Chương 24 (2)
SRI LANKA
Chuyến viếng thăm Sri Lanka lần đầu tiên của tôi là vào tháng 4/1956 trên đường công du tới London. Tôi nghỉ tại khách sạn Galle Face, khách sạn hạng nhất thời thuộc địa Anh, nằm bên bờ biển. Tôi dạo quanh thành phố Colombo, khá ấn tượng trước các tòa nhà công cộng, nhiều tòa nhà với mặt tiền bằng đá vẫn không bị chiến tranh hủy hoại. Bởi vì Mountbatten đặt Sở chỉ huy Đông Nam Á của ông ta ở Kandy nên Ceylon có nhiều nguồn lực và cơ sở hạ tầng tốt hơn Singapore.
Cùng năm đó, Solomon West Ridgeway Dias Bandaranaike được bầu làm lãnh tụ đảng Tự do Sri Lanka mới ra đời và trở thành Thủ tướng. Ông hứa sẽ công nhận tiếng Sinhale là quốc ngữ và đạo Phật là quốc giáo. Ông là một “pukka sahib” nâu[30] được hấp thụ nền giáo dục Anh quốc và là một tín đồ Thiên Chúa giáo; ông quyết định chọn chủ nghĩa bản xứ, cải đạo thành Phật tử và trở thành người nói thành thạo ngôn ngữ Sinhale. Đó là khởi đầu của việc tháo gỡ Ceylon.
Tổng ủy viên Singapore khi đó là Lim Yew Hock mời tôi gặp ông ta ở bữa ăn tối. Bandaranaike, một người nhỏ bé, hoạt bát, ăn mặc bảnh bao, phát âm rõ ràng, phấn khởi khi được đa số cử tri Sinhale giao cho sứ mệnh biến Ceylon thành một xã hội mang tính bản địa hơn nữa. Đó là một phản ứng chống lại xã hội “Sahib nâu” – tầng lớp ưu tú về chính trị, những người khi thừa hưởng quyền lực đã rập khuôn người Anh, kể cả lối sống. Ngài John Kotelawala, vị Thủ tướng mà Bandaranaike kế nhiệm, thường cưỡi ngựa dạo chơi mỗi buổi sáng. Bandaranaike dường như không lo lắng gì về vấn đề người Tamil dòng Jaffna và các sắc tộc thiểu số khác bây giờ bị đặt vào thế bất lợi, vì tiếng Sinhale trở thành quốc ngữ và người Tamil Ấn Độ giáo, người Moor Hồi giáo và người Burgher Thiên Chúa giáo (con cháu của người Hà Lan và người bản địa) khó chịu trước vị trí được nâng cao lên thành quốc giáo của đạo Phật. Ông đã là Chủ tịch Hiệp hội Oxford và khi tranh luận về xã hội, ông ta phát biểu như thể mình vẫn còn là hội viên của hiệp hội đó. Tôi không ngạc nhiên khi ba năm sau ông bị ám sát bởi một tu sĩ Phật giáo. Tôi nghĩ thật là mỉa mai khi một tu sĩ Phật giáo bất mãn với tốc độ tiến triển chậm của đất nước trong việc biến Phật giáo thành quốc giáo nên đã hành động như vậy.
Trong cuộc bầu cử sau đó, bà góa phụ Sirimavo Bandaranaike đã trở thành Thủ tướng nhờ vào những lá phiếu thương cảm. Bà tỏ ra là một nhà lãnh đạo ít có tài ăn nói hơn nhưng lại cứng rắn hơn nhiều. Khi tôi gặp bà ở Ceylon tháng 8/1970, bà là một phụ nữ quyết đoán, người tin tưởng vào tư tưởng không liên kết. Ceylon ủng hộ việc rút toàn bộ quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia và một khu vực không có vũ khí hạt nhân ở Ấn Độ Dương, không có những xung đột giữa các cường quốc lớn. Là một người trẻ tuổi hơn, tôi kiên nhẫn giải thích các mục tiêu khác nhau trong chính sách đối ngoại của mình, chỉ ra rằng Singapore sẽ bị đe dọa nghiêm trọng nếu miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay cộng sản, đe dọa cả Campuchia, Lào và Thái Lan. Tình trạng nổi dậy sẽ lan đến Malaysia và mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho Singapore. Chúng tôi không thể tán thành hệ tư tưởng cao siêu này khi nó mang lại những hậu quả nghiêm trọng cho tương lai của chúng tôi. Các cường quốc khác trong khu vực như Trung Quốc và Nhật Bản sẽ có ngày mở rộng việc xây dựng hải quân của họ. Vì thế, Singapore cảm thấy cần thiết phải duy trì Hiệp định Phòng thủ năm nước vì nó đã đem lại cho chúng tôi an ninh đáng kể.
