← Quay lại trang sách

Chương 30 Nước Nhật: Hiện tượng thần kỳ đầu tiên của châu Á

Ấn tượng của tôi về người Nhật đã thay đổi ít nhiều trong hơn 60 năm qua. Trước Thế chiến Thứ hai, tôi đã biết họ là những người bán hàng và những nha sĩ nhã nhặn. Họ là một cộng đồng sạch sẽ, ngăn nắp, kỷ luật và độc lập. Vì vậy, tôi đã hoàn toàn không được chuẩn bị trước cho sự tàn bạo mà họ đã gây ra hồi tháng 2/1942 trong vai những kẻ xâm chiếm Singapore. Họ tàn bạo đến mức không thể tin được. Có những ngoại lệ nhưng sự tàn bạo có hệ thống do chính quyền quân sự của họ đã làm, biến họ thành những lũ người nhẫn tâm. Chúng tôi đã chịu ba năm rưỡi thiếu thốn và kinh hoàng. Hàng triệu người đã chết trong các lãnh thổ do người Nhật chiếm đóng tại Đông Nam Á. Các tù nhân chiến tranh, người Anh, người Hà Lan, người Ấn Độ cũng như người Úc chết dần chết mòn hoặc bị bắt làm việc cho đến chết.

Thình lình vào ngày 15/8/1945, Nhật hoàng ra lệnh đầu hàng. Từ địa vị là những chúa tể và chủ nhân của chúng tôi, người Nhật đã tự biến đổi họ thành các tù nhân chiến tranh mẫu mực, tận tâm và siêng năng; họ dọn dẹp vệ sinh thành phố, chuyên tâm vào vai trò đã bị thay đổi của họ một cách nghiêm chỉnh và cần cù. Sau đó, họ biến mất khỏi khu vực. Tôi đọc nhiều về các thử thách gian khổ của họ khi xây dựng lại nước Nhật.

Vào những năm 1960, các mặt hàng điện tử có chất lượng tốt của Nhật tràn vào Singapore. Đến những năm 1970 thì người Nhật phục hồi và tranh đua trở lại. Sự tinh thông trong kỹ nghệ sản xuất của các ngành dệt, hóa dầu, hàng điện tử, vô tuyến truyền hình, băng ghi âm và máy ảnh cùng với phương pháp quản lý và tiếp thị hiện đại đã tạo nên cho họ một sức mạnh công nghiệp đáng sợ. Vì họ trở nên lớn mạnh hơn nên họ không còn quá nhún nhường nữa.

Đối với tôi và những người cùng thế hệ thì ảnh hưởng sâu sắc và mạnh mẽ nhất mà người Nhật đã để lại trong chúng tôi là sự khủng khiếp của những năm họ chiếm đóng. Những ký ức này không thể nào xóa sạch được. Tôi từng biết nhiều người Nhật qua nhiều quan hệ rộng rãi ở nhiều lĩnh vực như các bộ trưởng, các nhà ngoại giao, các nhà kinh doanh, các chủ bút, các tác giả và các học giả. Một số người đã trở thành bạn tốt. Họ là những người được giáo dục tốt, có kiến thức và rất con người. Tôi hiểu rõ về họ hơn thời thanh niên. Vì nỗi sợ sệt và thù ghét tăng lên trong những năm bị chiếm đóng nên tôi đã cảm thấy “sự sung sướng trên đau khổ của kẻ khác” khi tôi đọc về sự đói khổ trong các thành phố bị bỏ bom và bị đốt cháy của họ. Cảm nghĩ này đã biến thành sự miễn cưỡng tôn trọng và nể phục khi từ đống tro tàn của sự bại trận, họ bắt đầu xây dựng lại đất nước một cách khổ hạnh và có phương pháp. Một cách khéo léo, họ đã tránh khỏi phần lớn các mục tiêu của chính sách chiếm đóng quân sự của Mac Arthur và bảo tồn được nhiều đặc tính chính yếu mà nó đã làm cho nước Nhật ngày xưa mạnh lên. Một số ít bị đưa lên đoạn đầu đài do các tội ác gây ra trong chiến tranh. Đa số được phục hồi và theo tinh thần dân chủ, một vài người đã thắng cử và trở thành các bộ trưởng. Những người khác tiếp tục như những công chức yêu nước, cần mẫn đã cống hiến cho sự tái thiết nước Nhật như một quốc gia hòa bình, phi quân sự, nhưng không phải là một quốc gia hối hận và biết tạ lỗi.

