← Quay lại trang sách

Trước trận đánh ở Kurk và khởi đầu trận đánh

Như vậy, tôi về Moskva và kể cho Stalin về tình hình công việc ở mặt trận phía nam. Lúc đó chúng tôi có tâm trạng tốt, chúng tôi còn cảm xúc vui mừng về thành công của mình. Bắc Kavkaz cũng nhanh chóng được giải phóng. Nhưng đây là một phần đất, chứ không phải mặt trận của chúng tôi, còn nói chung, các mặt trận khác, tôi báo cáo về công việc chẳng mặt trận chúng tôi. Stalin:

- Chúng tôi chuẩn y ông làm uỷ viên hội đồng quân sự mặt trận Voronez. Quân đội chúng ta phải chiếm Kharkov. Ông biết điều này chứ?

- Tôi biết. Hồng quân đang tiến trên khoảng cách tương đối đáng kể sang phía tây Kharkov.

- Anh phải bay ngay bây giờ về ban tham mưu mặt trận Voronez. Ông sẽ đảm nhận chức vụ không những là uỷ viên hội đồng quân sự của nó, mà còn Bí thư BCHTƯ ĐCS(b) Ukraina, như hiện thời và trước đây.

Sau đó Stalin bắt đầu chế giễu những nhà lãnh đạo, mà ông trao công việc Ukraina cho họ, trong những ngày Stalingrad mà ông đã nói với tôi rằng tôi không phải người Ukraina và vì thế vận hành công việc của nó là Kornies, khi đó là Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ CHXHCN Ukraina.

Tôi cũng kể, tôi đồng ý ra sao với việc tôi không phải người Ukraina: mọi người biết rằng theo hộ chiếu và theo chỗ tôi sinh ra, thì tôi là nông dân, còn làng tôi - làng người Nga, mặc dù đúng là kề sát với Ukraina. Biên giới là biên giới. Tôi còn chưa bổ xung một ý nghĩa nữa là, tôi là người Ukraina hay tôi người Nga. Tôi là người quốc tế và kính trọng từng dân tộc. Nhưng gần nhất với tôi là những người sống với tôi thuở thơ ấu và thanh niên. Đây là công nhân, nông dân Nga và Ukraina, cả trí thức Ukraina, mà tôi làm việc với họ, khi tôi làm ở Ban chấp hành Đảng Kiev năm 1928-1929 và đặc biệt là bí thư thứ nhất BCHTƯ ĐCS(b) Ukraina. Tôi 13 năm làm việc tại Ukraina, và không phải đơn thuần với sự thoả mãn, mà còn với sự ham thích lớn, và rất hài lòng bởi mối quan hệ với tôi từ tất cả mọi người - công nhân, nông dân và trí thức Ukraina.

Tôi trả lời:

- Được, đồng chí Stalin, tôi thích thú đến mặt trận Voronez. Nhưng ai chỉ huy quân đội Mặt trận Voronez?

- Tướng Golikov.

Lúc ấy tôi lập tức nhớ lại khi Stalin phê bình tôi vì tôi không ủng hộ Golikov, khi ông là phó tư lệnh quân đoàn ở Stalingrad. Lúc đó (tôi đã kể) ông ta viết cho Stalin những điều xấu xa chống Eremenko, và Stalin tôi phê bình tôi là; tôi ủng hộ mạnh Eremenko và không ủng hộ Golikov. Có thể Golikov cũng viết những điều xấu xa nào đó về tôi? Điều này có thể. Tôi trong đời, đáng tiếc, thấy nhiều điều xấu xa. Sự thật, tôi cũng nhìn thấy những điều tốt và cả còn xấu xaо. Một lần khác những điều xấu xa lại được làm bởi những những những người có vẻ bề ngoài tương đối lịch thiệp và nhã nhặn. Có thể, lấy thí dụ, những người khác, có những sự kiện như thế, làm một cách thành công cùng với Golikov? Đúng là Golikov hành động một cách thiếu đứng đắn, mật báo viết những điều xấu xa về Eremenko và, trực tiếp hoặc gián tiếp, về tôi như uỷ viên hội đồng quân sự Stalingrad mặt trận. Có nhiều điều phụ thuộc vào tôi, khi Golikov tương đối muộn màng, trong đời mình, được giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị RKKA và khi người ta phong cho ông danh hiệu nguyên soái - danh hiệu cao nhất trong quân đội xô viết.

Tôi nói với Stalin:

- Golikov chỉ huy cái gì? Ấn tượng của ông thế nào?

Tôi không nói gì thêm nữa, nhưng Stalin hiểu ngay lập tức, tôi hỏi một vấn đề như thế vì rằng chúng tôi có những đánh giá khác nhau về tính cách Golikov - đại diện mặt trận thuộc tập đoàn quân Chuykov, khi Golikov không hoàn thành lệnh về tổ chức chuyển tải đạn dược và bổ xung cho Stalingrad. Tôi đã coi khi đó và bây giờ vẫn coi rằng chúng tôi và tư lệnh quân đoàn mặt trận Stalingrad đã phản ứng đúng. Tuy nhiên bây giờ nảy sinh tình hình khác. Quân thù ở Stalingrad đã thành tù binh, mọi người đều vui mừng chiến thắng. Đó là không những là vui mừng của nhân dân chúng tôi, mà còn tất cả loài người tiến bộ, hiểu rõ ý nghĩa cuộc đấu tranh của chúng tôi với bọn phát xít.

Stalin lại liếc nhìn tôi:

- Anh nhớ rằng anh đã nói với tôi về Golikov?

- Đúng, tôi nhớ.

- Anh đã nói như thế nào?

- Khi đó ông đã gửi tôi - uỷ viên членом hội đồng quân sự - tới chỗ Golikov?

- Chúng tôi nhanh chóng có quyết định quyết định mới và chuyển ông ta đi.

Tôi không biết vì sao Stalin nói với tôi điều này. Trong nỗu đau khổ, điều này có tồn tại không? “Chúng tôi nghĩ sẽ bổ nhiệm Vatutin làm tư lệnh quân đội mặt trận. Ông biết Vatutin chứ?

- Tôi biết tướng Vatutin, và thậm chí rất biết khá rõ. Tôi đánh giá cao ông ta.

Vị tướng này kể ra cũng đặc biệt. Tính cách của ông được đúc kết là ông hầu như không uống rượu. Nói chung tôi không nhìn thấy, ông uống rượu vang. Ngoài ra, ông rất có khả năng làm việc và được đào tạo rất tốt về binh nghiệp. không phải ngẫu nhiên, một thời gian, ông là tham mưu trưởng ban tham mưu Quân khu Kiev, còn sau đó phó tổng tham mưu trưởng Bộ tổng tham mưu. Cũng có những đánh giá tốt kiến thức quân sự của ông. Và tôi nói:

- Tôi kính trọng cao ông ta như trưởng ban tham mưu, những một con người hiểu biết công việc quân sự, như một Đảng viên. Nhưng tôi không biết, ông thể hiện mình như thế nào ở vị trí tư lệnh. Ở đây đòi hỏi, ngoài kiến thức, tài năng và kỹ năng sử dụng quyền hành của tư lệnh, kỹ năng ra lệnh và đòi hỏi sự hoàn thành mệnh lệnh. Ông có thể làm công việc chiến dịch, tôi không nghi ngờ điều này, còn những những khả năng khác của ông ta, tôi hoàn toàn chưa biết. Trong quan hệ này đối với tôi ông là một người mới, tôi với ông chưa chạm nhau cả.

Tôi không nhớ, Stalin sau đó nói cái gì, nhưng tôi hài lòng bởi sự bổ nhiệm mới.

Một hai ngày sau, tôi bay đi. Khi chuẩn bị bay, người ta báo cáo tôi rằng tại hướng Kharkov, quân địch gộp quân SS, sư đoàn xe tăng và dồn bộ đội chúng tôi về Kharkov. Bộ đội chúng tôi rút lui về phía đông trên một khoảng cách khá lớn, và kẻ địch tiến đến sát Kharkov. Tôi bay vào buổi chiều, trước hoàng hôn. Chúng tôi và Nicolai Ivanovich Sybinyi chọn chính thời gian như thế. Tôi luôn luôn, chừng nào còn sống, tôi sẽ nhớ những lời tốt của phi công đáng nể, một tướng, một con người trung thực, thông minh tỉnh táo và rất thú vị. Trong trường hợp đã nêu ông đã vạch kế hoạch chính xác sao cho chúng tôi bay đến Kharkov vào chiều tối, vì rằng trong thời gian này ít khả năng gặp máy bay tiêm kích địch. Chúng tôi xử sự như thế. Khi chúng tôi hạ cánh, thì ánh lửa sáng lên.