Cháu bà, Felix Bandaranaike, là cố vấn của bà về vấn đề quốc tế. Là người thông minh nhưng không sâu sắc, ông nói rằng vị trí địa lý và lịch sử tốt đẹp đã mang lại cho Ceylon hòa bình và an ninh, vì thế chỉ 2,5% ngân sách được chi cho phòng thủ. Tôi tự hỏi ông sẽ nói gì vào cuối thập kỷ 80, lúc hơn nửa ngân sách được chi cho quân đội và lực lượng phòng thủ để dẹp tan cuộc bạo loạn của người Tamil dòng Jaffna.
Ceylon là một đất nước thuộc Khối Thịnh vượng chung theo kiểu mẫu của nước Anh. Nó đã được chuẩn bị cẩn thận để độc lập. Sau chiến tranh, đây là một đất nước có kích thước trung bình với ít hơn 10 triệu dân. Nó có một tiêu chuẩn giáo dục tương đối cao với hai trường đại học chất lượng cao ở Colombo và Kandy dạy bằng tiếng Anh, ngành dân chính phần lớn là người địa phương và có kinh nghiệm quản lý theo hệ dân biểu bắt đầu bằng các cuộc bầu cử hội đồng thành phố trong những năm 30. Khi Ceylon độc lập vào năm 1948, nó là một mô hình cổ điển của tiến trình từ từ đi đến độc lập.
Đáng tiếc là nó không có hiệu quả. Trong những cuộc viếng thăm của tôi qua nhiều năm, tôi đã chứng kiến một đất nước đầy triển vọng đi vào lãng phí. Chế độ một người một phiếu không giải quyết được vấn đề căn bản. Tám triệu người Sinhale chiếm đa số luôn đánh bạt 2 triệu người Tamil dòng Jaffna, những người bị thiệt thòi bởi việc chuyển từ tiếng Anh sang tiếng Sinhale là ngôn ngữ chính thức. Từ chỗ không có tôn giáo chính thức, người Sinhale coi đạo Phật là quốc giáo của họ. Cũng như người Hindu, người Tamil dòng Jaffna cảm thấy bị tước quyền.
Tháng 10/1966, trên đường trở về từ hội nghị các Thủ tướng ở London, tôi ghé thăm Colombo để gặp gỡ Thủ tướng Dudley Senanayake. Ông là một người đứng tuổi tin vào số mệnh, hiền lành nếu không nói là nhún nhường. Khi chúng tôi chơi gôn ở sân Hoàng gia Colombo cũ, ông xin lỗi vì các túp lều lấn chiếm trái phép và lũ dê, bò trong các đường lăn bóng của sân gôn. Ông nói đó là điều không thể tránh được vì dân chủ và các kỳ bầu cử; ông không thể biện minh việc giữ những khoảng không gian xanh rộng lớn ở trung tâm thành phố. Ông đưa tôi đến Nuwara Eliya bằng tàu hỏa, nơi đây đã từng một thời là nhà ga trên đồi tuyệt đẹp của họ. Đó là một bài học đáng học nhất về những gì đã xảy ra sau độc lập. Thức ăn trên tàu hỏa (trong toa đặc biệt) bị nhiễm độc. Cua bị hư và hôi thối. Tôi vào nhà vệ sinh ngay tức thì và nôn ra tất cả. Điều này đã cứu sống tôi. Ở Nuwara Eliya, tôi nghỉ tại dinh thự “Nhà nghỉ” trên đồi của toàn quyền Anh trước đây. Nó đã đổ nát. Ngày xưa, hẳn nó đã được chăm sóc kỹ lưỡng, với hoa hồng (vẫn còn sót lại một số cây) trong một khuôn viên giống như một khu rừng ở Anh. Nằm ở độ cao khoảng 1.500 mét so với mặt nước biển, nó mát mẻ và dễ chịu. Tôi chơi gôn trong một sân gôn trước đây rất đẹp; giống như sân gôn ở Colombo, nó cũng bị lều, dê, bò lấn chiếm.