Công việc đầu tiên của tôi phải giải quyết với người Nhật sau chiến tranh là về sự tàn sát nhẫn tâm mà họ đã phạm phải khi chiếm Singapore vào năm 1942. Tình cờ, xương cốt trong một nấm mồ tập thể được phát hiện trong khi đào đắp vào tháng 2/1962 tại Siglap – một vùng ngoại ô ở hướng đông cuối hòn đảo – có 40 hiện trường như vậy. Chúng đã khơi dậy lại tất cả những ký ức ở Sook Ching (một vị trí hồi Thế chiến Thứ hai) mà 20 năm trước, quân cảnh người Nhật đã vây bắt và tàn sát 50.000 đến 100.000 thanh niên người Hoa trong suốt 15 ngày đầu tiên sau khi họ đã chiếm được Singapore. Tôi phải gặp gỡ để đưa vấn đề lên chính phủ Nhật và tôi đã tự quyết định thăm nước Nhật hồi sinh này. Tháng 5/1962, tôi sang thăm nước Nhật lần đầu tiên, lúc đó chưa hoàn toàn được khôi phục do sự tàn phá của chiến tranh.

Văn phòng ngoại vụ của Nhật đề nghị chúng tôi ở tại khách sạn Hoàng Đế; khách sạn được một kiến trúc sư người Mỹ tên Frank Lloyd Wright thiết kế, sau này bị phá hủy. Đó là một cấu trúc xây dựng thấp nhưng thanh lịch và rộng lớn, trông có vẻ phương Tây song vẫn mang phong thái Nhật. Từ dãy phòng đang ở, tôi nhìn lướt qua thành phố Tokyo cổ kính mà tôi tưởng tượng rằng nó chắc hẳn phải là một thành phố quyến rũ. Thành phố Tokyo mới rộn ràng tỏ rõ dấu hiệu của một nền kinh tế đang khơi dậy, nhưng hết sức lộn xộn; được xây dựng lại một cách vội vàng từ những đống tro tàn của các cơn bão lửa khi máy bay B–29s của Mỹ bỏ bom như rải thảm để đốt cháy nó.

Người Nhật đã phải trả một giá đắt cho việc xây dựng lại một cách khẩn cấp và thiếu quy hoạch. Hệ thống đường sá thật xấu, các con đường đều hẹp, không được bố trí theo ô và rồi đã xảy ra nạn kẹt xe; điều này trở nên tồi tệ hơn khi xe hơi tăng nhanh về số lượng. Một dân tộc có óc thẩm mỹ tuyệt vời như vậy mà họ tái thiết một thành phố không thu hút và bỏ lỡ cơ hội để xây dựng lại một thủ đô gây ấn tượng và thanh lịch nằm trong khả năng của họ.

Niềm say mê chơi gôn – một môn chơi thanh nhã – rất nổi bật. Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Kosaka đã đưa tôi đến chơi tại “Câu lạc bộ 300” của ông ta, một trong những nơi xa hoa nhất tại Nhật, chỉ với 300 hội viên từ các thành phần tinh túy của giới chính trị và kinh doanh. Các ủy viên ban quản trị hàng đầu dùng gậy đánh gôn và bóng chơi gôn đắt tiền nhập của Mỹ. Các gậy chơi gôn sản xuất tại Nhật là loại kém, với tay cầm không được lợi thế. Tôi đã nghĩ rằng đó là giới hạn về kỹ thuật và khả năng bắt chước của họ. Nhưng 20 năm sau, các gậy đánh gôn của Nhật là một trong một vài loại tốt và đắt tiền nhất trên thế giới.

Công việc quan trọng duy nhất mà tôi đã đưa lên Thủ tướng Hayato Ikeda là vấn đề “nợ máu”, một yêu cầu cho việc bồi thường về những hành động tàn ác mà họ đã gây ra trong thời chiến. Ông ta đã biểu lộ “lòng chân thành thương tiếc” của ông ta – mà không tạ lỗi – về những điều đã xảy ra. Ông ta nói rằng dân Nhật muốn bồi thường về “việc làm thiệt hại cho vong linh của những người đã chết”; ông ta hy vọng rằng các biến cố này sẽ không ngăn cản sự phát triển của quan hệ bạn bè giữa nhân dân hai nước Nhật và Singapore. Vấn đề về việc bồi thường vẫn còn bỏ ngỏ. Họ muốn tránh việc tạo nên một tiền lệ sẽ dẫn đến việc khiếu nại dồn dập từ những nạn nhân ở những nơi khác. Ông ta và các quan chức của ông ta rất lịch thiệp và nôn nóng giải quyết vấn đề trước khi nó khơi dậy những nỗi cay đắng của quá khứ. Cuối cùng, chúng tôi đã dàn xếp được “nợ máu” này sau độc lập vào tháng 10/1966 bằng 50 triệu đôla, trong đó một nửa là tiền trợ cấp và một nửa là tiền cho vay. Tôi muốn thiết lập các mối quan hệ tốt để khuyến khích các kỹ nghệ gia đầu tư vào Singapore.