Từ sân bay về Kharkov. Người ta thông báo cho tôi một tin rất đáng lo ngại: Kharkov đang bị mối đe doạ, quân địch có thể chiếm nó. Tôi đi đến ban tham mưu mặt trận, gặp tư lệnh quân đội. Ông thông báo tình hình mặt trận. Quả là, tình thế rất bi đát. Kẻ địch hơn hẳn chúng tôi về số lượng người, hơn hẳn về vũ khí. Địch có xe tăng, và bộ binh tinh nhuệ. Trong cuốn sách “Tuyệt mật”, tôi biết rằng kẻ thù đưa chúng từ Italy đến. Tốt hơn cả, địch ném quân SS và sư đoàn xe tăng xung kích nơi đây, đánh chúng tôi trên hướng Kharkov.

Chúng tôi đến Merefa, cách Kharkov 25 km. Tôi từng ở Merefa từ trước cách mạng. Khi đó tôi đi từ tỉnh Kursk của mình đến Donbass, đến Yuzovkу, thì chắc chắn nhất định qua Merefa. Còn bây giờ, tất nhiên, tôi đến đó với tư cách khác. Lãnh đạo cụm quân ở đó là tướng Kozlov. Trước đó, tôi không biết Kozlovt. Trước đây, ông chỉ huy nhóm Kerchen của bộ đội chúng tôi. Chúng tôi đổ bộ quân vào Krym bị kẻ thù chiếm giữ, nhưng chiến dịch thất bại và bộ đội chết rất nhiều ở đó. Theo tôi, gửi đến đó Vorosilov để chỉ huy. Sau đó, hình như, người ta rút Vorosilov và cử Mekhlic làm chính uỷ. Thực tế, Mekhlic được coi như là người đại diện Tổng hành dinh chỉ huy nhóm quân này. Ông đặt Kozlov dưới ông, và bộ đội chúng tôi bị thiệt mạng. Tôi nhớ, khi đó Mekhlic nổi cơn thịnh nộ chống tất cả các dân tộc Kavkaz. Ông nói rằng sự bổ xung chính, và nói chung, bộ đội mặt trận này gồm toàn những người Kavkaz, mà họ hoàn toàn không được tin cậy. Từ quan điểm chính sách dân tộc của chúng ta, ông tuyệt đối không đúng đường lối. Bản thân ông là bốc đồng, nhưng là một người rất được lòng tin của Stalin.

Vơ về mình sự chỉ huy, Mekhlic thực tế tước đoạt khả năng chỉ huy của Kozlov. Tôi không thể khi đó xem xét chiến dịch này ở mọi mặt, dó không phải là chức năng của tôi. Nhưng tôi đã nghe những chuyên gia quân sự bàn cãi và phân định sự kiện xảy ra ở mặt trận Krym. Họ đổ lỗi thất bại cho Mekhlic và ở mức độ nào đấy cho Vorosilov. Nhưng họ cho rằng lỗi phần lớn là Mekhlic, rằng Kozlov thể hiện tính cách của mình là người chỉ huy quân đội. Ông lập tức chịu ảnh hưởng của Mekhlic thay vì chỉ huy theo ý mình và dùng kiến thức quân sự để tổ chức bộ đội. Ông trở thành ngoan ngoãn nghe lời và thực hiện mệnh lệnh và những dự kiến mà Mekhlic đưa ra. Tóm lại, tiếng tăm Kozlov bị hư hại. Ông là một chỉ huy thể hiện ở mức độ nào đấy tính vô nguyên tắc, tính ù lỳ.

Đến Merefa chúng tôi đi cùng với Golikov. Kozlov gây cho tôi nói chung, một ấn tượng xấu. Tôi cố gắng không bị nghiêng bởi ảnh hưởng mà đã nghe trước đó về ông ta, tôi muốn chính mình đánh giá ông trên cơ sở sự kiện mà bây giờ tôi có thể quan sát được. Ông lập luận hoàn toàn khôn ngoan, hợp lý. Những mệnh lệnh ông đưa ra, đối với tôi là sáng ý. Tóm lại, tôi không có ấn tượng phủ nhận về Kozlov.

Như vậy, chúng tôi lại ra đi. Cái gì đây? Hay là ở Kozlov, ở Petrov, Ivanov, đằng nào cũng thế, chúng tôi ra đi, vì rằng kẻ địch có sự lấn át. Lúc đó chúng tôi cảm thấy và thậm chí đã nói rằng chúng tôi không có khả năng giữ được Kharkov. Tôi rất đáng tiếc điều này. Tôi đi khắp thành phố. Thành phố không bị phá huỷ nhiều. Nhà máy sản xuất máy kéo nói chung vẫn nguyên vẹn, không bị phá huỷ chút nào! Chúng tôi trước đây tháo dỡ thiết bị mang đi, nhưng quân Đức lại sửa lại: thu nhặt thiết bị và tổ chức những thợ lành nghề sửa chữa. Như người ta nói, đưa máy tiện, cấp nguyên liệu, công nhân - và có thể bắt đầu sản xuất xe tăng, ô tô hoặc máy kéo. Nhưng tôi biết rằng bây giờ lại ở lại Kharkov, thì lần sau (chúng tôi tin rằng khi chính trị quay về thậm chí không ngờ vực kẻ địch có thể giữ được thành phố không lâu) kẻ thù làm tất cả những gì để phá huỷ thành phố, đặc biệt là các xí nghiệp. Tôi tin tưởng rằng nhà máy sản xuất máy kéo không còn lại, mà kết thúc nó. Thôi, đành chịu! Như vậy, chúng tôi bắt buộc lại dừng ở Kharkov.

Tôi quyết định chuẩn bị những cuộc hội đàm với trí thức Ukraina. Và buổi chiều, có cuộc gặp với trí thức, những người còn lại ở Kharkov và đã sống dưới thời bọn Đức. Nhưng đêm hoặc sáng sớm hôm sau chúng tôi phải đến ban tham mưu mặt trận Kharkov. Cuộc gặp gồm những trí thức Ukraina, những người trong thời gian ấy thuộc ban tham mưu mặt trận, nói đúng hơn - thuộc tôi, như thuộc uỷ viên hội đồng quân sự, và chủ yếu các cán bộ lãnh đạo của Hội đồng Dân uỷ Ukraina. Tóm lại, tích cực. Chúng tôi tập hợp theo nguyện vọng của mọi người, để khi quân đội chúng tôi tiến sang sang hướng tây, có thể lập tức sắp xếp cán bộ và tổ chức nhà nước, nước cộng hoà, cơ quan hành chính vùng và khu vực. Nhiều việc đã làm khi đó là Nicolai Platonovich Bazan và những nhà văn khác. Chính qua họ, tôi đề nghị trí thức tập hợp lại, nói rằng tôi sẽ đến họ nói chuyện và nghe họ. Chủ yếu, tôi muốn chính tai nghe, hiểu tâm trạng của họ.

Cuộc mit tinh được tổ chức rất tốt. Người của tôi cảnh báo:

- Ông rất thận trọng khi phát biểu. Chúng tôi luôn luôn nói rằng chúng tôi không lạc đề và chi tiết. Điều này sẽ gây một ấn tượng xấu, vì rằng chúng tôi cũng nhận quyết định về sự rút lui. Không cách nào giữ được Kharkov. Chúng tôi sẽ ở lại Kharkov. Vì thế phải nói sao cho gây được niềm tin rằng việc rút lui không đánh giá trong đầu của một cử chỉ khó hiểu nào đấy: đằng nào cũng thế, chúng tôi tiến lên phía trước, kẻ thù sẽ bị tiêu diệt và rút khỏi lãnh thổ Liên Xô.

Điều này nghĩa là muốn khuyến khích họ. Tôi không thể nói trực tiếp cho họ rằng chúng tôi rút lui. Nói chung về sự rút lui là không có cả trong lời nói. Nhưng tôi gián tiếp nói bóng gió cho họ và khêu gợi họ sự tự tin, để họ vững tâm hơn trải qua cuộc xâm lăng mới của quân thù. Tôi khuyến dụ họ trong lời phát biểu của mình để họ rút lui cùng với Hồng quân. Mặc dù tôi nói không đúng như thế, nhưng tôi muốn tin họ không tin bọn Đức; làm cho họ hiểu rằng chúng tôi sẽ không bắt giam trí thức, rằng sẽ không trách cứ mọi người, rằng họ vẫn ở lại trong vùng đất bị tạm chiếm, tuy nhiên tôi mong họ cùng rút lui với chúng tôi.

