← Quay lại trang sách

Chương Mười một

Đối với người Việt, biển có nhiều huyền thoại hơn đất, núi hay rừng, kể từ huyền sử qua dã sử tới lịch sử. Những huyền thoại như:

° Biển là bước đường cùng của An Dương Vương, sau khi nghe lời biển mới biết con gái Mị Châu, ngồi sau lưng ngựa rắc lông ngỗng để người tình Trọng Thủy tìm được mình và đem lại cái chết của Phụ Vương...

° Biển chứng kiến cuộc tình không phân chia giai cấp của Công Chúa Tiên Dung và người nghèo Chử Đồng Tử...

° Biển là bạn hiền an ủi An Tiêm trong lưu đầy nơi đảo khơi...

° Biển là cõi tình của Trần Khắc Chân khi kéo quân vào Chiêm cứu Huyền Trân ra khỏi giàn hoả thiêu rồi hai người kéo buồm ra khơi, hai năm sau mới trở về đất liền...

° Biển là võ khí của Đức Trần Hưng Đạo, là đường phục quốc của Hoàng Đế Gia Long...

° Biển là nỗi buồn Nguyễn Du lúc chiều hôm trong Truyện Kiều, là lòng Mẹ bao la của Y Vân, là Mẹ Trùng Dương của Phạm Duy, là nỗi nhớ nhung (Biển Nhớ ) của Trịnh Công Sơn trong âm nhạc...

Gần đây nhất, biển trở thành lẽ sống của người đi tìm tự do nhưng biển cũng là mồ chôn của hàng chục vạn sinh linh. Thi sĩ Viên Linh gọi biển là Thủy Mộ Quan qua một tập thơ dài. Tôi phổ nhạc nhiều đoạn trong tập thơ này...

Trên huyết hải, thuyền trôi về một chiếc

Chiều bầm đen, trời rực rỡ đau thương

Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt

Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương...

........

Thấp thoáng trần gian mịt mù bóng đảo

Trôi về Tây, về Bắc, về Đông

Trôi về đâu bốn bề thủy thảo

Về đâu kiếp đắm với thân trầm...

Đôi uyên ương Lê Uyên Phương gọi Biển là Kẻ Phán Xét Cuối Cùng...

... Im lặng

Hoàn toàn im lặng

Chỉ còn lại bầu trời

những vì sao

nước biển đen ngòm

và tiếng thở dài câm lặng

Không một tiếng nói

Không một lời đối thoại

Chỉ có sự thất vọng

và bóng tối hoàn toàn...

.......

Biển đã đem đến sự sống

Biển đã đem đến sự chết

Bằng ý nghĩ của con người

Chúng ta đã phán xét chúng ta

Biển chính là kể phán xét chúng ta...

(Lê Uyên Phuơng)

Còn tôi thì đã có một bài Hát Cho Người Vượt Biển trong đó biển là sự sống...

Này đoàn người đi tìm tự do

Muốn tìm người, thật là khó.

...........

Lạy Trời Phật, cúi đầu mà coi

Bé ngây thơ trong bão tơi bời

Lạy Trời Phật, xin nhìn ngoài khơi

Ông bà lão nghiến răng cầm lái

Và còn lạy xin Ngài Thần Biển

Đoái thương đôi trẻ mới se duyên

Lạy loài người, tôi lạy tổ tiên

Hãy cho tôi thấy đất liền...

Nhưng Diệu Văn, một thi sĩ tị nạn ở Hạ Uy Di lại nhìn Biển Đông là một biển máu. Tôi đưa bài thơ về sự chết của thi sĩ Diệu Văn vào một ca khúc:

Ra biển chiều nay thấy mầu máu đỏ

Máu đỏ bầu trời, máu đỏ chân mây

Gió rên siết như ngàn lời uất hận

Sóng gầm gừ giận dữ cát tung bay.

Ra biển mà coi xác người trôi dạt

Xác của người già, xác của em thơ

Xác trôi quanh, tóc nhoà theo sóng cuộn

Hố mắt đen ngòm, bầy cá đùa chơi.

Ra biển chiều nay thấy người hấp hối

Ngồi ôm nhau, nhịn đói đã bao ngày

Chiếc thuyền con chồng chềnh theo ngọn sóng

Đi về đâu trời bão tố đêm nay?

Qua bài thơ Biển Máu dữ dội này, thi sĩ cho ta thấy chính trị tuyệt vời, tôn giáo cao siêu đến đâu cũng không ngăn được cảnh thống khổ của Việt Nam hôm nay và cho mọi người thấy những gì đã biến biển Thái Bình thành ra biển máu:

Một lũ điên cuồng mang mầu chủ nghĩa

Khổng giáo tam tài, phong kiến vua tôi

Lão vô vi, Phật luân hồi, Chúa bác ái

Đong mãi không đầy một chén cơm vơi.

