BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC MỘT CUỘC CHIẾN... THẢM BẠI
Cái ngày mong chờ đến một cách khá bất ngờ.
Điều hiển nhiên mà ai cũng biết là quân đội miền Nam sau thất bại Ban Mê Thuột, đã chẳng còn một tí tinh thần chiến đấu nào. Với số quân và vũ khí do Mỹ để lại, nếu trong tay bất kỳ một tướng nào có tí lý tưởng, có tí thể diện của con nhà võ, miền Bắc đâu có thể “chẻ tre”, “thần tốc” đến thế! Nói cho ngay: Chính “phía bên kia” đã... gác súng, không chiến đấu nữa. Y như một trận bóng mà một bên đã tự nguyện cởi áo rời sân cỏ! Chẳng thế mà Lê Linh, một vị tướng tư lệnh Quân Đoàn 4 đã nói rất thật với đám văn nghệ chúng tôi: “Chúng tớ chỉ có chạy và chạy thẳng về Sài Gòn! Quân, tướng, đơn vị xáo trộn, thất lạc nhau lung tung! Y như một tấm giẻ rách! Làm quái gì có ai chỉ huy ai mà cứ cãi nhau hoài.” Câu nói muốn nhắc đến hai cuốn sách chửi nhau về ai thật sự có công của hai vị tướng miền Nam và miền Bắc mà thắng lợi thuộc về ông tướng... miền Bắc.
Sự thật thì chính phủ Dương Văn Minh đã ngồi chờ... bộ đội tại dinh Thống Nhất từ sáng 30-4-1975! Khi đại quân kéo vào, mạnh ai nấy đi, chẳng ai chờ lệnh ai, chẳng ai ra lệnh cho ai, cứ nhờ dân chỉ đường tiến thẳng về “sào huyệt cuối cùng” của chính quyền “ngụy”. Buồn cười hơn nữa là người ta còn dựng lại cảnh xe tăng hùng hổ đâm đổ cánh cổng trước đó đã mở toang của cơ quan đầu não “địch” mặc dù địch đã lên đài công nhận thua và ra lệnh không được nổ súng nữa!
Những người đã vào ngồi sẵn chờ quân giải phóng cùng chính phủ Dương Văn Minh như Trần Kim Thành, Thẩm Võ Hoàng, Hải Ninh, Hoàng Tích Chỉ, Khánh Dư và cả Bùi Tín, Nguyễn Trần Thiết, sau này còn kể một cách dí dỏm về hành động húc xập cổng “dinh lũy cuối cùng” của “quân ngụy” là “hùng hổ một cách đáng nực cười”! Vì sau khi làm họ giật nẩy mình tưởng có chuyện tử thủ tử thiếc gì đây thì mấy ông “dũng cảm vô tích sự” ấy phải tìm người đến chữa cổng ngay lập tức để kịp hôm sau đón các vị lãnh đạo miền Bắc bay vào!
Còn nhiều chuyện nực cười chẳng thua thời quân Tưởng kéo quân vào miền Bắc. Chuyện kỷ luật nghiêm minh đến ngây ngô tội nghiệp của các chàng lính mới tò te, chuyện ngồi sa lông lính ngụy sợ dính vi trùng Ôkinaoa, chuyện cấm không được vào nhà dân vì lo dân... thủ tiêu hay mua chuộc, chuyện lính Việt Cộng dùng thang máy chơi trò đi... máy bay. Toàn chuyện cười ra nước mắt!
Cũng chính từ những người may mắn được vào Sài Gòn trước tôi ([1]), tôi đã bị dội một gáo nước lạnh đến tê người: “Cả gia đình tôi gồm 16 người đã lên máy bay di tản sang Mỹ”. Mẹ tôi ngoài 70 tuổi, què chân, “bị” ông con rể Lâm Quang Thi, trung tướng “ngụy”, rước đi đêm 29, dù mẹ tôi vẫn mong được ở lại gặp tôi sau hơn 30 năm xa cách. Tất cả nhà cửa, tài sản đều vất lại. Hiện còn hai villa, một ngôi nhà, hai căn hộ ở cư xá Bắc Hải và sân bay Tân Sơn Nhất đang có quân đội đóng. Chắc khi họ rút thì đến cái cửa sổ cũng chẳng còn vì hàng ngày họ chẳng biết nấu ăn bằng cái gì! Duy nhất có Tô Hiền, em thứ hai của tôi không chịu ra đi vì tin là mình không dính tới ngụy quân, ngụy quyền do có bệnh tim bẩm sinh, suốt đời chỉ dạy học ở các trường tư thục!
Thế là chỗ dựa vững chắc để tự giải phóng mình đổ sụp! Tuy nhiên, khát vọng trở về dù chỉ gặp duy nhất đứa em thứ hai vẫn cháy bỏng trong tôi. Nhưng đi một cách vô tổ chức, bỏ cơ quan mà đi thì tôi lại vẫn là... thằng hèn.
Tôi vẫn còn lo cho số phận của kẻ không biên chế, không lương, nhất là sợ kỷ luật đối với một văn nghệ sĩ “vô tổ chức” là thế nào vì đã có cả ngàn tấm gương tầy liếp. Tôi lại hèn bằng cách tích cực cho ra một “bức tranh cổ động bằng âm nhạc” mới toanh, được in ấn, thu thanh, phổ biến khá rộng rãi, tái bản đi, tái bản lại trên báo chí “miền Nam giải phóng”, thậm chí được cả hàng ngàn người hát tập thể tại sân vận động Thống Nhất, có đoàn quân nhạc tấu cùng. Trong bài hát tập thể này, tôi nêu lên lịch sử cha ông bao lần chống ngoại xâm thắng lợi, chống chia cắt đất nước thành công, nhưng không một chữ đả động đến công ơn Đảng, Bác...Phần phối khí, để có “phong cách Sài Gòn” do Thanh Tùng, trùm nhạc nhẹ lúc bấy giờ đảm trách. Đó là bài hát tập thể Độc Lập Tự Do Toàn Thắng Từ Đây”!([2]) Bài này cũng như trăm bài hát khác của tôi, một lần nữa không thể có chỗ đứng bên cạnh Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng ([3])!
Nó hơn bài tôi ở chỗ nó nói đến Bác! Nó lại càng có lợi thế hơn tôi vì Phạm Tuyên có trong tay công cụ phổ biến duy nhất là đài Tiếng Nói Việt Nam. Hơn nữa, phần phối âm, phối khí cũng là đề tài tranh luận: “Nên hay không nên dùng nhạc nhẹ?” Đã tranh luận thì phải có vấn đề! Và, đã có vấn đề thì dù chưa kết luận cũng...xếp lại cái đã! Thế là tác phẩm “lấy điểm” của tôi, mặc dầu ra cùng ngày, cùng giờ, cùng thu thanh với Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng cũng theo gót các tác phẩm cùng loại của tôi trước kia, đi vào cõi... chết! Nhưng chính do bài này mà các tòa soạn, nhà báo, bạn bè cũ, mới đi tìm tôi và biết được tôi vẫn ngồi chơi xơi nước ở Hà Nội!
Một số anh em có tâm huyết, thậm chí cả một số từng cho rằng “không nên để Tô Hải vào sớm với một gia đình “đại ngụy” như thế” nay cũng đổi ý. “Cần gọi ngay Tô Hải vào”, vì sự có mặt của tôi lúc này được kể là rất có lợi về nhiều điểm:
— 1) Tôi có thể tập hợp được một số văn nghệ sĩ “tại chỗ” bằng khả năng, trình độ, tuổi đời và tuổi nghề. Nói trắng ra là lực lượng tiếp quản văn nghệ nói chung và âm nhạc nói riêng đang nằm trong tay mấy ông nhạc sĩ “Rờ” ([4]), chẳng ai có trình độ tối thiểu để “đối đầu” với những Phạm Trọng Cầu ([5]),Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Nghiêm Phú Phi…. Lực lượng nhạc sĩ cách mạng, ngoài cái “uy tín tự có” là kẻ chiến thắng, chưa ai qua được trình độ sáng tác...ca khúc! Một số lớn còn chưa qua trường nhạc nào, thậm chí “phát rét” lên khi thấy một “nhạc sư” du học ở Paris dù là autodidacte ([6]) gõ phím piano vài bài trong “classiques favoris” tập I ([7])! Y hệt chúng tôi khi về Hà Nội năm 1954, thấy ông Nguyễn Văn Quỳ nói về hòa thanh, tác khúc Lavignac, nghe nhạc Ravel ([8]), Debussy ([9]) cứ như tốt nghiệp thật ở nhạc viện Paris vậy - thực ra ông chỉ học hàm thụ vài môn lý thuyết! Cái mặc cảm “thua về nghề” có lẽ chỉ có trong giới nhạc “cách mạng”.Tôi cùng một số được hưởng cái “đổi mới tư duy” của mấy ông lãnh đạo chính cống miền Nam ngay từ cuộc huy động lực lượng tăng cường này.
