn chân thì vàng như nghệ.
Vào lúc mặt trời lên, ông hoàng từ cung điện đi ra trong chiếc áo choàng bằng bạc, mặt trời lặn ông trở về hoàng cung với chiếc áo bằng vàng. Mọi người phủ phục dưới đất, giấu mặt đi trước sự xuất hiện của thiên tử nhưng tôi thì không. Tôi đứng cạnh một quầy hàng bán quả chà là, chờ đợi. Khi hoàng đế nhìn thấy tôi, ông ta giương đôi lông mày vẽ lên rồi đứng lại. Tôi cũng đứng im, không quỳ rạp xuống như các thần dân của ông ta. Mọi người lấy làm ngạc nhiên lắm trước sự khi quân của tôi và một viên quan hạ lệnh tôi phải rời thành nhưng tôi chẳng thèm để ý mà lại đến ngồi với những người buôn bán các tượng thần kì lạ, những người mà vì lí do gì đó đôi tay tài năng của họ bị người đời ghê tởm. Khi tôi kể cho họ nghe việc mình đã làm, mỗi người trong bọn tặng tôi một bức tượng và cầu xin tôi hãy tránh xa họ.
Đêm ấy, trong lúc tôi nằm trên một tấm nệm ở trong một quán trà trên đường Quả Lựu, bọn lính ngự lâm quân bước vào và đưa tôi về hoàng cung. Khi tôi bước vào họ đóng lại tất cả các cánh cửa sau lưng tôi và móc một sợi dây xích lại để khóa cửa. Phía trong là một lâu đài lớn với những lối đi có mái che chạy chung quanh. Tường bằng thạch cao tuyết hoa trắng toát, đó đây có lợp những tấm tôn màu xanh da trời và xanh lá cây. Những cái cột lớn bằng đá hoa cương xanh, mái hiên lợp bằng một loại đá hoa cương có màu hồng đào. Tôi chưa bao giờ thấy một cảnh tượng như thế.
Trong lúc tôi đang đi qua sân có hai người đàn bà đeo mạng che mặt đứng trên ban công nhìn xuống chửi bới tôi. Những tên lính ngự lâm rảo bước thật nhanh, chuôi của các thanh gươm chạm lách cách trên sàn nhà bóng loáng. Họ mở một cánh cửa tạc bằng ngà và tôi thấy mình ở trong một thủy viên có bảy bậc thềm. Trong vườn trồng đầy hoa uất kim hương và hoa cúc bạch cùng hoa lô hội lấp lánh ánh bạc. Giống một cây sậy mảnh dẻ bằng pha lê, một cái vòi phun nước lơ lửng trong không khí mờ ảo. Những cây bách nom giống hệt những bó đuốc đang cháy. Có một con họa mi đang đậu ở một trong những cây bách ấy