Tại bữa tối, một người Sinhale luống tuổi, uyên thâm với vẻ mặt hơi buồn giải thích rằng những gì đã xảy ra là điều không tránh khỏi với các cuộc bầu cử phổ thông. Người Sinhale muốn trở thành chủng tộc thống trị; họ muốn tiếp nhận vai trò người quản lý các đồn điền dừa, trà từ người Anh và cả vị trí quan chức nhà nước cao cấp của người Tamil. Họ phải trải qua một tấn thảm kịch trong việc biến tiếng Sinhale thành ngôn ngữ chính thức, một việc làm họ phải trả giá đắt khi dịch mọi thứ từ tiếng Anh sang tiếng Sinhale và Tamil, một quá trình chậm chạp và bất kham. Các trường đại học dạy bằng ba thứ tiếng: Sinhale cho đa số, Tamil cho người Tamil dòng Jaffna và tiếng Anh cho người Burgher. Tại trường đại học ở Kandy, tôi hỏi vị Phó Hiệu trưởng rằng làm thế nào để ba kỹ sư khác nhau được đào tạo theo ba ngôn ngữ có thể cộng tác với nhau để xây một chiếc cầu. Ông ta là người Burgher và đeo cà vạt của đại học Cambridge, do đó tôi có thể nhận ra ông là một tiến sĩ đích thực. Ông trả lời: “Thưa ngài, đó là một câu hỏi mang tính chính trị dành cho các vị bộ trưởng.” Tôi lại hỏi về vấn đề sách. Ông đáp rằng các sách giáo khoa cơ bản đều được dịch từ tiếng Anh sang tiếng Sinhale và Tamil, luôn luôn trễ từ 3 đến 4 ấn bản ngay khi chúng vừa xuất bản.
Các đồn điền chè ở trong tình trạng tệ hại. Những người địa phương được đề bạt không phải là những giám sát viên giỏi như những tiền nhiệm người Anh. Vì không có kỷ luật nghiêm, nên những người hái chè không chỉ hái những búp non mà còn hái cả những lá già nên không thể ủ ra trà ngon được. Các đồn điền dừa cũng chịu cảnh tương tự. Theo như lời một cụ già Sinhale, đó là cái giá người ta phải trả để học cách quản lý một đất nước.
Tôi không đến thăm Ceylon trong nhiều năm cho đến khi tôi gặp Thủ tướng mới được bầu, Junius Richard Jayewardene, năm 1978 tại Hội nghị khu vực các nguyên thủ quốc gia Khối Thịnh vượng chung (CHOGRM) ở Sydney. Năm 1972, Thủ tướng Sirimavo Bandaranaike đã đổi tên nước Ceylon thành Sri Lanka và biến nó thành một nước cộng hòa. Những thay đổi này không làm thay đổi vận mệnh của đất nước. Chè của họ vẫn được bán dưới tên trà “Ceylon”.
Cũng giống như Solomon Bandaranaike, Jayewardene là một người Thiên Chúa giáo cải đạo thành tín đồ Phật giáo và ôm ấp chủ nghĩa bản địa để hòa mình với mọi người. Ở độ tuổi ngoài bảy mươi, ông đã trải qua nhiều thăng trầm trong chính trị, trầm nhiều hơn thăng và trở nên bình tâm trong việc chấp nhận các mục tiêu thấp hơn. Ông muốn từ bỏ các chính sách mang tính xã hội chủ nghĩa đã làm phá sản đất nước của Sri Lanka. Sau khi gặp tôi tại Sydney, ông nói ông đến Singapore để kéo chúng tôi tham gia vào sự phát triển của Sri Lanka. Tôi bị cách tiếp cận thực tế của ông gây ấn tượng và bị thuyết phục đến thăm Sri Lanka vào tháng 4/1978. Ông cho biết ông sẽ trao quyền tự trị cho người Tamil ở Jaffna. Tôi đã không nhận ra rằng ông không thể nhượng bộ về uy thế của người Sinhale đối với người Tamil, điều này đã dẫn đến cuộc nội chiến năm 1983 và làm tiêu tan hy vọng về một đất nước Sri Lanka thịnh vượng trong nhiều năm nếu không nói là nhiều thế hệ.