Có một tình tiết làm tôi lo ngại: tôi sợ rằng khi chúng tôi rút lui, còn họ ở lại. Nếu xảy ra như thế! Nhưng nếu tôi nói bóng gió rằng tôi phán xét họ sự nhục nhã của họ trong trường hợp nếu họ ở lại, thì điều này sẽ coi như là lời đe doạ. Tiếp theo, nếu như họ chạy sang sang phương Tây với Đức thì sao. Tôi cũng sợ điều đó. Tôi muốn, xua tan khỏi Kharkov những tin đồn, rằng trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ không có sự đàn áp. Để tin này đến tai những người không có mặt tại buổi mit tinh (tại đó không có nhiều người dự). Không có mặt, chẳng hạn, Gmyr. Nhưng giọng hát của ông vang vọng khắp Ukraina. Đó là - nghệ sỹ tuyệt vời. Ông ở lại Ukraina khi Đức chiếm đóng. Sau đó ông giải thích rằng ông ở lại vì vợ ốm. Bây giờ chúng tôi sẽ không phân tích điều này. Tôi cũng đã quen với những lời giải thích rằng hoặc vợ, hoặc mẹ, hoặc bố đã chết và người ta không thể tản cư. Liệu có thật thế không, rất khó đoán. Tồn tại bầu không khí căng thẳng, không kiểm tra nổi. Nhưng sau đó cũng không nảy sinh ý nghĩ phải kiểm tra.

Ngắn gọn, tôi tiến hành cuộc nói chuyện như thế. Ở đó có mặt một hoạ sĩ (tôi quên họ tên của ông). Người ta nói rằng ông là một hoạ sĩ không tồi. Nhưng ông đã kể chuyện một cách trắng trợn, rằng đã sống như thế nào dưới thời Đức chiếm thành phố và đã sống như thế nào thời “bị săn đuổi”, điều này gây cho một ấn tượng rất khó chịu. Thôi, tôi không biểu lộ ra ngoài. Tôi giữ đường lối như thế, tôi không đụng đến điều này. Ông cũng khoe khoang đã buôn bán tranh thánh như thế nào. Ông kể:

- Chúng tôi lấy tranh thánh in hàng loạt, dùng hoá chất biến chúng có vẻ cũ hơn và, lợi dụng sự ngờ nghệch của người mua (bọn Đức), bán cho họ những bức tranh này như những tranh cổ có giá trị đặc biệt..

Ông kể y như một người quỷ quái, một con buôn ma mãnh. Hình như ông có cuộc sống không tồi. Những người khác kể khác đi là ông ta thậm chí có cả nhiệt huyết có thể sống trong hoàn cảnh như thế và lừa bọn Đức như thế nào. Người thông minh, dường như, luôn luôn lừa phỉnh những người ngốc nghếch; và tôi cũng chỉ ra những khả năng của mình.

Chúng tôi mit tinh, rồi tôi từ giã và ra đi. Vào lúc đêm hoặc sớm hôm sau, nhưng chúng tôi bắt buộc phải rút lui. Buổi sáng tất cả ban tham mưu ra khỏi thành phố và một thời gian ngắn sau, quân Đức lại vào Kharkov. Nhưng tôi muốn ông hoạ sĩ này ra đi, và những trí thức khác cũng không ở lại với Đức nữa. Tôi muốn tin rằng họ không ở lại. Không, hình như ý nghĩ của con người này không được tốt, ông ta có nếp nghĩ, có tính cách của mình gần với kẻ thù của chúng ta, hơn là có tinh thần của một người xô viết, của một trí thức xô viết, của một hoạ sĩ xô viết. Sau này tôi hỏi Bazan và những người khác đồng chí về ông ta: ông ta ở đâu? Họ trả lời rằng:

- Ông ta không ở với chúng tôi.

Thật khó biết, ông có thể đi hoặc không đi. Có thể, nếu như ông muốn. Nhưng không đi theo chúng tôi. Sau này, khi chúng tôi lại giải phóng Kharkov, tôi cho người tìm vị hoạ sĩ này để tự kiểm tra xem mình có đánh giá đúng người này không. Không, ông đi theo bọn Đức. Linh hồn của ông ta là linh hồn của một con buôn và một kẻ hám lợi đã kéo ông theo bọn Đức mà không theo chúng tôi, và ông đi theo “hướng này”.

Khi chiến tranh kết thúc, tôi hỏi liệu có thấy tăm tích ông ta không? Không, không tìm thấy ông ta. Nhưng tôi không thể giả thiết rằng quân Đức đã làm một điều gì đó với ông. Có lẽ ông phục vụ chúng. Có thể ông ở lại Đức mà không quay về nhà. Hồi ấy, nhiều người - cả Nga và Ukraina, và những người khác đã làm như thế. Người Ukraina khá nhiều! Đặc biệt những người dân vùng tây Ukraina. Ở đó nhiều người dân tộc chủ nghĩa, bị u mê bởi sự tuyên truyền của quân thù, hoặc bọn quảng cáo. Họ tin vào kẻ thù, ở lại ở phương Tây và cắt đứt với tổ quốc mình. Có thể, người hoạ sĩ cũng đi đến Canada. Tóm lại, tôi nói đây là kiểu người con buôn sản phẩm nghệ thuật.

Như vậy, chúng tôi lại rút lui. Ban tham mưu mặt trận rút về Belgorod. Chúng tôi tính toán cầm cự ở Belgorod, nhưng lực lượng chúng tôi yếu đến nỗi chúng tôi không làm được điều này. Ban tham mưu đóng ở một căn nhà nhỏ có một vườn nhỏ. Hàng đêm, địch ném bom Belgorod, kể cả chỗ đóng quân ban tham mưu chúng tôi. Không loại trừ ở Belgorod, có thể, trước đây đã cài lại bọn điệp viên Đức hoặc bọn bán nước, để bọn này liên lạc với máy bay địch. Sự thật Belgorod là một thành phố nhỏ. Nhưng máy bay quân thù nằm đúng khu vực ban tham mưu chúng tôi đóng. Một lần, khi chúng tôi và Golikov đứng cạnh bản đồ và phân tích tình hình, thì bom rơi trúng sân. Chao đèn vỡ nát, ánh sáng phụt tắt, thuỷ tinh phủ đầy bản đồ bản đồ. Chúng tôi chạy ra ngoài, nhìn thấy một vái hỗ miệng phễu. Hình như quả bom không lớn. Nếu như mà nó là bom to, thì có lẽ ngôi nhà chúng tôi đã bị sập. Chúng tôi thu xếp lại trật tự, nhưng cũng trong đếm ấy lại bị ném bom.

Có một trường hợp như thế này. Tư lệnh quân đội cần sử dụng nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh có nước nóng không có, chỉ có nước lạnh ở ngoài đường. Vị tư lệnh vừa ở đấy, khi chúng tôi bị ăn bom, nhưng mọi việc vẫn một cách bình yên, mặc dù lúc Golikov đến tất cả vẫn phủ đầy rác. Chúng tôi sau này không ít lần trêu chọc ông ta rằng với người còn sống thì tất cả đều tồn tại cả thảm kịch và cả những điều buồn cười.

Kẻ địch duổi theo và cũng tiến đến Belgorod. Chúng tôi không thể chống cự lại quân địch bằng sức của mình để chặn nó, và chúng tôi bắt buộc bây giờ phải giữ Belgorod. Nhưng sáng sớm, chúng tôi và Golikov chọn một chỗ mới để đóng ban tham mưu, không phải ở Staro Oskol, không phải ở Novo Oskol, mà ở một nơi xa bắc sông Đông. Chúng tôi quyết định ra đi lúc hửng sáng, để không bị ném bom. Khoảng cách đến ban tham mưu mới tương đối xa. Tôi không nhớ, chúng tôi đi bằng ô tô. Có thể, cả bằng xe trượt tuyết, bởi vì có nhiều đống tuyết rất dày. Chúng tôi rất đau lòng sự kiện cả Kharkov, cả Belgorod đã đầu hàng. Tất nhiên bây giờ kẻ thù sẽ dốc toàn lực chiếm Kursk, mà chúng tôi chiếm hồi tháng hai.