Mặc dầu chuyến viếng thăm kế tiếp của tôi đến Tokyo vào tháng 4/1967 là không chính thức nhưng Thủ tướng Eisaku Sato đã gặp gỡ tôi. Ông ta biết rằng tôi đã không cố thúc ép việc bồi thường và đã cảm ơn tôi về việc giải quyết “vấn đề hài cốt”. Ông ta nhận lời thăm Singapore và đã đến Singapore vào tháng 9 năm đó cùng với vợ ông ta. Ông ta là Thủ tướng Nhật đầu tiên đến thăm Singapore sau chiến tranh.

Sato trông đường hoàng và trang nghiêm mãi đến khi ông ta nở một nụ cười thân thiện. Khi ông ta cười lớn tiếng, đó là nụ cười bật lên một cách thật lòng. Sato trông như một chiến binh võ sĩ đạo Nhật, ông ta có chiều cao trung bình, hơi đậm người, cường tráng, và sự mạnh khỏe hiện rõ trên cả gương mặt và dáng bộ của ông. Một lần trong bữa ăn trưa, Choo hỏi Sato có phải ông xuất thân từ dòng dõi võ sĩ đạo không, ông ta hãnh diện trả lời “vâng” và nói thêm vợ ông ta cũng vậy. Ông ta nói bằng một giọng trầm và không thừa một từ nào. Ngoại trưởng của ông ta, ông Takeo Miki, nói khoảng ba câu thì ông bày tỏ một câu. Ông có được vinh dự là một lãnh tụ đầu tiên của nước Nhật sau thời chiến được nhận giải thưởng Nobel hòa bình.

Chúng tôi cảm thấy thoải mái với nhau. Sau cuộc gặp gỡ tại Tokyo, ông đã biết rằng tôi không phải là người chống Nhật mà tôi muốn hợp tác với Nhật để công nghiệp hóa Singapore, vấn đề duy nhất mà ông đề cập đến trong bài diễn văn của ông liên quan đến việc chiếm đóng của Nhật là “đã có những thời kỳ trong lịch sử châu Á khi chúng ta có một số những rắc rối đáng tiếc”, một lối nói giảm nói tránh khủng khiếp.

Một năm sau, vào tháng 10/1968, tôi lại chính thức thăm nước Nhật. Nghi thức ngoại giao của người Nhật hoàn toàn đặc biệt; họ cố nài nỉ tôi đội một mũ nỉ rộng vành màu đen, đeo đôi găng tay màu xám và mặc một bộ đồ lớn màu sẫm theo nghi lễ tiễn đón một người đi xa tại phi trường. Họ là những người quá khắt khe về hình thức ăn mặc theo lối phương Tây.

Các quan chức và bộ trưởng người Nhật, kể cả Thủ tướng, chờ tôi khẩn khoản xin trợ giúp khi biết tin người Anh rút lui khỏi Singapore. Họ đã hiểu được tầm quan trọng và vấn đề cấp bách của đất nước chúng tôi và rất ngạc nhiên khi tôi không yêu cầu họ trợ giúp như các nhà lãnh đạo của các quốc gia đang phát triển khác đã làm. Từ cuộc thảo luận với ông Sato và Miki, tôi kết luận rằng họ xem Singapore với những điều kiện thuận lợi của một thành phố cảng có năng suất và có cơ sở hạ tầng khác, là một điểm xuất phát hữu ích cho các hoạt động kinh tế của họ tại vùng Đông Nam Á. Với vai trò này, họ cần Singapore để làm cầu nối các quan hệ tốt đẹp với Indonesia và Malaysia.

Ông Sato cũng chính thức cảm ơn tôi về chuyến viếng thăm thành công mới đây của Hoàng thái tử Nhật Akihito và công nương Michiko đến Singapore. Tôi đã chiêu đãi họ ăn tối và đưa họ lên nóc tòa nhà Istana để xem Southern Cross[38], một chòm sao mà từ Nhật họ không thể nhìn thấy. Vì cả hai đều tinh thông tiếng Anh nên cuộc đàm thoại rất trôi chảy. Sau đó, Choo và tôi được họ dành cho lòng mến khách đặc biệt trong các chuyến viếng thăm đến Tokyo.