Ông có vài nhược điểm. Ông muốn mở một hãng hàng không bởi ông tin đó là biểu tượng của sự tiến bộ. Hãng hàng không Singapore đã thuê một đại úy Sri Lanka tài giỏi. Tôi nên trả anh ta về chăng? Dĩ nhiên, nhưng làm sao một phi công có thể điều hành một hãng hàng không? Ông muốn hãng hàng không Singapore giúp đỡ. Chúng tôi đã giúp. Tôi khuyên ông rằng một hãng hàng không không nên là ưu tiên hàng đầu của ông bởi nó đòi hỏi nhiều nhà quản trị tài ba và đức độ để mang lại thành công cho hãng khi ông cần họ cho việc tưới tiêu, nông nghiệp, xây dựng nhà ở cũng như cho việc khuếch trương và phát triển công nghiệp và rất nhiều dự án khác. Một hãng hàng không là một đề án hấp dẫn, chứ không có giá trị lớn cho việc phát triển Sri Lanka. Nhưng ông vẫn khăng khăng. Vì vậy, chúng tôi đã giúp ông đưa vào hoạt động một hãng hàng không trong 6 tháng, chuyển 80 thành viên của hãng hàng không Singapore sang làm việc trong khoảng từ 3 tháng đến 2 năm, giúp đỡ họ thông qua các đại diện kinh doanh khắp thế giới của chúng tôi, thiết lập các văn phòng ở hải ngoại, đào tạo nhân viên, phát triển các trung tâm đào tạo v.v… Nhưng họ không có ban điều hành tài giỏi. Khi viên phi công nói trên, giờ là chủ tịch của hãng hàng không mới, quyết định mua 2 máy bay đã sử dụng bất chấp lời khuyên của chúng tôi, chúng tôi quyết định rút lui. Đối mặt với sự mở rộng công suất gấp 5 lần, thu chi âm, thiếu những nhân viên được đào tạo, các dịch vụ không đáng tin cậy, và hành khách không đủ, nó chắc chắn sẽ thất bại. Và nó đã thất bại.
Việc bắt Sri Lanka phải theo mô hình của Singapore là một điều hão huyền. Chỉ là thỏa mãn tính hư danh khi nặn hình đất nước Sri Lanka theo mô hình của Singapore. Họ đã thông báo rằng họ sẽ thực hiện kế hoạch cấp giấy phép khu vực kiểu Singapore để giảm lượng giao thông vào thành phố nhưng điều đó đã thất bại. Họ bắt đầu một chương trình nhà ở vào năm 1982 dựa trên chương trình của chúng tôi nhưng lại không có kinh phí thích hợp. Họ thiết lập một khu vực tự do mậu dịch, chỉ hơi nhỏ hơn so với khu vực của Singapore, giá như không có lực lượng Hổ Tamil thì dự án này đã cất cánh, nhưng các chiến thuật khủng bố của các lực lượng này đã làm các nhà đầu tư sợ mà không đầu tư vào.
Sai lầm lớn nhất mà Jayewardene phạm phải là việc phân chia các vùng đất khai hoang trong khu vực khô cằn. Với sự trợ giúp của nước ngoài, ông đã hồi sinh kế hoạch thủy lợi cổ đại dựa vào các “bể chứa nước” có thể trữ nước được mang về từ những sườn núi ẩm ướt. Đáng tiếc là ông lại đưa vùng đất đã khai hoang vào tay người Sinhale chứ không phải là người Tamil, những người trước đây là nông dân của vùng đất khô cằn này. Bị tước quyền sở hữu và bị chèn ép, họ phát động phong trào “Hổ Tamil”. Thư ký riêng của Jayewardene, một người Tamil dòng Jaffna trung thành với ông, nói với tôi đây là sai lầm nghiêm trọng. Cuộc chiến nổ ra sau đó đã làm cho 50.000 người thiệt mạng và thậm chí nhiều thương vong hơn với nhiều thủ lĩnh bị ám sát. Sau hơn 15 năm, cuộc chiến vẫn chưa có dấu hiệu lắng dịu.