Chúng tôi xây dựng tuyến phòng thủ: tháo dỡ tất cả những gì chúng tôi có và các thứ mà Tổng hành dinh có thể cho thêm. Kẻ địch, hình như cũng hết hơi và ngừng tấn công tiếp. Bộ đội chúng tôi cầm cự ở bắc và đông Belgorod, từ Sudzi đến Volchank. Ban tham mưu mặt trận chuyển về Oboian. Đó là chính diện phía nam của vòng cung Kursk được hình thành lúc ấy; Tói lúc này, Vatutin đi đến với lệnh để ông chỉ huy quân đội mặt trận. Golikov được lệnh, bàn giao lại sự chỉ huy, quay về theo lệnh Tổng hành dinh. Chúng tôi từ giã Golikov, và Vatutin bắt đầu đảm nhận chức tư lệnh. Chúng tôi khi đó không có khả năng tiến hành một chiến dịch tích cực nào đó. Tiếp theo, chúng tôi cũng chưa có cả ý định gì cả. Tất cả sức lực dồn vào để làm tốt phòng tuyến và chọn chỗ thuận lợi nhất để tạo ra vững mạnh rộng rãi. Chúng tôi muốn chuẩn bị tốt hơn đến mùa xuân, vì tin rằng vào mùa xuân, kẻ địch lại tấn công, và chúng tôi cũng sẽ tấn công và tiêu diệt chúng.

Người ta gửi một quân đoàn tăng cho chúng tôi. Tôi bây giờ quên tên tư lệnh quân đoàn. Đó là một lính xe tăng, trước đây chỉ huy lữ đoàn tăng, còn năm 1943 nhận chỉ huy quân đoàn. Ông lê bước tới phòng tuyến, tại khu vực mà ông cần phải bố trí. Và khi đó lần đầu tiên từ khi bắt đầu chiến tranh chúng tôi gặp đối đầu như thế này từ phía quân thù: địch trực tiếp hành tiến có thể tiêu diệt hầu hết tất cả quân đoàn tăng này. Họ giết như thế nào? Từ trên không, địch dùng máy bay ném bom tầm thấp kiểu U-2 của chúng ta, nhưng chỉ mạnh hơn chút ít. Những máy bay này trang bị pháo. Chúng bay sát xe tăng chúng tôi và bắn từ trên không xuống, lợi dụng lớp thép bọc trên đỉnh tháp pháo rất mỏng. Vì thế chẳng khó khăn gì bằng pháo cỡ nhỏ hoặc thậm chí bằng đạn súng máy cỡ lớn có thể bắn cháy xe tăng. Tôi nhớ, khi vị tướng chỉ huy quân đoàn với roi nhỏ tới gặp chúng tôi. Có lúc nào đó người ta nói về dân Digan, những người bị mất ngựa và chỉ còn lại cái roi. Vị tướng “với cái roi nhỏ” đến ban tham mưu mặt trận chúng tôi, ông quá xúc động đến rơi nước mắt. Ông thẫn người vì mất cả quân đoàn. Quân đoàn của ông thậm chí không có súng máy phòng không để bảo vệ xe tăng khỏi bị máy bay tấn công. Sau trường hợp này, các nhà thiết kế xô viết rút kinh nghiệm thiếu sót này và cho xuất xưởng xe tăng có súng máy phòng không. Tôi không nhớ, mỗi xe tăng có súng phòng không hoặc chỉ có một số nào đấy có thôi, liệu có thể xây dựng được những đơn vị có thể bảo vệ từ trên không và che chở cho xe tăng của mình và của đồng đội. Nhưng trong lúc ấy thì quân Đức sử dụng yếu tố bất ngờ và gây cho chúng tôi tổn thất thật sự. Chúng tôi và Nicolai Fedorovich Vatutin đặt hy vọng lớn như thế vào quân đoàn xe tăng. Nhưng còn lại ở chỗ chúng tôi ban chỉ huy, lính xe tăng, và những xe tăng đã bị ngốn trong khi hành quân.

Trên mặt trận Voronez, bắt đầu yên tĩnh. Địch chỉnh đốn đội ngũ, trang bị và củng cố tuyến trước của mình. Còn chúng tôi cũng lo việc đó. Mùa xuân bừng lên. Mùa xuân đến với chúng tôi ở Oboian và Belgorod, tuy nhiên tuyết vẫn còn rất dày. Năm 1943, mùa đông khác thường, nhiều tuyết hơn là lạnh. Chẳng bao lâu, Vasilevski, đại diện Tổng hành dinh đến gặp chúng tôi. Ông thường đến thăm chúng tôi. Trước đó tôi cũng có một nỗi đau, mà tôi mang nó theo mình từ mùa đông 1942, khi Vasilevski, xử sự không đúng, không thực hiện nghĩa vụ người lính của mình và không báo cáo cho Stalin trong thời gian chiến dịch Kharkov lần thứ nhất. Nhưng cho đến bây giờ tôi bắt đầu nhớ lại thời kỳ ấy, tôi rất đau lòng. Điều này tôi buồn và thậm chí muốn chống Vasilevski, xét theo bản thân ông ta, như tôi đã nói, một con người đáng yêu và trầm tính. Với ông có thể sống hoà thuận. Ông nhiều lần ra trận, và với ông luôn luôn nói chuyện dễ chịu và thảo luận các vấn đề cần giải quyết. Vả lại, tôi nhắc lại, chúng tôi không cảm thấy chẳng có sự cần thiết đặc biệt cử một đại diện Tổng hành dinh với quan điểm giúp đỡ để hoàn thành công việc quân sự. Tôi cho rằng cả ban tham mưu Mặt trận Voronez, và người chỉ huy cũng được chuẩn bị đày đủ thi hành chức trách của mình, chúng tôi hiểu đúng chúng và đánh giá đúng tình hình. Vì cớ gì mà một mỗi lần đại diện Tổng hành dinh đến, lại nảy sinh hy vọng rằng được nhận bổ xung hoặc đạn dược, “giằng được” ở hậu cần những chỉếc áo ca-pốt, giày, ủng... Tóm lại, sự giống nhau ở chúng tôi là tầm thường. Đôi lúc chúng tôi cũng nhận được, nhưng không phải luôn luôn. Mọi người hiểu điều này và kể cả đại diện Tổng hành dinh. Họ đến đây, vì người ta ra lệnh cho họ. Tựa như thế này:

- Đến đấy đi, quân Đức lại tấn công một cái gì đó. Đấy cả Belgorod cũng thất thủ rồi.

Có thể, ở Moskva cũng có ấn tượng rằng đại diện Tổng hành dinh đến - và cuộc tấn công của kẻ thù bị chặn lại, mặt trận được yên tĩnh. Vấn đề là ở chỗ ai đấy đến, còn kẻ địch bị kiệt sức buộc phải dừng lại để chấn chỉnh đội ngũ, hoặc chúng tôi nhận được tiếp viện và chính chúng tôi buộc kẻ địch đứng lại.

Lúc ấy chỉ có một khu vực bị kẻ địch tiếp tục tích cực hoạt động và tấn công. Khu vực này do tập đoàn quân №38 giữ. Chúng tôi đến đó. Ban ngày ánh sangs mặt trời, tuyết dày, và những tia sáng phản xạ. Trải dài một màu trắng lấp lánh đến đau mắt. Không thể nhìn vào đám tuyết này được. Chúng tôi rẽ từ cánh đồng tuyết vào làng. Quả là, ngôi làng ở trong một cái hố, trong lòng máng. Và đúng lúc ấy, hai, ba máy bay địch bay tới và bắt đầu ném bom vào xe chúng tôi. Chúng tôi và Vasilevski nhảy ra ngoài và, có lẽ, đưa ra sự xúc động lố bịch đối với phi công. Viên phi công có lẽ nhìn thấy tất cả. Chúng tôi chạy khỏi xe, và cho hắn một sự lựa chon:: hoặc ném bom vào xe, hoặc nổ súng vào vật sống. Vật sống - đó là chúng tôi, Vasilevski, lái xe, và những người đi kèm. Nhưng phi công, hình như bắn hết từ phía sau đến phía trước xe, quay đi mất. Nó bay tương đối thấp và hành động rất điên. Ai nằm dưới trận bom, hiểu đấy nghĩa là cái gì.

Chúng tôi tới ban chỉ huy, nghe báo cáo tình hình. Kẻ địch cũng chưa chiếm vị trí đã nhắc đã nhắc ở trên. Địch, có lẽ, cố gắng cải thiện vị trí của mình. Đây là cuộc tấn công mang tính chất cục bộ theo bình diện đường tiền tuyến để tạo khả năng tốt hơn cho nó phòng vệ, còn sau đó trong quá trình tấn công, tạo ra những vị trí xuất phát thích hợp cho quân đội của chúng.