Vì đây là một chuyến thăm chính thức nên Nhật hoàng và Hoàng hậu đã mời chúng tôi ăn trưa tại cung điện Hoàng gia. Cung điện chính đã bị bỏ bom nên họ tiếp đãi chúng tôi ở một trong những dinh thự phụ bên ngoài. Họ đưa chúng tôi vào phòng khách được trải thảm đẹp và đơn giản, nhưng trang trí thanh nhã mấy chiếc bàn, ghế, có cả một vài cái bàn nhỏ đẹp để đặt quà tặng. Đối diện với vị thiên tử này là những giây phút không quên được trong cuộc đời của tôi. Trong thời gian ba năm rưỡi người Nhật chiếm đóng Singapore, ông là một người được tôn sùng. Khi làm việc cho họ trong vai trò một người biên tập điện tín vào những năm 1943–1944 tại tòa nhà Cathay của Singapore, đã nhiều lần tôi phải cúi đầu chào một cách tôn kính về phía cung điện Hoàng gia ở Tokyo. Giờ đây, đứng trước Choo và tôi là một người đàn ông nhỏ thó với thân hình gầy gò hơi còng. Ông ta trông có vẻ hoàn toàn vô hại. Thật ra, ông ta thân thiện và lịch sự, nói thì thầm rất nhỏ. Hoàng hậu trông đẫy đà hơn, có vẻ nhẹ nhàng và hiền dịu với khuôn mặt tròn. Chúng tôi được các viên chức lễ tân đưa vào vị trí để chụp hình cho buổi lễ. Sau đó, chúng tôi ngồi xuống đàm đạo vụn vặt, ngoại trừ trong giây lát thích hợp ông ta biểu lộ sự hối tiếc về những khổ đau đã gây ra cho Singapore trong suốt cuộc chiến. Tôi gật đầu nhưng không nói gì cả. Tôi không chuẩn bị gì về việc đó và nghĩ rằng cách tốt nhất là giữ im lặng.

Lòng tôn kính xưa của dân Nhật đối với Nhật hoàng của họ sẽ khó có thể lặp lại vì họ đã gỡ bỏ Hoàng gia ra khỏi câu chuyện tưởng tượng về tính thần thánh của nó. Không còn điều bí ẩn cho ngai vàng. Ngồi và đàm đạo bằng một giọng nói khẽ khàng tại bàn ăn trưa với người trước kia là Thần Hoàng là một chuyện “khi quân phạm thượng”. Tôi tự hỏi ông Sato, người đã ngồi kế cận ông ta trong bữa ăn trưa, đã nghĩ gì về vị Hoàng đế của mình, vì ông ta thuộc thế hệ đã kính trọng Hoàng đế như là một vị thần.

Choo và tôi đã đến thăm Hoàng đế và Hoàng hậu vài dịp khác nữa. Một trong những hành động sau cùng của tôi với tư cách Thủ tướng là đến dự đám tang của ông ta vào tháng 2/1989. Các quan chức cao cấp từ khắp nơi trên thế giới đã đến Tokyo để bày tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ đối với người đứng đầu của một cường quốc công nghiệp đã hồi sinh. Đó là một buổi lễ trang nghiêm đậm tính truyền thống. Trong khu vườn thượng uyển Shinjuku là điện thờ Shinto nguy nga làm bằng gỗ, đặc biệt dùng cho tang lễ này, với một loại gỗ thông trắng đẹp mà không dùng một cây đinh nào cả. Mọi người đều mặc những bộ đồ màu sẫm với áo khoác ngoài, khăn quàng cổ, găng tay hoặc trong y phục truyền thống. Chúng tôi ngồi dưới một tấm bạt đối diện với điện thờ này, co ro vì một cơn gió đang thổi đến từ Siberia, chịu đựng gió rét trong hai giờ rưỡi. Sự sắp xếp của người Nhật thật tỷ mỉ. Có một khu vực tiếp tân ấm cúng sát bên với các món ăn nhẹ nóng sốt, và có các phòng nghỉ với các ghế được sưởi ấm. Mỗi người khách dự lễ được cung cấp những tấm chăn ấm và những gói riêng biệt, lớn nhỏ, chúng có tác dụng như những cái đệm có hơi nóng vì khi bao nhựa gói bên ngoài được xé ra thì khí oxy bắt đầu quá trình phản ứng hóa học. Tôi đặt những cái đệm nhỏ trong đôi giày dưới mu bàn chân và những đệm lớn trong mỗi túi áo vét, túi quần và túi áo khoác ngoài. Tội nghiệp Choo không có cái túi nào trong bộ y phục kiểu Trung Hoa của mình. Tôi thấy người bên cạnh tôi đã đặt vài đệm có hơi nóng trên chỗ ngồi của ông ta để giữ cho thân dưới được ấm. Đó là một thử thách khắc nghiệt hơn so với việc cúi đầu chào ông ta từ đỉnh mái nhà của cao ốc Cathay ở Singapore. Lúc đó, tôi không thể tưởng tượng được rằng tôi sẽ đại diện Singapore để tỏ lòng kính trọng đối với Hoàng đế Nhật tại buổi tang lễ, cùng với Tổng thống Hoa Kỳ George Bush và Hoàng tử Philip của Anh, là những đại diện cho hai cường quốc mà lực lượng của Nhật đã tấn công không báo trước vào ngày 7/12/1941. Tất cả các Tổng thống hoặc Thủ tướng của các quốc gia lớn và nhiều nước được viện trợ đều đến dự tang lễ, một vài trường hợp có mặt cả vị Quốc vương. Cả thế giới đến để bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với sự thành công vượt bậc của nước Nhật.