— 2) Sau khi thu giữ (không hủy?) hàng núi băng nhạc, đĩa hát “phản động, đồi trụy”... lấy gì cho dân miền Nam hát và nghe đây? Việc lập tức tổ chức thu thanh, ghi âm các “bài hát cách mạng” để chiếm lãnh thị trường âm nhạc đang cần sự có mặt của tôi vì tôi là người chuyên làm việc này, từ biên tập, hòa thanh, phối khí đến cả làm bìa, dịch nội dung gửi sang Tiệp, sang Nga, in thành đĩa 33, 45 vòng/phút mang cái nhãn “Dihavina” (cũng chính do tôi đặt ra năm 1962), từ cả 15 năm có lẻ ở miền Bắc.
— 3) Sự có mặt của tôi chứng tỏ Đảng không hề phân biệt đối xử với người có gia đình... “đại ngụy”, có ông bố nằm cạnh thống tướng Lê Văn Tỵ trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi! Tôi sẽ là điển hình cho một tầng lớp mà cách mạng đang cần để an lòng dân miền Nam với chủ trương chính sách trước sau...(không) như một! Nào là “tất cả chúng ta đều là người chiến thắng, trừ bọn xâm lược Mỹ”. Nào là “con người ta ai có chọn cửa mà ra”. Nào là... “không phân biệt thành phần, tôn giáo, xu hướng chính trị”! Nào là “bảo đảm tự do buôn bán”, “bảo đảm tài sản, tư hữu” vv…Còn nhiều thứ nói dối, nói láo, nói đấy rồi nuốt lời như không...mà Goebbel có sống lại chắc cũng...chào thua! Báo Tin Sáng, tờ báo tư nhân duy nhất được cho sống ít ngày vì có thành tích “ủng hộ cách mạng” (sự thật là “ngây thơ cách mạng”) đã phải tung ra một bài châm biếm “Nói dzậy mà không phải dzậy”, sau này trở thành một “dấu ấn in trên mọi chính sách” được tung ra và trở thành câu nói mỉa của mọi người, kể cả cách mạng cũng như không cách mạng!
Cũng cần nói qua về cái việc “nói dzậy mà không phải dzậy” cứ diễn hàng ngày, hàng giờ xuất phát từ đâu đến nỗi, những người cách mạng làm tuyên huấn như chúng tôi lắm lúc phải bỏ chạy trước thắc mắc của ngay bà con, cô bác, người thân. Chỉ riêng cái chuyện “đi học” (sự thật là đi tù khổ sai vô thời hạn không cần xét xử) của các sĩ quan “ngụy” đã làm tan nát lần thứ hai biết bao gia đình tưởng sẽ vui vẻ đoàn tụ sau bao năm xa cách.
Chẳng hiểu thông báo “mời” sĩ quan từ cấp úy ngụy đi học tập có câu “mang theo đồ dùng, lương thực sinh hoạt đủ...20 ngày” để rồi đi... “mút mùa” không tin tức xuất phát từ đâu? Chính cái câu hứa hươu của ông Trần Văn Trà, “những người có con em đi theo cách mạng được coi như gia đình cách mạng”, đã làm Hoàng Mãnh, Nguyễn Tài và cả ngàn ông cán bộ cách mạng khác bị gia đình chửi rủa, thậm chí bị đuổi khỏi nhà. Hoàng Mãnh còn bị mẹ, bà Võ Đức Thu, đòi lại cả chiếc đồng hồ báo thức (không phải vì tiếc), vì thấy họ chẳng làm gì (do không biết rằng họ có muốn cũng chẳng làm gì được) để “chuộc” anh, em, nội ngoại ra khỏi trại tập trung kiểu Goulag ([10]) ở Nga!
Rồi vợ con sĩ quan, công chức “nguỵ” đang “học tập” bị mời đi kinh tế mới để mấy ông cán bộ Việt Cộng giờ thứ 25 chiếm đất, chiếm nhà... Tiếp theo là hai lần đổi tiền theo kiểu cướp trắng, cải tạo tư sản, cải tạo công thương, tịch thu hàng hóa từ các tiệm lớn nhỏ đến các sạp hàng bầy lề đường Lê Lợi, Lê Thánh Tôn, chợ Bình Tây, Bến Thành... về các kho của Phòng, Sở... Cuối cùng là tất cả biến thành mây thành khói dưới bàn tay phù phép của những tên “lưu manh cộng sản”, tiền bối của những mafiosi được tổ chức từ trên xuống dưới sau này!
Sự nói đen thành trắng, nói dối, đánh lừa bằng cách thay chính sách xoành xoạch, những người sáng suốt đã thấy ngay: Nó phản ảnh một mâu thuẫn rất lớn ở từng lớp chóp bu.
Là người từng làm việc trực tiếp với các “ông to” của “Rờ”, tôi thấy các ông này quả là có nhiều suy nghĩ đáng nể vì họ có thực tế suốt 35 nằm hầm, bám dân. Một số ông đi B cũng có tư tưởng thoải mái hơn, thậm chí đôi lúc còn tỏ ra lo sợ một cuộc cải cách ruộng đất, một cuộc cải tạo tư sản kiểu miền Bắc sẽ vô cùng phức tạp và sẽ đẩy nhân dân miền Nam Việt Nam vào đói khổ, từ đó sẽ có những cuộc bạo loạn không thể lường trước. Lý do: dân miền Nam không “hiền” như miền Bắc. Ruộng đất, cơ sở phương tiện sản xuất không nghèo nàn như miền Bắc và nói cho ngay thì hậu quả các chính sách cải cách, cải tạo đủ loại đã mang đến cho miền Bắc những nỗi oan trái, cay đắng, hao của, chết người như thế nào, chẳng phải chỉ anh em đi tập kết mới biết, mới từng nếm trải. Cả những loại kỳ cựu và chính trị loại xoàng như tôi cứ nói đến chúng vẫn còn tởn. Vậy thì ai có công nhất trong cuộc chiến thắng cuối cùng, các ông tướng Việt Cộng miền Bắc, các ông tướng Việt Cộng miền Nam làm gì chẳng phát sinh ý kiến đối lập, phủ nhận nhau, thậm chí chửi thẳng vào mặt nhau như ông Trần Văn Trà đã chửi thẳng ông Nguyễn Ngọc Hiền, cánh tay phải của tướng Văn Tiến Dũng trong tập sách bị... cấm tái bản sau khi tướng Trà hết chức vụ chỉ còn cái hàm tướng... không quân!
Tôi biết rõ những mâu thuẫn chết người giữa các nhà có chức quyền cao nhất lúc ấy trong vấn đề Chính Phủ Cộng Hòa Lâm Thời Miền Nam Việt Nam nên giải tán hay nên cho tồn tại? Thống nhất hai miền ngay hay chờ ít năm? Cấm ngay lập tức hay cứ cho phép có kiểm soát tờ báo tư nhân như Tin Sáng của đám Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận? Rồi đến các vấn đề cụ thể như bắt hay không bắt nhà văn này, nhạc sĩ nọ, nhà chính trị kia vốn đối lập với Thiệu nhưng vẫn chửi cộng sản? Cho phép diễn viên này hoặc cấm diễn viên nọ hành nghề?
Tất cả đều được thảo luận thậm chí cãi vã to tiếng từ ở các hội nghị cho đến các sa lông, từ các ông to đến các ông nhỏ mà tôi có dịp được nghe như một nhân chứng... câm! Có điều cái đầu ương bướng của tôi biết phân tích và tổng kết nên tôi sớm nhìn ra: Cuộc đánh nhau nội bộ về đường đi, hướng tới trong thủy thủ đoàn và thuyền trưởng lái con tàu Việt Nam Thống Nhất đã bắt đầu!
Chỉ riêng mặt văn hóa tư tưởng, sự chia rẽ đã đến mức không thể hòa giải về cái Đẹp, về cách đánh giá con người của những người cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết!
Người ta không thể không cho mọi người nghe nhạc, treo tranh, xem phim, coi hát.
Vậy hát cái gì? Hát làm sao? Ai hát?