Tạm kết luận chiến dịch Đông-Xuân mà tôi tham gia như thế này: giải phóng Rostov và tiến sát Taganrog, suýt nữa thì đến Dnepropetrovsk và giải phóng Kharkov, còn sau đó do áp lực của địch, bắt buộc phải dừng ở cả Kharkov, và cả Belgorod, và một số thành phố khác. Sau đó, mặt trận được ổn định, còn hướng chúng tôi tạo thành một chỗ lồi, mang tên vòng cung Kursk. Vòng cung là tương đối sâu. Cánh trái của cung, nghĩa là ở chỗ chúng tôi, bắt đầu từ đỉnh Bắc sông Đông. Đỉnh cung là Bắc Sum, ở Rylsk, còn cánh phải của nó nằm giữa Kursk và Orla. Kursk ở sau chúng tôi. Bắc Ponyrey và đông Orla uốn khúc theo hướng ngược lại còn một đường dích dắc của tiền tuyến. Chúng tôi và tư lệnh, đồng chí Vatutin, trước hết lo ngại, tất nhiên, khu vực mà chúng tôi chịu trách nhiệm: từ Volchansk đến sông Seym. Và chúng tôi áp dụng biện pháp để ở đây kẻ địch trong trường hợp nào đó không di chuyển được. Nếu như nó di chuyển, chẳng han, về hướng bắc, nghĩa là tới Kursk, thì nó sẽ đe doạ tập đoàn quân №38 và №40, đứng ở Sum, còn chúng tôi mất một vị trí thuận lợi để tấn công vào Romna và Lebedin. Lúc này, chúng tôi dời ban tham mưu của mình sang phía bắc Obian, vào sâu trực diện nam của vòng cung. Tên gọi của các điểm dân cư mà chúng tôi chọn là đơn vị này... đại đội kia... khi biên giới quốc gia Nga thời trung cổ chạy qua Obian. Ở đây những người bị lưu đày từng sống, họ phải đi nghĩa vụ quân sự để giữ biên giới phòng đột kích từ phía nam. Vì thế các làng có tên như quân đội. Trong trường hợp đã nêu - đại đội như thế - (số hiệu của nó tôi không nhớ).

Mùa xuân tới. Nhưng từ khi mùa xuân gần đến, chúng tôi biết rằng đang tiến gần đến trận chiến căng thẳng. Chúng tôi cho rằng kẻ địch, hiện thời nó không “khô đi” và không tích luỹ đủ lực lượng, và không thể có những hoạt động đặc biệt chống lại chúng tôi. Nhưng về phía chúng tôi cũng chưa có khả năng tuyệt đối để hoạt động tích cự. Đơn giản, chúng tôi không có lực lượng để làm điều này. Tôi không nhớ chính xác, khi nào có một binh đoàn mới tới chỗ chúng tôi. Bỗng nhiên chúng tôi nhận được tập đoàn quân cận vệ №6. Đó là - tập đoàn quân cũ №21 từng tham gia trận đánh Stalingrad từ phía mặt trận sông Đông, sau đó được bổ xung, một lần nữa được huuấn luyện và nhận phiên hiệu mới. Nó đến với chúng tôi, khi tuyết đã tan hết. Chỉ huy nó là tướng Tchistiakov. Trước đây cá nhân tôi không biết ông. Nhưng, khi ông đến và chúng tôi làm quen với ông, ông gây cho cho chúng tôi ấn tượng tốt. Chúng tôi cho rằng đó là - sức mạnh! Thứ nhất, cán bộ của tập đoàn quân này chủ yếu trải qua trận Stalingrad, có sự tôi luyện, kinh nghiệm và sự bền bỉ trong phòng vệ. Chúng tôi vừa vặn đúng yêu cầu để quân đội mạnh hơn trong phòng thủ. Chúng tôi đưa nó về Bắc Belgorod để nó trấn giữ xa lộ Belgorod- Kursk-Moskva.

Chúng tôi còn nhận được cả tập đoàn quân cận vệ №7, cũng từng ở Stalingrad. Ở Stalingrad nó được gọi là №64. Chỉ huy nó là Sumilov, còn uỷ viên hội đồng quân sự là Serdiuk. Tập đoàn quân này đến với chúng tôi cùng cả ban chỉ huy, nó được bố trí phía Đông Belgorod, sau sông Đông. Tập đoàn quân №64 cần phải chống cự địch theo ý đồ tiến đến Novyi Oskol và đồng thời nó có thể đánh vào Nam Belgorod. Trong đoàn tầu thứ hai, giữa tập đoàn quân cận vệ №6 và №7, là tập đoàn quân №69 dưới sự chỉ huy của tướng Kriuchenkin. Tôi biết Kriuchenkin: đó là một chiến sĩ từ thời nội chiến. Mặt ông có sẹo, do những trận đánh nhau với bạch vệ. Bản thân ông trước đây là kỵ binh. Ban tham mưu tập đoàn quân của ông đặt ở Staryi Oskol. Tại sườn phải của tập đoàn quân cận vệ №6 có tập đoàn quân №40. Chỉ huy nó là Moskalenko vị tướng giỏi nổi tiếng. Đáng kể, sau này chúng tôi còn có tập đoàn quân №47. Nó đến từ lực lượng dự bị mặt trận. Nhưng cạnh tập đoàn quân của Moskalenko, có tập đoàn quân №27. Chỉ huy nó là tướng Trofimenko. Các tập đoàn quân quay mặt về phía nam, nằm trên một hướng, tạo thành vòng cung. Nhưng trực tiếp đối mặt sang phương Tây là tập đoàn quân №38 do Chibisov chỉ huy. Nó được bố trí ở cánh phải mặt trận, và sườn phải của nó chạm với cánh trái của Mặt trận trung tâm.

Phía sau Sumilov, sau sườn trái của ông, có bộ đội dự bị dưới sự chỉ huy Ivan Stepanovich Konev. Đó là mặt trận Thảo nguyên. Sau đó nó có tên Ukraina №2. Quân đoàn mặt trận Tây Nam, tiếp giáp từ phía nam với quân của Mặt trận Voronez, do Malinovski chỉ huy. Ông chĩa vào Kharkov và Dnepropetrovsk. Như thế, việc phân bố bộ đội trong vùng, có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với chức trách của tôi khi đó. Ban tham mưu tập đoàn quân Sumilov đặt ở đông Belgorod, trong rừng. Chúng tôi nhiều lần đến đó và kiểm tra, quân đội của ông chuẩn bị tấn công như thế nào, nghe báo cáo không những của chỉ huy, mà còn của chỉ huy quân khu, sư đoàn và lữ đoàn.

Tất cả quân đội tại mặt trận được học chiến đấu, chiến thuật, đào tạo lính sử dụng tốt vũ khí. Đảng bộ và cục chính trị được đưa vào để củng cố chính trị và tinh thần bộ đội, sao cho từng chiến sĩ hiểu nhiệm vụ của mình và làm tất cả những gì có thể để không lùi một bước và chuẩn bị tấn công. Vả lại, không cần sự tuyên truyền đặc biệt, để lính vững tâm phòng thủ và dũng cảm tấn công. Mọi người bị lôi cuốn vào trận. Tôi không nhớ, phát sinh sự thái quá nào đấy, về sự đào ngũ tôi cũng không nghe. Tất nhiên luôn luôn khối người vẫn có sự lệch lạc nào đấy chuẩn mực trung bình trong tính cách của người này người kia. Nhưng, nói chung, bộ đội ở trạng thái rất tốt. Sẵn sàng chiến đấu, và chết, nếu cần, nhưng phải đuổi được quân thù ra khỏi đất nước. Phải đuổi bọn nó xéo đi! Đặc biệt là các tập đoàn quân cận vệ. Khi đó trong lính xuất hiện khẩu hiệu: «Tiến đến Berlin! Từ Stalingrad đến Berlin!»

Sau đó có nhiều chuyện đùa vè chủ đề này. Một vị tướng đùa, nói nửa đùa nửa thật:

- Nào, chúng ta lấy Berlin chứ! Tôi muốn là tư lệnh Berlin.

Sự ao ước như thế phát sinh ở mỗi người. Con người chịu chịu đau khổ bởi chiến tranh, nhìn thấy bao nhiêu thảm hoạ mà chiến tranh mang đến, muốn chỉ ra cho kẻ thù thấy rf chiến tranh chỉ đem lại sự nghèo hàn và người phải trả giá cuộc chiến tranh này chính là người bắt đầu nó.