Hơn 35 năm qua, tôi đã đến và hiểu được nước Nhật cùng các nhà lãnh đạo của họ nhiều hơn. Chúng tôi cần họ giúp chúng tôi công nghiệp hóa. Về phần mình, họ xem Singapore là một vị trí chiến lược ở Đông Nam Á để họ có thể phát triển các hoạt động kinh tế của họ trong khu vực. Chúng tôi còn nằm giữa hải trình từ các quốc gia vùng Vịnh đến Nhật, rất quan trọng cho các tàu chở dầu của họ. Các vấn đề thường xuyên được nêu lên trong các cuộc thảo luận của tôi với các Thủ tướng Nhật là việc thông qua đạo luật tự do đi lại qua eo biển Malacca, sự đầu tư của Nhật vào Singapore và Đông Nam Á, an ninh trong khu vực kể cả vai trò của Trung Quốc và sự hợp tác kinh tế trong khu châu Á Thái Bình Dương.

Quyền tự do đi lại qua eo biển Malacca là quan trọng hơn hết trong suy nghĩ của hầu hết các nhà lãnh đạo Nhật Bản mà tôi đã gặp trong những năm 1960 đến 1970. Năm 1967, lần đầu tiên ông Sato đã biểu lộ sự lo ngại rằng các tàu chở dầu lớn không thể đi qua eo biển Malacca vì một vài chỗ nông của eo biển. Tôi đã nói rằng sẽ không có sự nguy hiểm nào nếu những nơi này được vạch giới hạn thích hợp bằng các phao hoặc những các ngọn hải đăng được thắp sáng. Với kỹ thuật tiên tiến, các eo biển có thể được đào sâu và có các phao thắp sáng làm tín hiệu dẫn đường cho tàu. Phương pháp khả quan của tôi đã khuyến khích ông ta. Ông ta bận tâm về những hải trình đến các vùng có nguyên liệu thô, đặc biệt là dầu mỏ, và đến các thị trường của họ. Các vấn đề này đã từng dẫn họ đến Thế chiến thứ hai. Khi đó họ có khả năng quân sự để giải quyết, nhưng sau chiến tranh thì không còn nữa. Vị Thủ tướng kế tiếp, ông Kakuei Tanaka, cũng nêu lên vấn đề này vào tháng 5/1973 lúc tôi đến Tokyo. Khi tôi nói với ông ta rằng chúng tôi có thể cùng nhau làm việc để chống lại bất kỳ đề nghị nào của các quốc gia trong vùng là thu thuế đường biển của các tàu đi ngang qua eo biển, thì ông ta mới thấy yên lòng.

Hai năm sau, khi tôi đến thăm Thủ tướng Takeo Miki, ông ta đã biểu lộ sự cảm kích và chân thành về sự giúp đỡ của chúng tôi trong hai tai nạn ở eo biển Singapore có liên quan đến các tàu chở dầu của người Nhật – một tai nạn đã gây nên sự giận dữ của các nước láng giềng với chúng tôi. Vào tháng Giêng năm đó, tàu Showa Maru bị mắc cạn ở Buffalo Rock, cách Singapore vài kilomet, đã gây nên một vết dầu loang kéo dài 20 km (khoảng 12 dặm). Đã có những nỗi lo sợ về nạn ô nhiễm đáng kể đối với vùng biển của các nước Indonesia, Malaysia và Singapore. Chuyên gia về cảng biển của chúng tôi đã lập tức khẩn trương chở các chất tẩy chống ô nhiễm đến để phân tán các vết dầu loang. Sau đó vào tháng 4, tàu Tosa Maru va chạm với một tàu chở dầu khác ngoài khơi đảo St. John ngay gần Singapore và bị vỡ làm hai. May là nó đã dỡ hết dầu mỏ nên đã không gây ô nhiễm. Tuy nhiên, các chính quyền Indonesia và Malaysia đã công khai đòi thu thuế đường biển để bù đắp tổn thất cho các quốc gia ven biển, đồng thời cũng giới hạn về trọng tải của các tàu được phép đi ngang eo biển Malacca. Vấn đề này rất hệ trọng đối với nước Nhật đến nỗi mà trong suốt cuộc viếng thăm đó của phó Thủ tướng Takeo Fukuda và Bộ trưởng Ngoại giao Kiichi Miyazawa, cả hai đã từng người một cảm ơn tôi về sự giúp đỡ của chúng tôi.