Đó là một thực tế khách quan không thể không giải quyết. Chúng tôi, những văn nghệ sĩ miền Bắc được tăng cường sẽ phải làm gì trước các ý kiến đối nhau chan chát hàng ngày của các ông lãnh đạo chóp bu? Văn phòng của ông Lưu Hữu Phước, bộ trưởng trong chính phủ lâm thời đưa ra một loạt công văn chỉ thị, danh sách văn nghệ sĩ đã “cộng tác đắc lực” với ngụy quyền, đã làm phim, lên sân khấu bôi xấu cộng sản...phải kiên quyết gạt bỏ. Trái lại, Ban Tuyên Huấn Trung Ương Cục Miền Nam của ông Trần Bạch Đằng (Tư Ánh) người trực tiếp với cơ quan xuất bản của tôi, lại ra các “chỉ thị” ngược lại! Trong khi người ta rất “lập trường không khoan nhượng” đối với ca sĩ này, nhạc sĩ nọ thì, từ một phía có “lực” hơn, lại nhân danh quần chúng, ngay từ ngày đầu cho phép các đoàn cải lương đủ loại tiếp tục đi diễn đủ các thứ vở, tất nhiên trừ những vở chống cộng!
Ai cũng to như ai, cũng có quyền như ai, chỉ khổ ba anh Bắc Cờ mới vào, chẳng biết ăn nói thế nào! Tôi, một thứ bổ sung vào những giờ thứ 30, 31 vừa chân ướt chân ráo đặt chân tới sân bay Tân Sơn Nhất đã phải đối đầu với sự lựa chọn: Mình sẽ theo quan điểm của anh nào?
Vở bi hài kịch hay giấc mộng làm ăn đứng đắn đàng hoàng của tôi bắt đầu tan vỡ... Sự tất...thua của âm nhạc chân chính nói riêng và “văn nghệ có học” cũng gióng hồi chuông... rút lui từ đây.
Trở lại với những ngày nghe đủ loại tin tức, đủ loại nhận xét về cái “miền Nam đau thương và anh dũng” được giải phóng mà không có mặt của tôi, trở lại với sự thất vọng to lớn, khi được biết cả gia đình tôi đã di tản sang Mỹ ở giờ phút cuối cùng, tôi như người bị dội thùng nước lạnh đến mức không còn chút tư tưởng nào muốn được bổ sung cho miền Nam nữa thì... đùng một cái người ta lại dội một thùng nước nóng cho tôi. Tôi được lệnh điều động lên Ban Thống Nhất để nhận chỉ thị đi B cấp tốc! Mặc dầu Sài Gòn đã im tiếng súng gần hai tuần, tôi vẫn được lãnh đủ thứ tăng, bạt, ba lô, quần áo, lương khô y như thời đi B trong chiến tranh để hôm sau có mặt tại Sài Gòn kịp “phúc khảo” một số tiết mục ca nhạc, kịch của anh em văn nghệ sĩ “tại chỗ”. Hà Mậu Nhai còn viết thư riêng nói toạc ra rằng mấy ông X,Y...trình độ khó thuyết phục mấy tay cỡ S,K,P...ở trong này lắm!
Thế là cái “máu cách mạng” trong tôi nổi lên cuồn cuộn. Chỉ một buổi chiều, tôi đã xếp xong mọi thứ “bảo bối” cần thiết. Cụ thể là một thùng tổng phổ từ Beethoven, Mozart đến Debussy, Ravel, Gershwin ([11]).., một va ly gần trăm đĩa hát đủ loại giao hưởng, ballet, opéra, sonate... và cả những đĩa gọi là nhạc nhẹ của phe xã hội chủ nghĩa để làm bằng chứng cho quan điểm của tôi là âm nhạc đích thực phải là âm nhạc kinh điển. Các thể loại khác không phải là cấm như người ta đồn mà chỉ được coi như thứ giải trí nghe cho vui, nghe để ăn uống thêm ngon miệng, rồi... bỏ qua! Chẳng có quà bánh, hàng hoá buôn bán gì, nhưng tôi là người có trọng lượng hàng hóa nặng nhất. Trái với những người khác, lúc lên đường đi tăng cường thì đi vay mượn, thậm chí bán luôn những gì có thể bán để làm vốn “phát triển kinh tế” sau này. Tính theo thời giá lúc bấy giờ... 1 đồng miền Bắc được Ba Tầu Chợ Lớn mua tới 1 ngàn đồng miền Nam, vì họ tưởng miền Bắc là kẻ chiến thắng sẽ hủy tiền “ngụy”. Sau này tôi mới hiểu vì sao mà mấy ông miền Nam tập kết bay vào lại chóng giàu có, nhà cửa sang trọng tới mức nằm mơ cũng chẳng thấy. Cả một ngôi biệt thự đồ sộ ở đường Nguyễn Phi Khanh, Minh Quân mua có...ba ngàn rưỡi đồng miền Bắc –– Ba triệu rưỡi tiền ngụy! Đình Tấn, Văn Ký mua mỗi anh một xe hơi Madza, Toyota chỉ có 100, 155 đồng!...Riêng tôi, trong tay vẻn vẹn 300 đồng vì đi một mình, nhà cửa, tiền nong để lại cho vợ con, là người ngây thơ đến...ngu đần nhất thiên hạ.
Loại trừ cái bọn cướp không nhà cửa, tài sản nổi chìm của những người bỏ chạy, ngay việc “mua rẻ” tôi cũng chẳng màng! Không những thế, hơn 300 đồng miền Bắc mang vào, tôi đã theo đúng quy định của đảng và Nhà Nước hai miền: nộp cho ngân hàng để mỗi tháng rút ra đúng một trăm đồng tiền mới đổi! Nghĩa là tôi chẳng có gì ngoài mấy bộ quần áo, một tủ sách và đĩa hát. Phải hai tháng sau đó, khi rút đủ tiền, tôi mới mua nổi một bộ nghe nhạc tàm tạm, để mấy cái đĩa hát mang theo được vang lên trong căn hộ ở tầng 3 đường Gia Long mà người ta phân cho tôi đến tiếp quản. Căn hộ này với đầy đủ tiện nghi, giường, tủ, sa lông, máy lạnh... tôi còn ở mãi cho tới những ngày nó xuống cấp, tiền thuê lên giá và cho đến lúc tôi về hưu chưa bao giờ thuộc chủ quyền của tôi.
Không phân phối, không hóa giá, không giải tỏa, căn nhà vẫn là của Nhà Nước. Tôi chẳng bao giờ chạy chọt để xin được phân phối một cái “ma maison” ([12]) như hầu hết cán bộ cách mạng không trừ cả những nhân viên quèn từng xin được, miễn có anh Hai, anh Ba, anh Tư đỡ đầu, có thư tay... gửi đến các ông Tư Bi, Thanh Hải, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà đất. Tôi ngu hay quá “cao đạo” đến nỗi chẳng có gì khi về hưu ngoài đồng lương vừa đủ tiền thuê nhà và trả tiền điện nước? Nghĩ cho cùng, tôi chỉ là một anh văn nghệ sĩ đến chết cũng chẳng hết ảo tưởng, một người “cộng sản” còn hơn cả các ông “cộng sản có chức có quyền” nếu hiểu cộng sản như người nguyện cống hiến đời mình cho nhân dân và dân tộc!
Nhưng cũng lại điều may mắn đã đến với tôi lần nữa, vì không chức không quyền nên không bị dính vào các vụ “mua chuộc”, thậm chí “đầu hàng” trước những người mà trước đó ít lâu còn bị xếp vào loại phải... cảnh giác! Thực tế đã chứng minh hàng loạt cán bộ (kể cả văn nghệ sĩ) đã dính vào các vụ kiếm chác và vì không khéo chùi mép đã bị ra tòa, nằm khám. Xoàng nhất cũng là lao vào các cuộc nhậu nhẹt chơi bời, buôn bán lừa đảo. Người lãnh án tù, kẻ chết chìm trong các cuộc nhậu nhẹt rồi... hết luôn vì các bệnh ung thư gan, phổi, dạ dày! Dù tôi không kể tên thì mọi người đều có thể biết ai đã ra tòa vì ăn cắp, vì buôn lậu, ai đã tự kết liễu cuộc đời trong các cuộc tắm rượu Hennessi, J. Walker và trong các ổ nhện! Riêng tôi, vì không vướng bận gia đình vợ con, tôi lao ngay vào giấc mơ hão huyền: xây dựng bộ mặt mới cho văn nghệ...