Người ta ra lệnh cho tập đoàn quân cận vệ №6 chui vào đất, đào hào chống tăng làm ba dải phòng thủ. Chúng tôi xây dựng sự phòng thủ ở độ sâu lớn trong trường hợp nếu kẻ địch, bắt đầu tấn công, chiếm các vị trí quân sự của chúng tôi. Vì thế sau nó cũng chuẩn bị sẵn sàng thêm ba tuyến phòng thủ, được trang tốt chừng mực nào có thể. Các ụ súng cũng được làm bằng gỗ đắp đất, và “cơ khí hoá” như thế bằng xẻng quân sự. Ở phía sau, chúng tôi xây dựng phòng tuyến của mặt trận Thảo nguyên, chống đỡ phía sau, còn sau nữa, theo sông Đông từ Lebedian tới Pavlovsk, kéo thêm một phòng tuyến phòng thủ quốc gia. Từ trước đến nay, chúng tôi chưa từng gặp cái gì tỷ mý như thế này. Công việc bộ đội làm là rất lớn. Không cần phải thuyết phục nhiều bộ đội chúng tôi. Họ tự hiểu tất cả. Những chiến sĩ lão thành, là “sói”, trải qua hai cuộc chiến tranh. Mọi người biết rằng càng xây dựng tốt phòng thủ chống tăng, càng có nhiều đường hào tốt, càng đặt nhiều pháo và súng máy, thì càng đỡ tốn máu lính xô viết và kẻ địch khó tiêu diệt chúng tôi.

Tướng Tchistiakov và tham mưu trưởng của ông Penkovski biết rõ công việc của mình và cũng tiến hành công việc lớn và hữu ích. Penkovski vẫn còn sống và khoẻ mạnh. Chúc ông sống và khoẻ mạnh 100 tuổi. Một người tốt và vị tướng am hiểu công việc của mình. Ông đảm nhận những trách nhiệm phức tạp và hoàn thành nhiệm vụ tư lệnh tập đoàn quân. Các tập đoàn quân khác cũng phòng thủ, nhưng không phải ở sâu như thế, chẳng hạn tập đoàn quân cận vệ №6. Chúng tôi thường đi đến tập đoàn quân này, nghe người chỉ huy báo cáo và kiểm tra, hàng ngày được dùng như thế nào cho việc mở rộng phòng thủ. Một lần chúng tôi đi đến gặp tướng Moskalenko. Ông ở trong một phòng nhỏ của gia đình nông dân, chiếu sáng hơi yếu. Thuộc hạ của ông, những người cần phải có mặt, ngồi trên những chiếc ghế dài, tựa như ở hội đồng hoàng gia trong cung Granovit, điện Kreml. Ở đó cũng đặt những ghế dài thuở xưa, khi họp các điền chủ. Sự im lặng bắt đầu. Moskalenko mở đầu báo cáo. Và bỗng nhiên vang lên tiếng ngáy. Vatutin lập tức giật mình, chú ý và mắt nhìn quanh những người đang ngồi dự. Ánh sáng lờ mờ, và khó nhìn rõ ai ngồi ở đâu. Vatutin theo âm thanh, xác định được hướng phát ra tiếng ngáy. Khi tiếng ngáy lặp lại đôi lần, vị tư lệnh nhìn thấy rằng tiếng ngáy té ra từ tham mưu trưởng tập đoàn quân Batiuni. Một vị tướng giỏi và một đồng chí tốt, nhưng đơn giản, ông buồn ngủ. Trong phòng ấm áp, thế là làm ông mệt lử. Vatutin thét lên:

- Batiuni!

Batiuni bật dậy, ngơ ngác. Báo cáo được tiếp tụ, nhưng Batiuni lại thiu thiu. Những tình tiết như thế xảy ra trong cuộc sống hàng ngày và đã mang sự hài hước và làm sống động.

Tháng tư, mà có thể là tháng năm, chúng tôi và ban tham mưu mặt trận dời từ Kazach (một điểm dân cư bắc Obian) và đặt ở đông nam Obian, tại một làng rất lớn. Việc củng cố phòng thủ vẫn tiếp tục, nhưng ban tham mưu cũng bắt đầu lo đến xử lý chiến dịch phản công. Đã xác định rằng nếu chúng tôi phản công chẳng hạn bởi tập đoàn quân cận vệ №6 ở Belgorod đến Kharkov, có nhĩa là từ bắc đến nam. Tham mưu trưởng mặt trận của chúng tôi là Ivanov. Một người rất đứng đắn, tận tâm vì công việc. Nhưng vì chính tư lệnh mặt trận Vatutin trước đây đã từng là sĩ quan tham mưu lớn hơn một chỉ huy, nên Ivanovу không dễ thể hiện tài năng của mình - tham mưu trưởng. Vatutin không những đưa ra chỉ thị, kế hoạch chiến dịch, mà còn thường ngồi ở bàn, lấy thước kẻ, bút chì, bản đồ, và bắt đầu kẻ những mũi tên và gạch chân. Tóm lại, Vatutin ôm lấy về mình công việc tham mưu trưởng, còn thỉnh thoảng thậm chí còn ôm cả công việc tác chiến. Tôi cho rằng cũng có mặt thuận lợi và không thuận lợi. Tất nhiên ông bị quá tải và ôm đồm công việc, lẽ ra là tham mưu trưởng và những sĩ quan ban tham mưu phải làm.

Như vậy, bắt đầu chuẩn bị chiến dịch tấn công. Đã có những phương án. Phương án tốt nhất là phản kích Belgorod. Tôi muốn lạc đề một chút. Tôi nhắc đến Ivanov. Thời kỳ 1959-1962, ông làm việc trong Bộ tổng tham mưu, phó tổng tham mưu trưởng. Và chúng tôi cách chức ông. Nhưng tôi khi đó là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô. Tôi tiếc cho ông, nhưng tình hình phức tạp như thế, khi nghĩa vụ quốc gia đòi hỏi đi đến nạn nhân như thế, khi tất cả lòng kính trọng lớn của tôi với tướng Ivanovу. Bây giờ tôi không còn nhớ, công việc được kết luận cụ thể ra sao. Ông có những sai sót nghiêm trọng về tài liệu. Điều này xảy ra đúng lúc khi chúng tôi vạch mặt gián điệp Penkovski (như đã nhắc đến, còn người khác, một trung tá. Tôi đề nghị không lẫn lộn một người lính tự trọng, trung thành với tổ quốc với kẻ phản bội tổ quốc) Một điều gì đó xảy ra ở Bộ tổng tham mưu liên quan đến tài liệu, và đi đến loại Ivanov khỏi công việc. Điều này đặc biệt nặng nề đối với tôi, vì rằng tôi kính trọng ông trong quá khứ và đánh giá khả năng làm việc và say mê công việc của ông. Tôi không bao giờ nghi ngờ lòng trung thực của ông. Nhưng sự nghiệp quân sự đòi hỏi không phải chỉ có lòng trung thành, mà còn cả sự chính xác, đặc biệt ở công việc bí mật trong tham mưu. Có thể là trung thực, nhưng nếu không tuân theo các quy tắc cần thiết thì có thể mang lại thiệt hại, thậm chí тkhông mong muốn. Kẻ thù lợi dụng cả luộm thuộm, và sai sót khác của chúng tôi. Vì thế chúng tôi khi đó trừng phạt tướng Ivanov, chuyển ông về làm tham mưu trưởng ở Quân khu Siberi.

Tôi nhớ lại cả những tình tiết không đễ chịu khác. Nó liên quan tới thời kỳ trước đây phòng vệ tại Vòng cung Kursk. Chúng tôi và Vatutin tới gặp tư lệnh Chibisov. Tôi không thích báo cáo của Chibisov, và lời phát biểu của uỷ viên hội đồng quân sự của ông. Vấn đề họ nâng lên là thế này, dường như, người ta bổ xung cho họ những người Ukraina, trước kia từng ở lãnh thổ do Đức chiếm đóng. Những người đến là những người không được học hành, và thậm chí tệ hơn: đưa ra những điều buộc tội không tốt có đặc tính chính trị chống họ. “Trật tự trong quân đội ra sao - vị uỷ viên hội đồng quân sự nói - Chiến đấu. Nhưng sau chiến đấu thì mẹ, vợ, và chị em của người đã hy sinh đi đến chiến trường, và thu nhặt những xác người chết.

Tôi nổi giận:

- Đồng chí, điều này phụ thuộc vào anh. Anh buộc tội gì cho mọi người, chính họ cũng bị động viên vào lính? Chẳng dậy dỗ huấn luyện gì cả, lập tức ném những con người không có tổ chức này vào trận. Họ chết, họ chết trong danh dự. Nhưng cái việc vợ, chị và mẹ tới và nhặt xác người thân, đây là tự nhiên. Đó là trách nhiệm của các anh - đừng cho là như thế là làm tan rã tinh thần bộ đội.

Đặc biệt sự ngoan cố của uỷ viên hội đồng quân sự.