Chính quyền Nhật, hơn các cường quốc lớn khác, đánh giá sự quan trọng của một quốc gia đang phát triển tùy theo giá trị kinh tế của nước đó đối với Nhật. Singapore không có tài nguyên thiên nhiên nên họ đánh giá chúng tôi thấp. Chẳng hạn, để người Nhật giúp đỡ chúng tôi trong việc đầu tư một nhà máy hóa dầu, chúng tôi phải làm cho họ nhớ lại rằng tàu của họ đang đi ngang qua eo biển Malacca sẽ gặp vấn đề trong việc thu thuế quá cảnh nếu Singapore gia nhập với các nước ven biển khác như Indonesia và Malaysia. Nỗi lo lắng của Nhật đối với eo biển Malacca chỉ dịu bớt sau hội nghị của Liên Hợp Quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982, ban hành quyền quá cảnh miễn phí qua các eo biển quốc tế.

Suốt trong những năm tôi còn làm Thủ tướng, tôi đã khuyến khích sự đầu tư của người Nhật vào Singapore. Khi Thủ tướng Sato đến thăm Singapore vào tháng 9/1967, tôi đã công khai nói với ông ta rằng người Singapore không có sự hạn chế nào đối với vốn liếng, kỹ thuật cùng các nhà quản lý hoặc chuyên môn của Nhật, rằng người Nhật được giao nhiệm vụ dẫn dắt các nước châu Á còn lại tiến hành công nghiệp hóa. Tôi đã nói chuyện với các nhà tư bản công nghiệp Nhật ở trong Keidanren, một hiệp hội của các nhà tư bản công nghiệp lớn của họ rằng chúng tôi nghênh đón bất kỳ ngành kỹ nghệ nào mà Singapore có lợi thế về tiền lương hoặc chi phí vận chuyển. Một năm sau, ủy ban phát triển kinh tế (EDB) của chúng tôi đã thiết lập một văn phòng tại Tokyo, nhưng vào đầu những năm 1970, người Nhật không sẵn sàng chuyển các nhà máy của họ ra nước ngoài. Họ đang bít kín sản xuất công nghiệp của họ chỉ trong nước Nhật. Chỉ vào những năm 1980, khi người Mỹ gây áp lực về thặng dư mậu dịch đang gia tăng của họ, thì họ mới bắt đầu sản xuất tại Mỹ. Và khi châu Âu ngăn chặn các sản phẩm của họ thì người Nhật mới bắt đầu sản xuất ở đó, đặc biệt là tại Anh để xuất khẩu sang cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC).

Tiêu biểu cho phong cách cẩn thận và kỹ lưỡng của các công ty Nhật đã đầu tư ở nước ngoài là phương hướng mà hãng Seiko đã quyết định xây dựng nhà máy của họ ở Singapore. Chúng tôi đã mất hơn 3 năm vào đầu thập niên 70 để thuyết phục hãng Seiko xây dựng một nhà máy sản xuất đồng hồ tại Singapore. Nhân viên của Ủy ban phát triển kinh tế của chúng tôi tại Tokyo là Wong Meng Quang đã được đào tạo tại một trường đại học của Nhật hiểu rất rõ về ngôn ngữ và văn hóa của họ. Seiko đã không tin rằng có bất cứ một nơi nào ở Đông Nam Á có những kỹ nghệ hỗ trợ và có lực lượng lao động được đào tạo và huấn luyện tốt đủ để đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật chính xác của họ. Wong đã làm việc tích cực để thuyết phục họ rằng sẽ có ngày các đồng hồ thạch anh (quartz) rẻ tiền hơn sẽ không kinh tế nếu sản xuất tại Nhật, họ nên nghĩ đến Singapore. Anh ta đã tranh thủ tình cảm vị giám đốc phụ trách về kỹ thuật và sản xuất. Sau một vài chuyến khảo sát, nhiều bản báo cáo khả thi cùng vô số các đảm bảo hỗ trợ cần thiết khác mà chúng tôi cung cấp, cuối cùng họ đã quyết định đầu tư. Tôi đã khánh thành xưởng sản xuất đầu tiên của họ vào năm 1976. Nếu họ đã rất kỹ lưỡng và cẩn thận trước khi quyết định đầu tư, thì sau quyết định đó họ sẽ cố gắng rất lớn để đảm bảo cho sự thành công của họ. Họ sớm từ bỏ các nghi ngờ về tiêu chuẩn của công nhân chúng tôi và đã nâng cấp lên sản xuất các công cụ có độ chính xác, các kỹ nghệ về người máy và các hệ thống tự động.