Jayewardene nghỉ hưu năm 1988, trong trạng thái mệt mỏi. Ông đã cạn kiệt giải pháp. Ranasinghe Premadasa, người kế nhiệm ông là một người theo chủ nghĩa sô–vanh Sinhale. Ông muốn quân đội Ấn rút khỏi đất nước Sri Lanka, đây là điều không khôn ngoan. Họ đang làm một việc tai hại cho Sri Lanka. Khi quân đội Ấn rút đi, thì ông rơi vào vị thế tồi tệ hơn. Ông cố thương lượng với lực lượng Hổ Tamil nhưng thất bại. Ông không sẵn sàng nhượng bộ đúng mức.
Tôi gặp ông mấy lần ở Singapore sau khi ông đã trở thành Tổng thống và đã cố gắng thuyết phục ông rằng cuộc xung đột này không thể được giải quyết bằng vũ lực. Giải pháp chính trị là con đường duy nhất, một giải pháp được người Tamil dòng Jaffna và cả thế giới coi là công bằng; và khi đó Mặt trận Giải phóng thống nhất Tamil, cánh lập hiến ôn hòa của phong trào tự trị Tamil, không thể bác bỏ. Tôi lập luận rằng mục tiêu của ông ta phải là tước bỏ sự ủng hộ của dân chúng đối với những kẻ khủng bố bằng cách cho người Tamil quyền tự trị qua đầu phiếu. Ông ta vững tin là ông có thể tiêu diệt họ. Năm 1991 và 1992, ông điều quân đội Sri Lanka mở các chiến dịch lớn chống lực lượng Hổ Tamil. Họ đã không thành công. Năm 1993, tại một buổi diễu hành mừng ngày Quốc tế Lao động, một kẻ đánh bom tự sát đã đến gần ông trong một đám rước trên đường. Ông và nhiều người khác đã bị sát hại. Người kế nhiệm ông, con gái của Sirimavo Bandaranaike, Tổng thống Chandrika Kumaratunga đã cố gắng vừa đánh vừa đàm. Bà tái chiếm bán đảo Jaffna nhưng không tiêu diệt được lực lượng Hổ Tamil. Cuộc chiến vẫn tiếp diễn. Điều đáng buồn là đất nước cổ xưa mang tên Serendip đã góp thêm vào tiếng Anh một từ mới là “serendipity” (khả năng tìm thấy những may mắn bất ngờ) mà ngày nay đang là mảnh đất của xung đột, đau đớn, buồn thương và tuyệt vọng.
PAKISTAN
Chúng tôi thiết lập quan hệ ngoại giao với Pakistan năm 1968 nhưng có rất ít giao dịch buôn bán hay các mối liên hệ khác trong nhiều năm. Chúng tôi không có lập trường chung trong các vấn đề quốc tế mãi đến thập kỷ 80 khi những cuộc xung đột Afghanistan và Campuchia, cả hai đều được Liên Xô cung cấp tiền bạc, đã đẩy chúng tôi lại gần nhau.
Tổng thống Zia ul–Haq thăm Singapore năm 1982 như một phần chuyến công du Đông Nam Á. Ông cho biết mục đích duy nhất trong chuyến thăm Singapore là gặp tôi, người chịu trách nhiệm về Singapore hiện đại. Tôi trả lời khiêm tốn rằng Singapore hiện đại là kết quả làm việc của cả tập thể. Chúng tôi thảo luận về quan hệ giữa Ấn Độ – Pakistan. Mối quan hệ giữa Singapore và Ấn Độ lúc bấy giờ đang căng thẳng vì có bất đồng về vấn đề Campuchia. Tôi đồng ý với Zia rằng chiến lược và mục tiêu của Liên Xô đã gây ra cuộc chiến ở Afghanistan và Campuchia.