Khi chúng tôi và Vatutin đi khỏi, chúng tôi hội ý và quyết định, rằng vị uỷ viên hội đồng quân sự có tâm tư khá xấu, và chúng tôi cách chức ông ta và bổ nhiệm một uỷ viên mới hội đồng quân sự, người này phụ trách các vấn đề, thuận lợi cho ông ta, hiểu đúng hiểu và tổ chức công việc của mình. Những tâm tư như thế, đáng tiếc, phát sinh không những trong quân đội Chibisov. Lúc đó nói chung trong quân đội tới vòng cung Kursk, tất cả tham gia động viên, tăng số nhập ngũ ở dân chúng địa phương, và lúc ấy sinh ra một tâm tư là những người địa phương từng ở dưới sự chiếm đóng của phát xít - là loại người hạng hai. Từ cách nhìn này, xảy ra đấu tranh. Tâm trạng như thế, về thực chất, cũng là không đúng, và tai hại. Chúng tôi chuẩn bị tấn công, giải phóng toàn bộ Ukraina. Hoàn toàn, chúng tôi được bổ xung từ những người được động viên mà những người này từng ở vùng Đức chiếm đóng. Những người này, sau này, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh bại quân thù. Nguồn chính bổ xung cho bộ đội chúng tôi khi tấn công nói chung là “dự trữ địa phương”. Phương pháp như thế vẫn thịnh hành.

Chiến dịch tấn công đã được soạn thảo. Đã tính toán cần dùng lực lượng nào và vũ khí nào, dự trữ vật chất cần thiết để đột phá qua Belgorod đến Kharkov. Chúng tôi và Vatutin báo cáo cho Stalin. Stalin nói:

- Bay đến đây!

Trước khi báo cáo cho Stalin, công việc chuẩn bị của chúng tôi đã được Tổng hành dinh nghiên cứu và chỉnh lý, còn sau khi báo cáo, thường coi là văn bản cuối cùng. Chúng tôi đệ trình Stalin. Ông cảm thấy mình khang khác, toát ra sự tự tin. Tôi nói rằng trong thời gian này Stalin vui vẻ nhận báo cáo, chứ không phải như những năm trước đây. Và chính ông cũng thể hiện sự hiểu biết tình hình đúng hơn và quan hệ đúng hơn mà vấn đề mặt trận đặt ra. Người ta cho thời hạn 12 ngày - 20 tháng 6 - và ra lệnh chuẩn bị bắt đầu cuộc tấn công. Hướng chúng tôi lựa chọn được tán thành. Thêm nữa, vấn đề cơ bản lại có vẻ “mua bán”: chúng tôi có thể nhận bổ xung như thế nào để tiến hành chiến dịch này? Đúng là luôn luôn như thế vậy. Các đòi hỏi mà các tư lệnh đưa ra, hoàn toàn không bao giờ được thoả mãn. Chúng tôi đòi nhiều, nhưng người ta không thoả mãn tất cả. Tuy nhiên người ta cũng nói với chúng tôi: Đấy, lực lượng của các anh đấy, hãy sắp xếp nó, còn sau lưng các anh sẽ có dự bịcủa Bộ chỉ huy tối cao.

Với chiến dịch vòng cung Kursk, tôi tính rằng, cả ban tham mưu mặt trận, và Tổng hành dinh phải được chuẩn bị tốt. Chúng tôi rất hài lòng về cuộc thảo luận với Stalin và kết quả báo cáo. Bây giờ tôi không nhớ, vì sao cuộc tấn công của chúng tôi được ra lệnh đúng vào ngày 20 tháng sáu. Điều đó, hình như là do chúng tôi có thể nhận tất cả những gì cần thiết cho hạn đã nêu. Stalin nói với chúng tôi rằng mặt trận trung tâm Rokossovski sẽ tiến hành tấn công trước thời điểm đó 6 ngày, còn sau đó chúng tôi bắt đầu chiến dịch của mình. Tôi nhớ điều này vì rằng quân đoàn pháo hạng nặng dự bị của Bộ chỉ huy tối cao ban đầu dưa cho Rokossovski để đảm bảo đột phá mặt trận địch, còn khi ông làm xong việc của mình, thì sang theo lệnh của chúng tôi và sẽ cùng phối hợp tấn công. Vả lại, pháo cũng không phải của mặt trận trung tâm, mà là chẳng mặt trận bắc Briansk. Tôi cũng nhớ rõ cả tướng Korolkov, tư lệnh quân đoàn đã nêu. Ông làm tôi rất hài lòng. Sau này tôi gặp ông ở Kiev được giải phóng. Ở đó ông cũng chỉ huy quân đoàn pháo.

Còn lúc này chúng tôi tiếp tục để bộ đội phòng thủ và củng cố lực lượng, thống nhất cả hoạt động của bộ đội tại đường giáp ranh giữa các mặt trận. Chẳng hạn, chúng tôi tiến hành thảo luận với mặt trận phía nam. Họ đóng ở một khu rừng sồi. Chúng tôi đi đến đó, và Malinovski và các tướng lĩnh của ông cũng đến. Lập tức chúng tôi nhận xét rằng trong rừng không có lá cây: tằm đã ăn hết lá. Vì thế máy bay có thể nhìn thấy hết tất cả: không cách nào bảo vệ được. Tư lệnh tập đoàn quân của khu vực mà chúng tôi tiến hành thảo luận, nói:

- Kết thúc thảo luận, tôi sẽ đến đó. Tôi ngờ rằng có thể quân Đức và tấn công và diệt ban tham mưu của tôi.

Trong thảo luận, chúng tôi trao đổi những suy nghĩ và cùng nhau bàn việc phối hợp hoạt động tại đường giáp ranh các mặt trận để địch không thọc sâu vào chỗ đóng quân của chúng tôi.

Trước khi chúng tôi tấn công, Tổng hành dinh cử Zukov và Vasilevski đến. Chúng tôi đi với hai ông đến các tập đoàn quân. Chở đạn dược và đưa tới các binh đoàn theo kế hoạch, đã được thông qua để tiến hànhchiến dịch và được thực hiện ít nhiều kịp thời. Chúng tôi chở đại diện Tổng hành dinh từ bản doanh ban tham mưu họ ở đông nam Obian. Bản doanh này đóng ở đó một tháng hoặc hơn. Lúc ấy kỷ luật chưa được tuân thủ nghiêm ngặt: tại bản doanh của ban tham mưu xuất hiện nhiều ô tô khác nhau, và kẻ địch, trinh sát bằng máy bay, nhận thấy ở đây có thể một ban tham mưu nào đấy trú ngụ. Chúng tôi cảm thấy quân Đức tăng cường trinh sát bằng máy bay. Máy bay Đức bắt đầu bay trên đầu bản doanh ban tham mưu. Bởi vì chúng tôi đã chuẩn bị một điểm dự phòng trong vùng bắc Prokhorovk, chúng tôi quyết định rời ban tham mưu. Các sĩ quan tham mưu cảnh báo mọi người buổi sáng khi trời hửng sáng chuyển đến chỗ mới. Một số “ông chủ” của chúng tôi chuyển đi sớm hơn để trong khi di chuyển không tạo ra một đoàn xe lớn mà máy bay địch có thể để ý. Chúng tôi và Vatutin cũng chuyển đến một nông trang cách đó 2, 3 km. Dựng lên ở đó những tấm ván tạm thời. Những con mọt, và rệp thật đáng sợ! Đó là một loài thú dữ tương đối nhỏ đối sống trong các nhà gỗ bỏ hoang, bị đói khát, còn bây giờ thì chúng cắn chúng tôi, hút máu chúng tôi. Quanh nông trang có một cánh rừng nhỏ, một rừng cây sồi nằm thấp dưới. Nhạc sĩ khi hát bài “hoạ mi nâu” “Hoạ mi, hoạ mi ơi, đừng làm phiềnь lính nhé”, tôi luôn luôn nhớ cánh rừng này: bao nhiêu là hoạ mi! Vương quôsc của hoạ mi. Trong trường hợp bị máy bay tấn công, chúng tôi đã chuẩn bị sẵn cho mình một căn hầm trong cánh rừng này và bố trí những thứ cần thiết cho sinh hoạt của ban tham mưu để không bị mất sự chỉ huy quân đoàn, không bị mất liên lạc. Hầm của Vatutin, của tôi và của một số những nhân vật khác cũng nằm ở cánh rừng này.

Chỉ có chúng tôi đóng ở chỗ mới, thậm chí một số người vẫn còn ở chỗ cũ. Người ta kể rằng hửng sáng hôm sau, máy bay địch và ném bom chỗ cũ của ban tham mưu. Không có thiệt hại, trận ném bom không có kết quả. Làng bị máy bay địch tàn phá, nhưng không hoàn toàn. Nhưng sau một hai ngày, chúng tôi bắn rơi một máy bay trinh sát Đức và tóm được phi công. Chúng tôi và Vatutin thẩm vấn chúng. Tôi hỏi phi công:

- Anh đã ném bom một điểm dân cư như thế phải không?