Tôi được mời đi duyệt (lúc ấy gọi là phúc khảo) chương trình ra mắt của đoàn ca nhạc kịch Kim Cương với dàn nhạc Ngọc Chánh, ngay đêm đầu tiên tới Sài Gòn. Cái cảm giác ghê sợ đến rùng mình, tới nay, vẫn còn nguyên trong trí óc tôi. Trong cái rạp Hào Huê nóng bức, đầy tiếng rao hàng, tiếng chửi thề, sặc mùi thuốc lá, nước hoa, mồ hôi, người ta ra mắt cách mạng bằng vở Lá Sầu Riêng, một loại mê lô bi hài kịch cũ rích về nội dung, ấu trĩ về phong cách và hết sức nghèo nàn về phương tiện kỹ thuật. Micro treo được điều khiển bằng dây ròng rọc theo chân diễn viên, ánh sáng không thay đổi từ đầu đến cuối, còn âm nhạc thì chao ôi, một thứ tả pí lù! Để gây buồn, hỗ trợ cho diễn viên đang giả vờ khóc, người ta tương ngay bài Giọt Mưa Thu do một cây violon nào đó sau cánh gà đệm theo! Đặc biệt là khi dàn nhạc Ngọc Chánh bước ra sân khấu thì cả một rạp nổ tung tiếng hoan hô, tiếng rầm rầm xập ghế của các vị choai choai vừa nhai chewingum vừa hoan hô khi nhận ra cái nhóm Crazy Dogs ngày xưa, té ra hôm nay vẫn còn nguyên vẹn! Nhưng chương trình của họ còn có những bài hát cách mạng nữa nên họ không thể nào crazy thêm được, dù đã “rock hóa” tất tần tật những ca khúc của Xuân Hồng ([13]), Hoàng Hiệp!
Tới đây thì tôi không thể chịu đựng thêm nữa. Tôi lẳng lặng bỏ ra ngoài để thoát cái cảnh phải ngồi xem và nghe người ta bôi bác nghệ thuật! Tôi chờ các vị trong hội đồng chung khảo ra về (chung một xe) bằng cách thả bộ quanh mấy con đường trung tâm Chợ Lớn để bỗng nhận ra xã hội nào cũng phải có nền văn hóa phục vụ cho nó. Xã hội “mại dzô” khắp nơi này đúng là phù hợp với cái rạp Hào Huê và những gì đang diễn ra trong đó! Nền tảng xã hội ở đây là một thứ “tả pí lù” thì đừng hòng thay đổi nó nếu cơ cấu chính trị này không thay đổi. Và muốn thay đổi thì...hãy đợi đấy! Thử xem các nhà chính trị “đánh võ” thế nào trên cái chiến trường không tiếng súng Sài Gòn Chợ Lớn này? Còn loại như tôi, hãy né những gì ít dính dáng đến quyền đến lợi, đến chuyên môn càng nhiều càng tốt.
Tôi chẳng phải chờ đợi nhiều để hiểu được các vị có quyền về văn nghệ cao nhất lúc này gồm các ông Sáu Lăng, Rum Bảo Việt và một ông có vẻ cũng có tiếng nói quyết định từ miền Bắc tăng cường là Bảo Định Giang ([14]) dưới sự lãnh đạo cao nhất của ông Tư Ánh Trần Bạch Đằng. Tất cả các tiết mục mà tôi xem thấy phát ngượng được đồng loạt “duyệt cho diễn”!
Không phải không có ý kiến phản ứng tự nhiên của một số từng “đến nhà hát như đến nhà thờ”, từng xem không ít tác phẩm văn nghệ nổi tiếng của sân khấu miền Bắc, từng nghe không ít bản nhạc bất hủ cả ở sân khấu Nhà Hát Lớn Hà Nội cũng như ở Mát-xcơ-va, Praha, Berlin, Paris... Tuy nhiên, trước lập luận rất “chính trị” của mấy ông “nằm vùng”, mấy ông Rờ, mấy ông tập kết luôn miệng chửi bới miền Bắc hẹp hòi, Mao-ít..., đặc biệt là mấy ông “to” chẳng biết mô tê răng rứa gì về cái Chân, Thiện, Mỹ ra sao...rằng: “Từ chỗ họ diễn chửi mình, họ hát toàn bài phản động, ủy mị, nay họ đã hát những gì là của cách mạng. Vậy là họ bắt đầu “tự cải tạo” rồi. Phải tạo điều kiện cho họ tham gia phục vụ đồng bào đang chờ xem “văn nghệ cách mạng có cải tạo được họ không?” Vả lại, hàng chục đoàn nghệ thuật miền Bắc gồm ca múa, tuồng, chèo, giao hưởng, kịch nói...rồi đây, sau hai tháng rùm beng trên các ngã tư, ngã năm đường phố không lấy tiền, khi đã rút hết, “đồng bào” sẽ xem, sẽ nghe cái gì đây vv...?
Những luận điểm hết sức “chính trị” như thế đẩy lùi ảo tưởng về một nền văn nghệ cách mạng theo kiểu tôi suy nghĩ vào chỗ “thôi thì tạm nhân nhượng!” Quan niệm “thà không có chứ có mà phản văn nghệ, không nói đến phản chính trị trong nội dung, thì chỉ có hại”... của tôi và một số anh em, bước đầu đã bị đánh giá là quá khích, thiếu sách lược, khó thuyết phục, thậm chí là không đúng chính sách hòa hợp hoà giải, tranh thủ nhân tài của Đảng vv... Đáng xấu hổ là những kẻ được giao quyền lãnh đạo cái nền văn nghệ cách mạng ở miền Nam lại là những vị có cái gu “văn nghệ ba xu”! Tôi còn nhớ khi duyệt cho cải lương chi bảo Bạch Tuyết ra mắt cách mạng mà tôi cũng được dự để xem con người nghe nói (?) đã được Mỹ ưu ái bằng cách mời ký tên vào quả bom sắp thả xuống đầu nhân dân miền Bắc như thế nào.
Hôm ấy đúng là một sự kiện... trọng đại! Tôi phải qua mấy lần lính gác để được vào cái hội trường trên đường Thống Nhất, sau này là nơi mở sổ số kiến thiết. Hàng đoàn xe con đưa tới không thiếu vị chóp bu nào của chính quyền và Đảng... Sài Gòn! Tôi được xếp chỗ ở hàng đầu. Các vị “to vừa” hàng hai, các vị “to tướng” hàng ba, hàng 4... để tránh có chuyện không hay xảy ra nếu như một quả lựu đạn hay một thanh gươm văng từ phía sân khấu xuống! Lòng “tự ái cách mạng” của tôi bị chạm nọc ngay khi thấy sự long trọng quá mức, sự ưu ái đặc biệt dành cho các nghệ sĩ Sài Gòn loại “quốc gia chi bảo” này.
Tôi nhớ đến câu nói của ông Trần Bạch Đằng nhận xét về sự ra quân hùng hổ, ào ạt của các đoàn nghệ thuật miền Bắc những ngày qua: “Bóp vú đàn ông còn hơn... xem văn công Tổng Cục Chính Trị!” Tôi cũng nhận thức được rằng ở cái đất này, chỉ có cải lương làm vua và lãnh đạo thích gì thì cái đó sẽ phát triển. Cái thích của các vị lại là cái tối kỵ đối với tôi, vì theo tôi, lúc bấy giờ, sân khấu cải lương Sài Gòn là một mớ tả-pí-lù nhất. Trong cuộc họp ở bộ Văn Hóa Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, khi giao ban, người ta cho biết về tình hình phức tạp hiện nay của sân khấu Sài Gòn. Tôi cũng được biết nghệ sĩ nào “phản động” nhất, nghệ sĩ nào chửi Việt Cộng hăng hái nhất, nghệ sĩ nào nổi tiếng như cồn nhưng vẫn...chưa biết chữ, ngoài chữ ký của mình.
Vậy mà, hôm nay, người ta, kể cả các vị lãnh đạo cao nhất của thành phố đến “chào mừng” sự ra mắt của “cải lương chi bảo” như đi...“trẩy hội”! Tôi nghĩ tới những ngày nhà hát giao hưởng, kịch nói trung ương ra mắt giữa Sài Gòn, chẳng thấy một ông lãnh đạo nào có mặt, ngoài một số văn nghệ cách mạng hạng hai, hạng tư tưởng lầm là phen này dân Sài Gòn cứ là... lác mắt. Đông người xem thật đấy, nhưng lý do chính là vì...tò mò, muốn xem thử Việt Cộng có biết văn nghệ là cái chi chi không? Hoặc quá lắm là xem để biết cái món “văn nghệ chính trị” nó khô khan và khó nuốt đến mức nào? Còn nhiều sự thật đáng buồn... cười nữa mà tôi sẽ cố gắng để con cháu sau này đọc như đọc truyện hài hước của Nexin ([15])!