Vào năm 1969, chúng tôi quan tâm đến một dự án hóa dầu. Trước hết tôi yêu cầu sự hỗ trợ của chính quyền Miki vì chúng tôi biết rằng không như người Mỹ hay người châu Âu, chính quyền tại Nhật đóng vai trò rất quan trọng trong dạng đầu tư này và sự hỗ trợ của họ thường mang tính quyết định. Tháng 5/1975, tôi đã gặp ông Norishige Hasegawa, chủ tịch Tổng công ty hóa chất Sumitomo. Ông ta sẵn lòng đưa công ty của ông ta tham gia vào một dự án như vậy, nhưng ông ta nói rằng chính quyền Nhật không hỗ trợ việc đó. Ông ta yêu cầu tôi phải đạt được một lời cam kết hỗ trợ công khai từ phía Thủ tướng Nhật. Thủ tướng Miki miễn cưỡng thực hiện việc này bởi vì Indonesia, một nước sản xuất dầu mỏ muốn một dự án hóa dầu cho chính nước họ. Tôi đã thuyết phục ông Miki không cho phép nước Nhật bị các quốc gia giàu tài nguyên gây áp lực mà bỏ mất một cơ hội đầu tư có lợi. Tôi cũng đã nhắc cho ông ta nhớ lại việc Singapore đã giúp đỡ dàn xếp ổn thỏa việc hai chiếc tàu chở dầu bị rò rỉ của Nhật và hy vọng ông ta sẽ hỗ trợ cho dự án của công ty Sumitomo. Sau đó, ông ta đã tuyên bố một lời ngắn rằng: mặc dù đó là một dự án đầu tư của tư nhân nhưng chính phủ Nhật quan tâm sâu sắc đến nó và sẵn sàng ủng hộ.

Hai năm sau, vào tháng 5/1977, người kế vị của ông Miki là ông Takeo Fukuda đã tán thành dự án hóa dầu giữa Singapore và Nhật Bản với công ty Sumitomo đóng vai trò là một lãnh đạo dự án về phía người Nhật. Không có ông ta thì dự án sẽ không bao giờ thành hiện thực. Một khoản đầu tư hơn một tỷ đôla Mỹ được xem là rất lớn vào năm 1977 và hóa dầu được coi là lĩnh vực đòi hỏi tập trung vốn quá lớn và kỹ thuật quá cao đối với Singapore. Mặc dù thế, còn phải cần đến sự can thiệp của Thủ tướng Yasuhiro Nakasone khi ông ta viếng thăm Singapore vào năm 1983 để làm cho dự án thực sự vận hành. Sau một thời gian ngắn, dự án được tiến hành trên cơ sở vốn 50:50. Nó đã xuất phát chậm chạp để đi vào hoạt động trong một thời kỳ mà cung đã vượt cầu nhưng cũng có lãi và kéo theo một số khoản đầu tư lớn vào các sản phẩm hạ nguồn (các sản phẩm chế tạo từ dầu mỏ).

Các Thủ tướng Nhật mà tôi đã từng gặp, từ ông Ikeda năm 1962 đến ông Miyazawa năm 1990, đều là những người có năng lực đáng kể. Một người nổi bật như một viên kim cương thô là Kakuei Tanaka – người tôi đã gặp vào tháng 5/1973 tại Tokyo. Ông ta có tiếng là một loại xe ủi đường, một con người có đầu óc như một máy tính mạnh, một nhà thầu xây dựng chiến đấu để vươn lên từ địa vị thấp. Với một chiều cao trung bình của người Nhật, hơi đậm và vạm vỡ, ông ta là người có nghị lực. Sự cộc cằn và thẳng thừng trong tính cách của ông ta làm ông khác biệt với các Thủ tướng Nhật khác. Họ phần lớn đều tốt nghiệp từ Đại học Hoàng gia Tokyo hoặc một vài học viện nổi tiếng khác để rồi trở thành những viên chức và sau đó leo lên đến đỉnh cao của ngành dân chính và tham gia vào giới lãnh đạo của đảng Dân chủ Tự do (Liberal Democratic Party – LDP). Ông Tanaka thì chưa bao giờ học đại học nhưng ông ta thừa năng lực cho công việc.

Thật dễ chịu khi trò chuyện với một lãnh tụ người Nhật luôn sẵn sàng giãi bày quan điểm không hạn chế, ngay cả với những vấn đề nhạy cảm như tình cảm bài Nhật ở Đông Nam Á. Nước Nhật khi đó bị rắc rối với việc các sinh viên Thái biểu tình chống đối việc khai thác kinh tế của Nhật tại Bangkok. Tôi nói việc đó không phải chỉ cần phái Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp của họ, ông Nakasone, đến để vỗ về người Thái là đủ; nếu ông Tanaka không muốn những vấn đề như vậy nhức nhối thêm thì ông ta phải biểu lộ cho người Thái, người Indonesia và người Philippine thấy rằng ngoài việc khai thác các nguyên liệu thô của họ, người Nhật còn quan tâm đến việc giúp họ công nghiệp hóa. Tôi đã nhắc lại những lập luận này với các thủ tướng khác của Nhật nhưng không có tác dụng nhiều.