Ông mời tôi đến thăm Pakistan và tôi đã đến vào tháng 3/1988. Ông đón tiếp tôi theo nghi thức mà Tổng thống Marcos đã thực hiện năm 1974. Khi máy bay thương mại của chúng tôi băng qua biên giới Ấn Độ – Pakistan gần Lahore, 6 phi cơ chiến đấu F–16 hộ tống chúng tôi về Islamabad. Ông lập một đội danh dự lớn để duyệt binh, 19 phát súng chào, hàng trăm trẻ em vẫy cờ cùng những vũ công Pakistan nhảy những vũ điệu truyền thống chào mừng tôi tại phi trường. Tôi thật sự ấn tượng khi thấy Islamabad được giữ gìn sạch sẽ hơn và tốt hơn so với Delhi – không rác rưởi, không nhà ổ chuột, không có những con đường ở trung tâm thành phố đông nghịt người. Tiêu chuẩn nhà nghỉ và khách sạn ở đây cũng cao hơn.
Zia thuộc kiểu người dữ tướng với mái tóc đen, thẳng được chải ngược ra sau một cách cẩn thận, bộ ria rậm, giọng nói mạnh mẽ và phong thái quân đội tự tin. Ông là một tín đồ Hồi giáo nghiêm khắc và cấm các sĩ quan quân đội Pakistan uống rượu giống như toàn đất nước. Vì là khách của ông ta, chúng tôi được cung cấp một loại bia được ủ ngay tại nhà nghỉ. Tại bữa ăn tối, Zia đọc bài diễn văn ngắn tỏ ý khen ngợi tôi, không chỉ về đất nước Singapore mà đặc biệt là vì dũng cảm chống lại báo chí của phương Tây. Ông luôn theo dõi những trao đổi giữa chính phủ Singapore với các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây và mừng cho chúng tôi. Ông đã từng bị chỉ trích trên báo chí phương Tây và lấy làm vui mừng khi chúng tôi không chịu khuất phục. Ông trao tặng tôi huân chương Thủ lĩnh Vĩ đại của Pakistan (Nishan–I–Quaid–I–Azam).
Trong cuộc họp báo trước lúc rời Pakistan, tôi ca ngợi Tổng thống Zia về tinh thần dũng cảm của ông khi chấp nhận nguy hiểm hỗ trợ hậu cần cho Afghanistan. Nếu ông là một thủ lĩnh hay lo sợ, thích nhìn sự việc theo hướng khác thì thế giới sẽ tồi tệ hơn. Không may là vài tháng sau đó, trước khi mối quan hệ của chúng tôi tiến triển, Zia bị thiệt mạng trong một vụ rơi máy bay có nhiều nghi vấn.
Quan hệ với Pakistan lại đình trệ cho đến khi Nawaz Sharif trở thành Thủ tướng vào tháng 11/1990. Ông mập, chắc với chiều cao trung bình, lùn so với người Pakistan, hói đầu dù mới tứ tuần. Không như gia đình Bhutto, Nawaz Sharif không xuất thân từ giới quý tộc phong kiến giàu đất đai, mà từ một gia đình kinh doanh trung lưu ở Lahore. Ông đã xây dựng những công ty thép, đường và dệt trong suốt những năm khi Pakistan do các thủ lĩnh quân sự cai trị kể cả Zia ul–Haq. Ông đến thăm Singapore hai lần trong năm 1991, một lần vào tháng 3, lặng lẽ tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tiến bộ kinh tế Singapore, một lần vào tháng 12, để mời tôi đến thăm đất nước ông và xin lời khuyên về việc mở cửa nền kinh tế của nước ông. Ông nói Pakistan đã bắt đầu công cuộc cải tổ táo bạo theo mô hình Singapore.