Trở lại với đêm ra mắt “cải lương chi bảo” trước các quan chức cách mạng Sài Gòn, tôi đang suy nghĩ mung lung về địa vị con người làm văn nghệ ở cái đất mới này rồi đây chắc chẳng mấy hay ho nên chẳng để ý xem trên sân khấu diễn ra trò gì...bỗng như sấm rậy, cả hội trường vang từng tràng vỗ tay kéo dài, bổng trầm, crescendo, diminuendo, sforzando...tưởng chừng không bao giờ ngớt!
Thì ra “cải lương chi bảo” “hạ cố” cho mấy anh văn nghệ cách mạng được ngắm dung nhan. Nghĩa là, vừa bước chân ra sân khấu, chưa kịp diễn gì, “cải lương chi bảo” đã bị chẹn họng, hay nói cách khác đã được “đại đa số” nhà lãnh đạo cộng sản thứ thiệt, bỏ phiếu tán thành: Duy trì danh vị, tài năng của cô từ nay dưới chính quyền cách mạng! Mọi hành động, mọi sinh hoạt, lời nói, tuyên bố trong quá khứ của cô, kể từ nay, coi như... cho qua!
Trong lúc ngôi sao văn nghệ Số Một miền Nam nhoẻn nụ cười kéo dài mãi không sao ngậm miệng lại được vì những tràng vỗ tay, reo hò, cổ vũ đến vỡ tai khán giả, thì một người đứng lên ngay hàng ghế đầu, quay mặt lại khán giả, hai tay chống nạnh, hét tướng lên: “Lạ thật! Vỗ tay cái gì? Chưa biết tài năng ra sao mà đã vội vỗ tay sớm thế?” Tiếng nói vừa hằn học, vừa như ra lệnh làm tràng pháo tay xịt ngay tại chỗ kèm theo vài tiếng hỏi hớt hải: “Ai đấy? Tay nào gớm nhỉ!?”... hay vài câu nói đồng tình: “Đúng lắm! Làm chi mà nịnh bợ quá thế?”... Các vị lãnh đạo to nhất ngồi ở hàng ghế thứ hai, thứ ba, tuy ánh sáng đã tắt dưới khán phòng, nhưng đèn sân khấu đủ cho tôi nhìn thấy trong tích tắc ba thái độ rất rõ ràng:
–– 1) Lạnh lùng, nét mặt ngang bằng xổ ngay như ảnh chân dung năm cát-tó đít-duýt! Số này hình như đa số đều là “cỡ lớn” ở miền Bắc mới dzô.
–– 2) Bị “sốc” rõ trước phản ứng thiếu hòa hợp hoà giải dân tộc, một vị ghé tai các vị thư ký, bí thư riêng hoặc các vị “bưng bê văn nghệ” hỏi: “Thằng nào đấy?” Đó là ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, em ruột ông Sáu Búa Lê Đức Thọ
–– 3) Một số mỉm cười gật gật đầu tỏ vẻ tán thành thái độ liều mạng của một người có lẽ nữa khùng nửa tự ái nghề nghiệp!
Cái anh chàng nửa khùng này là... tôi!
Vâng, tôi đã bật lên vì tức giận dồn nén bao lâu. Tôi nghĩ tới bao người tài năng, bạn bè đồng nghiệp và cả bản thân trong những buổi ra mắt tác phẩm đầu tiên, các buổi trình diễn đầu tiên, chẳng bao giờ có ưu ái quá mức đến như vậy! Tôi có thể kể cả trăm trường hợp ra mắt một bộ phim, một vở kịch, một bản giao hưởng của tôi và đồng nghiệp, thậm chí đến cái vé mời chính tác giả cũng bị người ta quên... như một lẽ thường tình?
Phải chăng vì chúng tôi là “văn nghệ sĩ Nhà Nước” thì tác phẩm, tài năng cũng là của Nhà Nước? Bao nhiêu thứ dày vò đầu óc tôi từ lâu, tôi đã hèn mà nuốt đi nhiều lần, bỗng hôm nay, cuộc chào mừng “Cải Lương Chi Bảo” quá đặc biệt đã như một quả lựu đạn chạm phải kim hỏa. Tôi bùng lên như mất hết tự chủ! Hà Mậu Nhai, ngồi cạnh tôi, lo lắng giật áo tôi kéo xuống và gần như van nài tôi bình tĩnh. Từ lúc đó, tôi và có lẽ còn một số người khác, chẳng còn tâm trí nào để thưởng thức “tài năng siêu việt” của “cải lương chi bảo” nữa. Giữa giờ giải lao, có thời cơ thuận lợi, tôi đi một mạch về Phan Kế Bính, chẳng báo cho ban phúc khảo, phúc khiếc gì hết.
Tôi muốn tỏ thái độ không tán thành cái cách tổ chức rùm beng để khoe cái “chi bảo” của mấy ông rồi đây sẽ lãnh đạo cái “văn nghệ giải phóng” đi đâu, theo con đường nào? Giữa tôi và một số người có trách nhiệm chèo lái con thuyền văn nghệ miền Nam bắt đầu có những mâu thuẫn không thể điều hòa về chân giá trị của văn nghệ chứ chưa nói đến cái Đúng, cái Thật hoặc đao to búa lớn hơn là “lập trường vô sản”, “đảng tính”, “nhân dân tính”...!
Sự coi thường mấy tay “cai” văn nghệ vô học của tôi té ra vào Sài Gòn “giải phóng” mới có dịp bùng lên mạnh mẽ, quyết liệt hơn, không cách nào kìm hãm. Lạ một cái là sự hăng máu vịt của tôi lại được một số lãnh đạo, đặc biệt là các văn nghệ sĩ Rờ ủng hộ. Ngay trong cơ quan thành ủy, đặc biệt là mấy ông Trung Ương có dịp vào “kinh lý” miền Nam còn lấy tôi làm tấm gương về tinh thần đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Tôi được một số lãnh đạo trực tiếp các ngành nghệ thuật Trung Ương và của “chính phủ ông Huỳnh Tấn Phát” động viên. Chính ông Lưu Hữu Phước, người “to” nhất về văn nghệ miền Nam lúc ấy trên cương vị bộ trưởng, đã cung cấp tài liệu cho tôi để tôi nói có sách mách có chứng về những cá nhân, những tác phẩm nào không ngừng chống phá cách mạng, thậm chí là “phần tử nguy hiểm” tuyệt đối không được xử dụng, thậm chí đổi tên cũng không được! Tôi lại “ngu lâu” lần nữa!
Thực tế, ông bộ trưởng Lưu Hữu Phước cũng như ông Tuất Việt, phó ban Tuyên Huấn chẳng có tí quyền lực gì trước mấy ông “chính trị lão thành” miền Nam dù cùng ở Rờ, cùng chạy tóe khói với Trung Ương Cục sang tận Campuchia trong chiến dịch Johnson City. Cái tờ Sài Gòn Giải Phóng, cả cái nhà xuất bản Giải Phóng của tôi hầu hết đều là dân Bắc Cờ đi B, hoặc dân miền Nam nhưng không một ngày biết mùi Rờ! Vì vậy, không có lý do gì để mấy “khối u Bắc Cờ” này tồn tại! Cuộc tranh giành chức vụ sau “chiến thắng mùa xuân” –– thực ra là mùa hè nóng chảy mỡ chứ đâu có mùa xuân mùa xiếc gì như mấy nhà báo Việt Cộng tô hồng đâu –– cứ thế kéo dài trong mọi lãnh vực, ác liệt và dai dẳng bởi những cuộc thanh toán nhau cả về tinh thần lẫn thể xác.
Có những cái chết rất bí mật thường gọi là tai nạn, là tự sát, không bao giờ được làm rõ. Có những vụ gài độ để hạ bệ nhau, cho nhau vào tù. Có những vụ đường đường là một cán bộ cách mạng, một văn nghệ sĩ, diễn viên lâu năm, một thiếu tá quân đội, công an bỗng biến mất và sau đó có tin... vượt biên? Có nhạc sĩ nổi tiếng bỗng dưng trở thành kẻ buôn lậu thuốc phiện bị xử công khai tới 7 năm tù (lúc này tội ma túy chưa có án tử hình) nhưng sau 3 năm, được ra, lại được nghiễm nhiên đề cao trên khắp báo chí, diễn đàn thuộc loại “số dzách” cả về uy tín lẫn tiền bạc. Tất cả đều có gốc miền Nam và những lần có dịp “sắp xếp lại tổ chức”, người ta lại lợi dụng thời cơ, gạt bớt những tay “Bắc Cờ” hoặc miền Nam nhưng đầu óc...nặng mùi miền Bắc đi, dù có Rờ hay không Rờ.