Còn chúng tôi bắn rơi máy bay của hắn đúng ngay ở điểm mà trước đây đặt ban tham mưu của chúng tôi

- Đúng, tôi có tham gia.

- Anh nhận nhiệm vụ gì?

- Họ nói cho chúng tôi rằng ở điểm dân cư này có một ban tham mưu bự của Nga.

Đấy, việc xảy ra như thế. Sau đó chúng tôi thường nhớ lại, linh cảm đã cứu chúng tôi.

Trong quân sự nói chung có một nguyên tắc, ngay lúc ban tham mưu đóng ở một chỗ nào đấy, lập tức phải chuẩn bị một chỉ huy sở dự phòng. Lần này chúng tôi chọn một vài chỗ ở phía bắc ban tham mưu. Cũng lựa chọn cho mình một cánh rừng và điều đến đó một tốp xạ thủ. Trước thời điểm cuộc tấn công vào bọn Đức ngày 5 tháng sáu 1943, chỉ huy sở này đã sẵn sàng. Theo kế hoạch, chúng tôi đến đó trước lúc tiến hành chiến dịch, được cố định vào ngày 20 tháng sáu: chúng tôi muốn chỉ có ở đó mặt trước khi tấn công để kẻ địch không phát hiện được nơi đóng quân mới ban tham mưu. Từ đó, chúng tôi có thể tự tin hơn, bằng sự liên lạc được đảm bảo chỉ huy quân đội.

Tôi không nhớ, ai nghĩ ra, hoặc Tổng hành dinh nghĩ ra, một lần nữa chúng tôi về Moskva, gặp Stalin. Tôi đề nghị cho tướng Popel làm uỷ viên hội đồng quân sự một tập đoàn quân. Tôi quen Popel trong những ngày đầu của hiến tranh, khi ông là chính uỷ một quân đoàn, do tướng Riabysev chỉ huy. Tôi rất thích Popel ở tính bình tĩnh, tài năng và lòng dũng cảm. Năm 1941 ban tham mưu quân đoàn cơ giới chia đôi. Riabysev một phần, và Popel một phần. Họ tự thoả thuận tỷ lệ: Riabysev nêu câu hỏi, nghi ngờ, bắt chính Popel trả lời xem ông có phải kẻ thù mạo danh không. Riabysev, tên con giá Popel là gì, và cái gì xảy ra với cho chó đực của ông. Cuộc nói chuyện mất thời gian như thế. Câu chuyện này lan truyền trong giới chỉ huy và nhiều lần được lặp lại ở chỗ Stalin. Chúng tôi đùa, nhưng khả năng nhận dạng, theo thực chất, lại đúng. Bây giờ tôi vẫn đề nghị xin Popel Stalin đồng ý.

Khi chúng tôi còn ở Moskva, người ta nói rằng chúng tôi sẽ nhận đưa vào chiến đấu tập đoàn quânxe tăng №1, do tướng Katukov chỉ huy. Chúng tôi rất sung sướng về điều này. Trước đâym tôi chưa gặp Katukov, nhưng biết ông qua công việc. Ông được coi là một lính tăng giỏi, một người lính trung kiên, hiểu biết kỹ thuật, một chỉ huy có tài tổ chức. Khi báo cáo cho Stalin tình trạng quân đội của mình, ông hỏi:

- Thưa đồng chí Stalin, tôi đề nghị, cho tôi uỷ viên hội đồng quân sự Popel.

Stalin lập tức ngó nhìn cho tôi. Katukov nói:

- Tôi biết Popel, và ông ta biết tôi. Chúng tôi tin và hiểu lẫn nhau. Tôi đề nghị ông, cho tôi xin Popel.

Stalin:

- Ừ, chúng tôi cho anh Popel.

Và Stalin quay sang tôi:

- Còn anh đi tìm người khác đi.

Và chúng tôi tìm được người khác: Krayniukov, một uỷ viên hội đồng quân sự giỏi, đang nằm ở tập đoàn quân khác của mặt trận chúng tôi.

Tập đoàn quân xe tăng №1 đến. Đội hình của nó có khoảng một nghìn xe tăng và chưa kể đến lính mô tô. Sự thật lính mô tô không nhiều. Chúng tôi bố trí nó vào chỗ đóng quân tập đoàn quân cận vệ №6 để tạo ra chiều sâu phòng vệ, không những bằng những vũ khí chống tăng mà còn vũ khí dã chiến. Chúng tôi quyết định bố trí tập đoàn quân xe tăng tại một chiều sâu nhất định và đào hầm cho xe tăng của Katukov đề phòng kẻ địch chọc thủng và đâm vào những chỗ phòng thủ vắng vẻ. Chúng tôi quyết định dùng xe tăng hầm pháo, nhưng có khả năng di động. Chính là xe tăng có thể chạy được. Chúng tôi để hở nóc xe. Điều này làm xe điều khiển tốt. Katukov lý giải việc sử dụng lực lượng của mình và ông đóng vai trò rất lớn cuộc tấn công vòng cung Kursk đánh bại phát xít.

Chúng tôi đã có thêm sức mạnh của xe tăng ở dạng một quân đoàn độc lập. Khi chúng tôi nhận lực lượng này trước thời điểm cuộc tấn công kẻ địch, thì chúng tôi có khoảng hai nghìn rưỡi xe tăng. Quả là khá mạnh! Trinh sát báo cáo rằng địch cũng có số lượng xe tăng chừng đó. Như thế là trên một vùng đất hẹp của mặt trận, cả hai bên có hơn bốn nghìn nghìn xe tăng. Chưa nói tới pháo, chúng tôi cũng có không ít. Nhưng pháo của bọn Đức pháo lại còn nhiều hơn. Tôi không nhớ tất cả các con số mà trinh sát báo cáo. Nhưng chúng tôi vẫn chờ. Còn 15 nữa mới bắt đầu chiến dịch. Chúng tôi tin rằng cuộc tấn công của chúng tôi sẽ thành công, chúng tôi sẽ quét sạch quân thù ở đây và đẩy chúng về phía Tây, giải phóng Kharkov và tiến đến sông Dnepr. Nguyện vòng này đơn giản vì đã chịu nhiều khổ đâu rồi.

Bỗng nhiên, có chuông gọi từ tập đoàn quân cận vệ №6: tư lệnh báo cáo rằng tại vùng giáp ranh có một lính Đức từ tập đoàn quân SS chạy sang. Những sư đoàn SS khác cũng ở đấy. Tôi nói với Vatutin rằng tôi từng bị những sư đoàn “đầu lâu” truy đuổi. Theo vị tư lệnh, người lính Đức này tin rằng dường như sáng mai, 5 tháng sáu lúc 3 sáng, quân Đức tiến hành tấn công. Chúng tôi ra lệnh đưa người lính tới. Chúng tôi hỏi cung anh ta. Anh ta luôn lặp lại. Chúng tôi hỏi:

- Tại sao anh nghĩ vậy?

Anh ta trả lời:

- Tất nhiên, tôi không nhìn thấy mệnh lệnh tấn công, nhưng tôi có linh cảm người lính và tin tức của người lính. Thứ nhất, tất cả chúng tôi đã nhận khẩu phần lương khô 3 ngày. Thứ hai, xe tăng được đưa đến sát đường ranh giới. Thứ ba, đã có lệnh đặt lữ đoàn pháo trực tiếp cạnh vú khí. Người ta chuẩn bị tất cả để không có cái gì bị chậm trễ cả.

- Nhưng cớ gì anh nói là vào lúc 3 giờ sáng? Tại sao lại chính xác thế?

- Điều này, chính các ông có thể nhận xét. Nếu chúng tôi tấn công, thì trong thời gian này luôn luôn vào ba sáng, nghĩa là từ lúc bắt đầu hửng sáng. Tôi tin rằng sẽ như tôi thông báo cho các ông.

Người lính đào ngũ này là một thanh niên trẻ, đẹp trai, trí thức, được chăm sóc, rõ ràng không phải xuất thân từ công nhân. Tôi hỏi anh ta:

- Vì sao anh chạy qua đường mặt trận và thông báo cho chúng tôi về cuộc tấn công, mà chính anh lại là lính SS? Hiểu điều này ra sao? Anh là Nazzi cơ mà.

- Không, tôi không phải Nazzi, tôi chống Nazzi, vì thế tôi chạy sang phía các ông.

Tôi nói với anh ta:

- Bọn SS thường tuyển chỉ những người Nazzi?

- Không, đó là trước đây, những năm đầu và năm thứ hai chiến tranh, thì như thế, còn bây giờ họ lấy tất cả những ai mà vừa mắt. Họ lấy tôi vì tôi trông cao ráo và vẻ ngoài giống chủng Arial. Thế là tôi vào lính SS. Như