Ông gây cho tôi ấn tượng bởi sự nhiệt thành muốn biến đổi Pakistan hướng về thị trường hơn nữa. Tôi đồng ý đến thăm Pakistan vào năm sau. Theo yêu cầu của tôi, ông phái Saeed Qureshi – Tổng thư ký Bộ Tài chính đến Singapore để thông báo tình hình cho tôi. Chúng tôi có ba cuộc gặp, mỗi cuộc ba tiếng để bàn luận những vấn đề cụ thể mà tôi đã được thông báo từ trước. Rõ ràng rằng họ đang phải đối mặt với những vấn đề cực kỳ hóc búa. Họ có biểu thuế thấp, phần thu từ thuế thu nhập chỉ chiếm 2% GDP. Nhiều vụ giao dịch mua bán đất đai không được vào sổ, hiện tượng trốn thuế tràn lan. Nhà nước bù lỗ về nông nghiệp, đường sắt và các nhà máy thép. Quốc phòng chiếm 44% ngân sách, 35 % trả nợ, chỉ còn 21% để quản lý nhà nước. Do vậy, số thiếu hụt ngân sách của họ là từ 8 đến 10% GDP và lạm phát đã đạt đến 2 con số. IMF đã lưu ý họ đến các con số đáng sợ ấy. Các giải pháp đã rõ ràng, tuy nhiên, ý chí chính trị khó có thể thực hiện được trong một đất nước mà đa số cử tri không có học và cơ quan lập pháp chịu sự kìm kẹp của các chủ đất – người nắm giữ lá phiếu của những tá điền thất học. Điều này làm cho việc cải cách ruộng đất và thuế gần như không thể thực hiện được. Tham nhũng đầy rẫy với hàng loạt những vụ trộm cắp tài sản quốc gia, kể cả việc câu trộm điện.
Tôi ở Pakistan một tuần từ ngày 28/2/1992. Tôi có hai cuộc gặp gỡ với Thủ tướng Nawaz Sharif cùng các quan chức chủ chốt trong nội các của ông, cả Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính Sartaj Aziz, một người lạc quan không hề kiềm chế. Sau khi trở về, tôi gửi một báo cáo kèm một bức thư riêng cho Nawaz Sharif tóm tắt những việc ông nên làm.
Ông là người năng động đầy nghị lực. Ông thông cảm với hoàn cảnh của những tài xế taxi, giảm thuế xe taxi dẫu điều đó gây ra những vấn đề về quyền bình đẳng đối với những người mua xe khác. Xuất thân nơi thương trường giúp ông tin doanh nghiệp tư nhân là giải pháp cho sự tăng trưởng chậm và ông thiết tha tư hữu hóa các xí nghiệp nhà nước. Tuy nhiên ở Pakistan, khi bán một xí nghiệp, người ta không mời đấu thầu công khai. Tình thân hữu, đặc biệt là quan hệ chính trị, quyết định ai sẽ được cái gì. Ông luôn tin rằng có thể làm điều gì đó để cải thiện tình hình. Vấn đề là ở chỗ ông không có thời gian lẫn sự kiên nhẫn để nghiên cứu một cách toàn diện trước khi quyết định chọn một giải pháp. Công bằng mà nói, tôi tin ông có khả năng điều hành tốt hơn Benazir Bhutto, lãnh tụ đối lập hàng đầu, người sau này kế nhiệm Nawaz Sharif. Ông biết nhiều về công việc kinh doanh hơn cả bà ta hay Asif Zadari, chồng bà, dù có hay không có sự bảo trợ.
Trên đường về, tôi ghé Karachi gặp gỡ Benazir Bhutto. Bà tung đầy những lời độc địa chỉ trích Nawaz Sharif và Tổng thống Ghulam Ahmed Khan. Bà cho rằng đảng của bà bị đối xử bất công; chính phủ cố làm mất uy tín bà và đảng của bà bằng cách truy tố các đồng sự của bà và chồng bà. Một lực lượng cảnh sát thối nát đang tiếp tay cho chính quyền và bộ ba Quân đội – Tổng thống – Thủ tướng điều hành đất nước. Bà còn nói rằng bà đã bắt đầu đẩy nhanh việc nới lỏng quy chế và đã thông qua luật về tư hữu hóa.
Nawaz Sharif thăm Singapore vào tháng 12/1991 trên đường trở về từ Nhật. Ông muốn tôi thăm lại Pakistan để đánh giá tiến bộ trong việc thực hiện các lời khuyên của tôi. Ông đã tư hữu hóa 60% các xí nghiệp được xác định là mục tiêu và đầu tư nước ngoài đã tăng thêm. Một lần nữa, Saeed Qureshi lại báo cáo công việc với tôi. Tôi phát hiện thấy rất nhiều đề nghị của tôi đã không được thực hiện. Tôi đã sợ điều này sẽ xảy ra. Trước khi tôi có thể thăm lại Islamabad, sự đối đầu giữa tổng thống Khan và thủ tướng Nawaz Sharif đã dẫn đến việc cả hai phải từ chức và tổ chức bầu cử mới. Benazir Bhutto trở thành thủ tướng.