Sự thanh toán nhau quyết liệt diễn ra liên tục, công khai hoặc âm ỷ tới những năm 1980, 1990 và có lẽ sẽ còn mãi mãi, vì theo tôi, khó thể hoà hợp về tính cách, về trình độ, về sinh hoạt, nhất là về tư tưởng của hai “loại” người Việt Nam ít nhất tới hết thế kỷ... 21!
Ở miền Bắc, tôi đã có nhiều dịp thấy sự khác biệt khó hoà hợp này. Ví dụ: Là miền Nam thì ăn nói phải “thẳng như ruột ngựa”, thái độ phải ngang tàng, “anh chị” đôi chút. Là miền Nam thì phải liều mạng, không sợ cái gì, đã chơi là phải chịu chơi hết mình. Là miền Nam thì mọi quan hệ làm ăn, tình cảm, đồng chí, đồng đội...đều phải biểu hiện ở bàn...nhậu! Nhậu đến bê bết, quên đất, quên trời, đến bán sạch, đến đổ nợ! Là miền Nam còn cả vạn điều khác biệt nữa.
Riêng về cái Đẹp thì tôi xin chào thua!
Với tôi, thứ đẹp nhất trên đời của các vị cán bộ miền Nam tập kết chỉ có một: đó là cải lương! Sáu câu vọng cổ với lời ca rẻ tiền, văn chương ba xu, mỗi khi nghe nghêu ngao bên chiếu rượu thì tôi phải tìm cách đi “rửa tai” ngay.
Tuy nhiên, chớ có tranh luận với các vị về cái thứ nửa kịch nói, nửa xàng xê, hồ quảng, nửa tuồng tây, tuồng tầu, vừa nhị, bầu, tranh, tứ, vừa ghi-ta, organ, violon đôi khi cả trompette, clarinette coi nó thuộc cái thể loại nào trên thế giới và tiếp thu truyền thống nào của cái dân Việt này. Chết có ngày!
Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II đã phải đầu hàng cải lương!
Đại Hội lần thứ III tại Hà Nội chỉ vì dám... “sờ” tới cải lương, một chút xíu thôi đã nổ ra một xì căng đan thuộc phạm vi “đoàn kết giữa hai miền Nam Bắc.” Người lãnh đủ, no đòn hội chợ ngay tại câu lạc bộ của hội văn học nghệ thuật 96 phố Huế, chính là nhà thơ Huyền Kiêu. Ông đã bị ông Ngọc Truyền và một số anh em văn nghệ miền Nam tập kết, ra tay dạy cho bài học lễ độ với cải lương đến nỗi phải đi... bệnh viện!
Thời kỳ học chính trị ở Tổng Cục Chính Trị, các ông Võ Hồng Cương, Lê Chưởng, mấy nhân vật lãnh đạo Tổng Cục, thậm chí đích thân ông đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng không ít lần nhắc nhở anh em văn nghệ sĩ quân đội: “Cần hết sức thận trọng trong việc đấu tranh với các hiện tượng đôi khi quá đáng của anh em văn nghệ miền Nam.”
Ông Hoàng Tố Nguyên ([16]) từng chống đôi nạng gỗ, giơ một chiếc lên chỉ thẳng vào mặt một chủ tịch đoàn người miền Bắc, nói thẳng thừng trước hội trường Nhà Hát Lớn đang họp “nội bộ” để cơ cấu ai sẽ vào Ban Chấp Hành Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật miền Bắc, là “Tên Lưu Quí Kỳ ([17]) kia đã làm khổ anh em văn nghệ sĩ miền Nam rất nhiều rồi! Chẳng khác gì Tố Hữu ở miền Bắc đâu. Tôi đề nghị: Không bầu!”...
Tội cho ông Lưu Quý Kỳ. Hồi trước năm 1954, trong bưng biền Nam Bộ, ông ấy ra lệnh cấm cải lương, gây ra sự bất bình to lớn đến mức nhiều cán bộ kháng chiến bỏ vào thành để được nghe…cải lương. Mà quyết định ấy là của ông Ba Duẩn, chứ ông Lưu Quý Kỳ có quyền gì mà đơn phương ra lệnh!
Sự khó chịu với lối sống “thắt lưng buộc bụng” mà các “lãnh tụ” Đảng áp đặt lên toàn xã hội miền Bắc đã gây ra vô số chuyện đau lòng. Chuyện nhà văn miền Nam tập kết Vũ Anh Khanh, vừa đi dự hội nghị các nhà văn Á Phi về xin vào giới tuyến để sáng tác rồi vượt sông Hiền Lương tìm tự do, bị chết đuối, xác lại trôi về bờ Bắc. Chuyện ông A ông B bị đưa đi cải tạo vì tội tìm đường vào Nam… theo địch (thực sự là chỉ muốn…về quê), chuyện ông X ông Z... ăn cắp bị bắt quả tang. Còn vô số chuyện lộn xộn do học sinh các Trường Miền Nam số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8... gây ra ở các địa phương, khi thì đánh nhau với công an, khi thì đốt nhà dân, nhưng vì tình đoàn kết Bắc Nam nên báo chí êm re, thậm chí trong các cuộc họp cán bộ về trị an cũng không được phổ biến!
Không ít các cháu học sinh các trường đó sau 1975 trở về Nam đã lên nắm quyền lãnh đạo trở thành các “nhà” nọ, “nhà” kia, “giám” này, “tổng” nọ!...
Trong đầu chúng tôi hình thành từ lúc nào không biết một định kiến: “Hãy tránh xa các anh Hai, anh Ba, anh Tư ra, kẻo ăn đòn!” Tất nhiên, không ít anh em miền Nam “chơi được”, nhiều anh em rất biết nếu không có dịp học hành đến nơi đến chốn ở miền Bắc thì cũng chẳng thành được “nhà” nọ, “nhà” kia (thật sự). Chính những anh em này lại bị coi là dân “Nam Bộ đã...Bắc Kỳ hoá” và sau này cũng bị cô lập chẳng kém dân Bắc Cờ thứ thiệt.
Trong thời gian này, đặc biệt có mấy vị nắm tờ Thống Nhất trước kia từng cao giọng chửi bới nhóm Nhân Văn Giai Phẩm để tỏ vẻ ta đây kiên định lập trường “theo Đảng đến cùng”, bỗng quay ngoắt 180 độ, chửi xéo cái Đảng miền Bắc không tiếc lời ([18])!
Tóm lại, thà hòa hợp với “ngụy” chứ không hòa hợp với mấy tay Bắc kỳ... cục! Vấn đề này được chứng minh cụ thể trong ngành văn hóa văn nghệ khi đa số cán bộ tăng cường phải...cuốn cờ về Bắc. Dễ nhận thấy nhất là khi có chủ trương thành lập hội này hội nọ, người ta “cơ cấu” vào các ban chấp hành chấp tỏi gần như chỉ là người miền Nam, là những “đồng chí Rờ”, đồng chí “tại chỗ”.
Tôi còn nhớ khi chuẩn bị thành lập Hội Âm Nhạc thành phố HCM, họ “cơ cấu” vào Hội này cả những thành phần mà theo báo cáo của “tổ chức” là những phần tử “có quan hệ với CIA”, những thành phần đã có hộ chiếu ra đi chính thức như trường hợp Nghiêm Phú Phi.
Với quyết tâm cải tổ tận gốc những hội, chi hội không theo kiểu miền Bắc giáo điều, “danh sách cơ cấu” đã được thông qua, miễn sao không có mặt mấy anh miền Bắc 75, mấy anh dù đi B, nhưng ngửi thấy mùi...có thể nổi danh, mấy anh có tư tưởng “làm ăn lớn” ở cái đất... làm giả hoặc không cần làm mà vẫn có ăn này! Chỉ cần nêu những cái tên như Diệp Minh Châu, Lưu Công Nhân (Mỹ Thuật) Nguyễn Văn Tý, Tô Hải, Phan Huỳnh Điểu (Âm Nhạc), Dương Linh, Khương Mễ, Lê Minh Hiền (Điện Ảnh) Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo (Văn Học)... và nhiều nhiều nữa bị thẳng tay gạt ra rìa là đủ thấy sự chia rẽ sâu sắc đến mức nào! Điều đáng nói mà người ta cứ lờ đi như là chuyện đương nhiên, là cái lệ: miền Bắc có cái gì thì Sài Gòn phải có cái đó.