Trong vòng 8 tháng, vào tháng 1/1974, tôi đã tiếp đón ông Tanaka tại Singapore. Khi ông ta từ máy bay bước xuống, khuôn mặt ông ta cong oằn với đôi môi và cái má bị nhăn về một phía. Ông ta không hề ngượng ngập và giải thích rằng thật ra ông có vấn đề về thần kinh vốn cần có thời gian để giải quyết, ông ta toát ra vẻ tự tin mạnh mẽ.

Ông ta đã từ chức vào cuối năm 1974 do vụ hối lộ khi mua máy bay của hãng Lockheed, nhưng vẫn còn là nhân vật quyền lực trong đảng Dân chủ Tự do cho đến khi ông ta qua đời năm 1993.

Ông Takeo Fukuda là một người đàn ông mảnh khảnh, chỉnh tề và dẻo dai với một nét tinh quái biểu lộ trên khuôn mặt nhỏ và thanh nhã. Tôi đã gặp ông ta vào tháng 5/1977 sau khi ông ta trở thành Thủ tướng. Qua các buổi gặp gỡ trước đây khi ông ta còn là bộ trưởng, tôi biết ông ta có một đầu óc sắc bén, rộng rãi và có sự quan tâm bao quát. Có một lần, để trình bày nước Nhật đã bị thiệt hại như thế nào, ông ta đã móc từ túi áo trên ra một cuốn sổ bỏ túi và đọc lên kích thước của khu vực kinh tế được mở rộng của Nhật (Extended Economic Zone – EEZ)[39]so với Mỹ. Ông ta đã giữ lại các số liệu và hình ảnh hữu ích gồm cả số dặm vuông mà mỗi quốc gia có được như vùng kinh tế được mở rộng theo Luật biển.

Vào tháng 8, ông Fukuda đến thăm Singapore sau khi tham dự hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Kuala Lumpur. Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện một tiếng rưỡi đồng hồ. Các bộ trưởng của chúng tôi đồng ý thiết lập một trung tâm đào tạo Nhật – Singapore và những khoản đóng góp của các công ty Nhật cho trung tâm được khấu trừ thuế. Người Nhật yêu cầu chúng tôi dành một khoảng thời gian chuyển tiếp 5 năm trước khi UKC (Under Keel Clearance tức mớn nước của một con tàu) 3,5 mét – chừng 4 yard, được áp dụng đối với các tàu dầu của Nhật đi qua eo biển Malacca. Mặc dầu Indonesia, Malaysia và Singapore đã đồng ý rằng điều đó sẽ được thi hành sau ba năm rưỡi nhưng tôi hứa sẽ cố gắng gia hạn đến 5 năm. Chúng tôi đã thành công.

Lúc đó, tôi phản đối với Fukuda rằng các quan chức của ông ta đã nói về Singapore không phải như là một quốc gia đang phát triển mà như là một quốc gia được công nghiệp hóa và không được quyền vay ưu đãi từ Nhật. Nếu họ đối xử với chúng tôi như một quốc gia công nghiệp hóa trong khi chúng tôi chưa phải như vậy thì sớm muộn gì cộng đồng kinh tế châu Âu và Hoa Kỳ cũng đối xử với chúng tôi như vậy. Chúng tôi sẽ mất đi quyền được hưởng GSP (General Scheme of Preferences – Chính sách cho phép các nước đang phát triển được miễn thuế nhập khẩu) và những lợi thế khác trước khi chúng tôi có thể cạnh tranh trên điều kiện ngang bằng. Ông Fukuda ghi lại và họ đã ngưng đưa ra vấn đề này. Mấy năm sau, vào giữa những năm 1980, chính hội đồng châu Âu ở Brussels là bên đã đòi đặt lại vấn đề về địa vị quốc gia đang phát triển của Singapore.

Chú thích:

[38] Chòm Nam Thập, gồm 4 ngôi sao xếp thành hình chữ thập, có thể quan sát được từ vĩ tuyến +20o đến -90o; quan sát rõ nhất vào các đêm tháng 5, lúc 21 giờ.

[39] Vùng đặc quyền kinh tế (thường gặp với thuật ngữ Exclusive Economic Zone) là vùng biển mở rộng từ các quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo, nằm bên ngoài và tiếp giáp với lãnh hải, về cơ bản được quy định – theo Công ước Liên Hợp Quốc về luật biển UNCLOS năm 1982 – có chiều rộng 200 hải lý (khoảng 370,4km) tính từ đường cơ sở. Trong khu vực này, quốc gia có đặc quyền khai thác và sử dụng các tài nguyên biển. Nó là một trong các vùng mà quốc gia có chủ quyền. Đối với thuật ngữ Extended Economic Zone, người làm ebook không tìm được từ internet một trang nào đưa ra một định nghĩa chính thức, chỉ có một vài giải thích đi kèm thuật ngữ này liên quan đến giới hạn 200 hải lý.