Không lâu sau cuộc bầu cử, tôi gặp Benazir Bhutto ở Davos vào tháng 1/1994. Bà rất phấn chấn và tràn đầy những ý tưởng. Bà muốn Singapore tham gia dự án xây dựng con đường từ Pakistan đến Trung Á xuyên qua Afghanistan. Tôi yêu cầu cho đề nghị chi tiết để chúng tôi nghiên cứu. Bà còn muốn tôi xem xét khả năng tồn tại của các công ty suy yếu và tiếp quản chúng. Chồng bà còn sốt sắng hơn. Ông ta dự định xây dựng một hòn đảo ngoài khơi Karachi để phát triển nó thành một cảng tự do và một khu vực mậu dịch tự do với nhiều sòng bài. Điều này hoàn toàn phi kinh tế. Pakistan còn rất nhiều đất chưa sử dụng cần gì phải xây cả một hòn đảo? Quan điểm tiếp cận của họ thật đơn giản: Singapore thành công, có nhiều tiền, vì vậy có thể đầu tư vào Pakistan và làm cho nó cũng thành công.
Tháng 3/1995, Bhutto và chồng đến thăm Singapore. Bà cho biết bà đã lưu ý đến lời khuyên của tôi ở Davos và bảo đảm rằng tất cả các đề nghị của bà đều đã được suy nghĩ cặn kẽ, thấu đáo. Bà mời Singapore di chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động đến Pakistan. Tôi nói trước hết bà phải thuyết phục các nhà doanh nghiệp của chúng tôi. Khi các nhà đầu tư thấy trên ti–vi hàng đêm những người Hồi giáo giết hại lẫn nhau ở Karachi bằng vũ khí hạng nặng và bom, thì họ phải tự hỏi tại sao mình lại phải dính líu vào đó? Tôi đã không thăm Pakistan. Năm 1996, bà Bhutto bị Leghari, Tổng thống do chính bà tiến cử cách chức. Nawaz Sharif đắc cử trong cuộc bầu cử sau đó vào tháng 2/1997, và trở lại chức Thủ tướng.
Những vấn đề kinh tế và chính trị sâu xa của Pakistan vẫn còn đó. Quá nhiều ngân sách đổ vào quốc phòng. Các chính sách của họ liên tục bị đầu độc bởi những thù hận khôn nguôi giữa những nhà lãnh đạo của hai đảng chính. Asif Ali Zadari bị buộc tội giết hại Murtaza Bhutto, anh vợ ông ta và cả hai vợ chồng đều bị buộc tội tham nhũng những khoản tiền lớn, trong đó có những khoản tiền đã bị truy ra ở tận Thụy Sĩ.
Góp phần làm cho các vấn đề của Pakistan phức tạp thêm, tháng 5/1998, Ấn Độ tiến hành một số các vụ nổ bom hạt nhân. Hai tuần sau, Pakistan tiến hành các cuộc thử nghiệm của mình. Cả hai đều căng thẳng về mặt kinh tế, nhất là Pakistan. Khi tôi gặp Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif trong chuyến thăm Singapore của ông ta vào tháng 5/1999, ông quả quyết với tôi rằng ông ta đã có những cuộc thảo luận tốt đẹp với Thủ tướng Ấn Độ Vajpayee vào tháng trước và không bên nào có ý định triển khai tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Ông dám bày tỏ quan điểm rằng sẽ không còn khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh tổng lực giữa hai nước vì cả hai đều đã có năng lực hạt nhân. Một kết cục đáng mong đợi.
Pakistan là một dân tộc ngoan cường với đầy đủ tài năng và học vấn để xây dựng một quốc gia hiện đại. Nhưng sự xung đột không ngừng với Ấn Độ đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và thui chột tiềm năng của Pakistan.
Chú thích:
[30] “Pukka sahib” nghĩa là người đàn ông châu Âu có địa vị ở Ấn Độ, Sri Lanka (ND). Người làm ebook không tìm thấy bất kỳ sự phân loại “pukka sahib” nào nên “nâu” có thể để chỉ màu da.