Những Hội mới được tổ chức ở “thành phố mang tên Bác” nghiễm nhiên được coi như ngang hàng với các hội Trung Ương, dù chỉ là Hội của một địa phương. Người ta ngang nhiên trưng biển ở mặt tiền các trụ sở là Hội này Hội nọ chứ không phải chi hội như các thành phố khác trong cả nước. Đây không phải chuyện danh xưng mà là chuyện mấy anh Nam Kỳ không muốn chịu sự lãnh đạo của mấy anh Bắc Kỳ hoặc hạn chế tối đa tác dụng lãnh đạo của mấy anh Hội trung ương.
Chuyện “kỳ thị” Nam Bắc càng bộc lộ ác liệt, gay go, thậm chí thô bỉ, ở các cuộc đụng chạm hàng ngày. Có lần chính tai tôi đã nghe “Mấy cha Bắc Kỳ nên về mẹ nó miền Bắc cho chúng tôi nhờ!”... Hoặc phũ phàng hơn “ngoài đó đếch có nhà ở, cơm ăn, nên kéo nhau vào đây để phá miền Nam!” Thậm chí có vị còn lớn tiếng tuyên bố “Không cộng tác với mấy thằng Bắc Kỳ, không tiếp, không cho vào nhà!” Thực tế là đã không ít lần các vị lãnh đạo văn nghệ ở miền Bắc như Đỗ Nhuận, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân Khoát...vào Nam công tác không được đón tiếp hoặc đón tiếp lạnh nhạt đến nỗi đi lại chỉ còn nhờ vào xe...xích lô, hoặc nhờ một số anh em Bắc Cờ hoặc miền Nam đã “Bắc Cờ hoá” giúp cho di chuyển bằng cách ngồi sau xe Honda. Chẳng một cái hội văn nghệ Xè Gòn nào cho xe ô tô đưa đón, dù các hội này có cả chục chiếc nằm la liệt ở trụ sở Hội Văn Nghệ 81 Trần Quốc Thảo.
Đau nhất là mấy anh em miền Nam có tên tuổi bị coi là “Bắc Kỳ hóa”, bị cô lập vì cố gắng nhịn nhục ở lại. Đa số bị vô hiệu hóa, thậm chí một chức danh nho nhỏ chứ chưa nói đến đứng đầu ngành cũng không được chia phần.
Họa sĩ Diệp Minh Châu, Lê Thanh Trừ, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Tô Vũ, Văn Lưu chẳng có nổi một cái “tít” chấp hành chấp tỏi gì. Có ông đã phát khóc sau những cú “bầu bán ba bị” có chỉ đạo, cơ cấu sẵn.
Chẳng là nhân vật quan trọng gì, chẳng ham hố trò chia phần chia ghế, một lần nữa, tôi lại chọn con đường kemeisme - kệ mẹ nó. Nhưng là đơn vị trực thuộc tuyên huấn Trung Ương Cục miền Nam –– sau ngày thống nhất là Thành Uỷ Sài Gòn –– không công việc nào, chủ trương nào, đối sách nào mà tôi tránh được “học tập”, “đả thông”, để rồi cứ trong bụng tức anh ách, không sao xì ra được!
Tôi còn nhớ khi có chủ trương chọn một số văn nghệ sĩ đi “tranh thủ” ở mấy nước phương Tây, lập tức chia ra ba bè, bảy mối trong các vị có ý kiến nặng cân nhất. Mặc dầu bên Công An phát hiện Thành Được đã bán nhà, bán xe ô tô và cả đến cái xe Vespa cuối cùng “để chuẩn bị đi Tây”, hoặc trường hợp một diễn viên có hiện tượng chuẩn bị vượt biên, người ta vẫn cương quyết cho đi lưu diễn để tỏ ra biết “trọng nhân tài”, “biết thu phục nhân tâm”!
Thời đó, cũng như bây giờ, quyền của Công An to lắm, ý kiến của Công An nặng cân lắm, nếu các vị lãnh đạo miền Nam vẫn làm được việc mình quyết làm ắt hẳn có lý do cũng nặng cân không kém. Các vụ vượt biên của văn nghệ sĩ chế độ cũ đã được phép hành nghề, cũng như các vụ “ra đi” nhờ chính tay Đảng tổ chức, mỗi ngày đều có báo cáo đầy đủ khi giao ban. Chuyện tởm nhất là vụ Thành Được “vù” nhân chuyến “công diễn” tại Tây Đức. Toàn thể anh em văn nghệ được triệu tập đến 81 Trần Quốc Thảo nghe anh “Bảy hứa” Bảo Định Giang phổ biến:
- Đây là một vụ bắt cóc!
Khiếp chưa! “Cải lương chi bảo” quí tới mức các ông Tây phải bắt cóc để nghe cho sướng con ráy!
Cứ làm như tất cả chúng tôi là đồ ngu, cứ như thiên hạ không nghe “đài địch” để biết Thành Được đã lên đài Frankfurt chửi cha các vị, nhất là chửi hai chữ “bắt cóc” rằng: “Chân yếu tay mềm, đường xá ngu ngơ, mà Bạch Tuyết, Ngọc Giàu còn chạy thoát, huống hồ nam nhi trai tráng như tôi lại kiêm cả cầu thủ, không chạy được hay sao?” Rồi Thành Được kể về buổi liên hoan của Việt kiều tiễn đưa cả ba nghệ sĩ Xè Gòn ra sao. Thành Được còn động viên người về, còn xin người ta cho mỗi nữ “cải lương chi bảo” thêm một cái măng tô cho đỡ rét. Vẫn theo Thành Được, nếu ở lại, hai “ngôi sao” này chẳng biết làm gì mà sống vì cải lương ở trời Tây đâu có ai xài! Còn Thành Được, toàn gia đều ở Tây Đức, anh ruột là triệu phú và trước khi đi Tây, Thành Được chẳng hề giấu ý định “đi tìm tự do” ngay từ lúc còn ở nhà cũng như khi được người ta mua vé máy bay, làm hộ chiếu cho “vượt biên không mất tiền”, còn tiễn đưa, tiệc tùng náo nhiệt nữa chứ!
Điều lạ mà chẳng lạ chút nào là mọi thứ nhà cửa, xe cộ lúc bấy giờ do chưa bị quản lý chặt, nên các vị lãnh đạo văn hoá cứ thoải mái chứng nhận và đóng dấu cho phép... bán!? Vậy mà ý kiến của thành uỷ vẫn là “không ai được bàn tán, xì xào về vụ Thành Được! Thống nhất là có ai hỏi thì cứ trả lời đúng như trên đã phổ biến: “Bị bắt cóc!” Ai không chấp hành nghị quyết sẽ nhận kỷ luật trước Đảng.” Đảng nào vậy? Đảng của ông Thành Được chăng?
Đúng vào hôm Bạch Tuyết, Ngọc Giàu “chạy thoát vụ bắt cóc” trở về, người ta tổ chức đón tiếp linh đình ngay trên quảng trường Nhà Hát thành phố. Chưa ai được đối đãi như thế bao giờ. Những lời lẽ tôn vinh các nghệ sĩ “trung thành với tổ quốc” đã “anh dũng vượt nguy hiểm đào thoát về với tổ quốc, với quê hương” vv và vv… như một trò hề đang diễn ra thì bỗng dưng một giọng nói rất to vang lên từ trên ban công Nhà Hát “Thế còn Thành Được đâu?” Để trả lời câu hỏi chẳng hiểu là khiêu khích hay tiếc nuối, ông Dương Đình Thảo, trưởng ban Tuyên Huấn chụm tay lên miệng, nói với lên cao, rất dõng dạc: “Thành Được chưa về! Chứ không phải...không về”!
Một sự dối trá trâng tráo đến tởm lợm!
Chẳng biết ngay đêm đó, về bật đài VOA, đài BBC lên, ông Dương Đình Thảo có thấy xấu hổ và đau đớn hơn bị tát tai vì câu chuyện “Thành Được bị bắt cóc” ở Tây Đức –– lúc này hai nước Đức chưa thống nhất –– hay không? Mà chuyện này đâu có phải được phát một lần rồi thôi. Hai Đài này phát đi phát lại chuyện Thành Được chạy sang “thế giới tự do” có kèm bình luận làm ngay những người bình thường nhất của Sài Gòn cũng phải ngượng thay cho cái mồm của những chuyên gia nói dối và bịa đặt!
Còn các ông tuyên huấn? Chắc chắn không! Vì cái lối “nói dzậy chứ không phải dzậy” là công việc, là nhiệm vụ, là lẽ sống của các ông Goebbels ([19]) Việt Nam từ lâu rồi! Việc này giới văn nghệ miền Bắc ít biết là có lý do của nó. Người ta dìm nó xuống càng sâu càng tốt.
Đó là cách làm thường thấy của mấy ông “lãnh tụ” miền Nam để bảo vệ nhau khỏi cái nhìn hẹp hòi, đao to búa lớn của mấy ông “lãnh tụ” miền Bắc. Ở đây, thực chất của vấn đề là các vị “lãnh tụ” miền Nam không muốn “mấy cha” giáo điều Lê Đức Thọ, Trường Chinh...“xía dzô” nội bộ của của họ để có thể tọa hưởng kỳ thành trên cái “vương quốc Sài Gòn” mới chiếm được.
Những chuyện “đừng vạch áo cho người (miền Bắc) xem lưng” xảy ra trong mọi lãnh vực, nhất là qua các vụ chia chác quyền lợi, cướp bóc “chiến lợi phẩm”, các vụ ăn chơi trác táng, chiếm nhà, đoạt vợ.., nếu có “lộ tẩy” đều là do các cán bộ Bắc Kỳ tố cáo, hoặc do cán bộ Miền Nam “gài độ” nhau để giành ghế mà thôi!
Cú đánh trả tất yếu phải được tung ra, điển hình là vụ “Đường Sơn Quán”. Cái quán này thực chất là một ổ điếm, điểm ăn chơi của các quan chức giàu có. Hàng loạt cán bộ “tăng cường” được đưa từ miền Bắc vào lần đầu tiên bị bêu riếu công khai cả tên tuổi lẫn chức vụ trên báo chí, rồi bị đưa ra toà! Không hiểu vì lẽ gì mà trong những tấm ảnh “chết người” được in trên trang nhất các báo người ta đã che mặt cho người đẹp Diễm My, ngôi sao “số dzách” của miền Nam thời ấy? Theo lời đồn thì có thể cô là vợ bé hay bồ nhí của nhà buôn danh tiếng Triệu Bỉnh Thiệt còn đang được dùng cho những thương vụ xuất nhập khẩu với Hồng Kông, mà cũng có thể cô ta còn có quan hệ với anh Năm anh Bảy nào đó nên được các anh che chở. Hậu quả là sau vụ ra tay...diệt nhau đó, hàng loạt “đồng chí” đã bị thanh trừng. Có anh phó giám đốc vận tải xăng dầu lãnh án 12 năm, có anh làm đến trưởng phòng điều tra xét hỏi của Công An thành phố cũng vào tù theo, con gái nhục quá đã tự tử!
Trong khi đó, ở các biệt thự kín cổng cao tường, trên các khách sạn nhiều tầng, hàng loạt cuộc “vui chơi báo thù” của mấy ông cán bộ “Rờ”, cán bộ “Miền” và anh chị em mới hoà hợp (tại chỗ), diễn ra liên tục, từ tối đến sáng và từ sáng đến tối! Chẳng thế mà nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu ([20]) đã lè nhè hát “Mỗi ngày tôi nhậu một lần thôi... nhậu từ sáng đến tối...” xuyên tạc lời một bài ca của Trịnh Công Sơn để mỉa mai mấy ông cách mạng... “thích đủ thứ” này!
Tôi hết hồn khi mấy anh em nhạc công “tại chỗ” mời tới dự buổi chiêu đãi tại một nhà hàng trên đường Trần Hưng Đạo. Ngoài những suối rượu, suối bia, gọi là màn A thì sau B,C,D,Đ,E... không thể thiếu được là màn Z! Chính cái tiết mục Z.. “con heo” này, được hướng dẫn bởi một máy chiếu phim 8 ly, mới là cái mê mẩn nhất của mấy ông cách mạng mà vợ đã “quá đát” từ lâu! Cái “hay” của mấy anh miền Nam “hư thân mất nết thứ thiệt” là ở chỗ, tất cả đều...“lòng vả cũng như lòng sung” nên không ai tố cáo ai. Còn mấy anh miền Bắc thì...do “hám của lạ” nên rất dễ bị gài độ, bị làm xăng-ta, và khi cần thiết, chỉ cần một cú đẩy nhẹ là... ngã ngựa!
Cần phải nói tới hàng ngàn “cán bộ tăng cường” vào một ngày đẹp trời bỗng nhiên được lệnh...“trở về Trung ương” –– thật ra là... đuổi khéo về Bắc –– nhất là sau ngày vội vã thống nhất đất nước, giải tán Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam! Rốt cuộc ở lại Sài Gòn chỉ có những người miền Nam chính cống với tư tưởng và sinh hoạt “phóng khoáng”, với “tinh thần yêu thương đoàn kết” không hại nhau, không tố nhau và biết... chia chung miếng ăn, ghế ngồi. Vả lại, với chiến lợi phẩm ê hề của cuộc chiến thắng thì làm thế sẽ bớt phần phải chia chác!
Chỉ riêng chuyện Trung Ương cần phải có trụ sở thứ hai ở miền Nam hay không đã nổ ra một cuộc đấu tranh không kém ầm ĩ ở ngay cái cơ quan nhỏ bé của tôi. Người ta bỗng nhận ra toàn bộ nhà xuất bản Giả...i Phóng này đều là 100% “đồ Bắc nhập” ở giờ thứ 25, mặc dầu lẫn vào đấy cũng có vài chú bé học sinh miền Nam mới lớn!
Thế là số phận của nó được định đoạt: “Giải tán, trả về bộ Văn Hoá”! Tuy nhiên, nếu ở các ngành khác việc giải tán hoặc sáp nhập diễn ra dễ dàng và đơn giản thì ở ngành văn hoá văn nghệ công việc không chiều theo ý muốn chủ quan của những vị muốn tống cổ hết dân Bắc Kỳ về Bắc. Ông Bảo Định Giang tuyên bố “trục xuất” hoạ sĩ Lưu Công Nhân giữa cuộc họp thành lập Hội Mỹ Thuật thành phố HCM khi họa sĩ “coi trời bằng vung” này dám lên tiếng chất vấn “vì sao ông này luôn có mặt hết sức vô duyên” ở các cuộc họp của bất cứ ngành văn học nghệ thuật nào? Một cú đánh thẳng mặt vào sự “lãnh đạo toàn diện” của “Đảng miền Nam” mà đại diện lăng xăng nhất chính là ông Bảo Định Giang.
Kết quả là Lưu Công Nhân được anh em hai miền, cả cách mạng cũng như “tại chỗ” hoan nghênh nhiệt liệt! Cuối cùng, Lưu Công Nhân vẫn “được” ở lại, vẫn tiếp tục sáng tác, triển lãm... chẳng cần sự lãnh đạo của ai, ngoài của bà...xã! Khá nhiều người có chức, có quyền trong giới văn học nghệ thuật nhận thức “nếu không có những người như Lưu Công Nhân, lấy ai mà làm cánh tay phải, tay trái khi tiếp xúc với những Nguyễn Trung, với Rừng ([21])? Vậy, nếu đuổi hết về Bắc thì mấy ông “trót” bị giao lãnh đạo văn nghệ biết nói gì khi anh em “tại chỗ” hỏi về tác phẩm, về khuynh hướng, về trường phái, thậm chí cả về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa?
Chính điểm yếu nhất của những vị quanh năm ăn theo, nói leo, nói vớt, cùng các văn nghệ sĩ Rờ quanh năm ăn đói, mặc rách, viết “lách” kiểu Hòn Đất của Anh Đức ([22]), ít có điều kiện học hành, thăng hoa trong nghề nghiệp đã là lý do để một số văn nghệ sĩ Bắc Cờ, hoặc “Bắc Cờ hóa” được giữ lại giúp các vị i-tờ, trực diện với một nền văn nghệ mà...càng đấu tranh càng thấy mình... thua chắc!
Nhưng cũng chính ở điểm này, sự đầu hàng trước “nghệ thuật phi chiến tranh” đã bắt đầu nẩy sinh để đi đến chỗ... đầu hàng thực sự! Câu nói của Lương Ngọc Trác khi sống những ngày đầu trong hoà bình năm xưa lại vang lên trong tôi, chỉ cần sửa lại đôi chút: “Nền ca khúc muốn tồn tại ở cái môi trường mới này không còn con đường nào khác là phải đi vào...nhạc nhẹ!” Mặt khác, phải cố gắng nuôi mầm cho một nền âm nhạc bác học, dù hết sức khó khăn. Chính nhờ sự giằng co về đường lối này, những người như Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý, Lưu Công Nhân, như tôi được tiếp tục sống và làm việc ở Sài Gòn “giải phóng”... để rồi... chịu cảnh... thua trận cuối cùng!