Ra biển chiều nay thấy mầu máu đỏ

Máu của chị và máu của anh em

Tư bản đến: bom đạn và thuốc độc

Cộng Sản vào: xác ngập Thái Bình Dương

Thi sĩ cũng không quên kết tội những hải tặc gây bao tội ác ở giữa biển và những dân tộc ở vùng biển Đông xua đuổi người vượt biển không cho vào bờ:

Ra biển mà coi lũ người ác nghiệt

Xua đuổi thuyền bè, cướp của hãm hiếp

Máu lương dân sẽ oà trong giấc mộng

Dân chúng quanh vùng miền nước Biển Đông.

Dù có lúc không đỏ như máu, biển xanh bao la bây giờ là sự chia cách não nùng giữa những đôi vợ chồng son. Qua một bài hát buồn nhan đề Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, tôi nói tới cảnh thân yêu ngày trước ở một tổ ấm nào đó tại miền Nam Việt, chiều chiều người vợ ra đứng đầu ngõ đợi chồng... Đi làm về, chồng âu yếm hôn lên mắt vợ, rồi sau ngày 30-4, chồng vượt biên qua Mỹ, vợ kẹt lại ở nhà. Người chồng ra biển rộng, gọi tên người vợ thân yêu:

Ở bên nhà em không còn đứng đợi, chờ, mong

Đợi anh về, anh hôn vào mắt nàng mầu nhung

Ở bên nhà em đi lao động

Ở bên này anh ra biển rộng, gọi trùng dương

Trùng dương nào đã chia lìa đôi vợ chồng son

Trùng dương còn thêm cắt rời cha mẹ và con 1

Trùng dương được tôi biện hộ: chế độ mới là nguyên nhân của sự chia cách:

Trùng dương nào hay chế độ nào

Đẩy con người vô kiếp nghẹn ngào, kiếp xa nhau.

Nhớ đôi tay em, xưa xinh như mộng

Tay vuốt tóc chồng, tay nựng con thơ

Nhớ đôi môi em, ôi đôi môi mọng

Ca hát cho đời thêm sắc thêm hương

Ở bên nhà đôi tay ngà em vục bùn đen

Ở bên nhà đôi môi mềm thú vạn tội oan

Ở bên này sống với ác mộng

Từng đêm ngày anh ra biển rộng khóc thương em

Bài Ở Bên Nhà... này được phát thanh trên Đài VOA trong năm 1978, sau đó ông Lê Văn, người phụ trách chương trình Nhạc Hải Ngoại nhận được bức thư cám ơn của một thiếu phụ ở Cần Thơ vì bài hát nói lên cảnh ngộ của bà. Cũng như thế, vào tháng chạp năm1991, tôi nhận được lá thư của một người bạn văn, mở đầu bằng câu: ''Tôi ngồi viết thư cho anh trong khi bầy chim đang hót trong phòng...'' Thế là nhạc phẩm Bầy Chim Bỏ Xứ của tôi đã được ba Đài VOA, BBC và RFI... cho mượn không gian để bầy chim tự do đã vỗ cánh bay về.

Tiếp tục soạn những bài ca xây dựng huyền thoại biển, sau bài Ở Bên Nhà Em Không Còn Đứng Đợi Chờ Anh, tôi có bài Lấp Biển Vá Trời:

Chúa đã phán rằng có được niềm Tin

Thì mình có thể vá được trời xanh

Xê dịch núi rừng, lấp cạn trùng dương

Anh có nghe chăng

Anh có nghe chăng lời em khấn nguyện?

Sau cảnh chồng ra biển gọi vợ tới cảnh vợ ở ngoài nước muốn làm phép lạ - lấp biển vá trời - để cứu chồng ra khỏi trại cải tạo rồi vượt biển tới bến bờ tự do.

Tôi đã từng nói tới sự trao tình giữa nghệ sĩ với thiên nhiên (sentiment de la nature). Tôi không dám ''khoe'' rằng nỗi buồn trong nhạc của tôi lúc này đạt tới rung động trùng dương (sentiment océanique) nhưng trong hoàn cảnh được ra chốn trời cao biển rộng và trước những nghịch cảnh vô cùng đớn đau, tình cảm của tôi không còn kích thước của lũy tre xanh, con đê nhỏ, cánh đồng xinh xinh nữa. Đã mang tâm sự của con dạ tràng (lấp biển Đông) rồi, tôi còn muốn phóng tình cảm lên tới vũ trụ (sentiment cosmique) nghĩa là muốn theo gót bà Nữ Oa (đội đá vá trời) qua bài hát này. Tất cả không ngoài ước muốn cùng con người Việt Nam của thế kỷ, với nhiều phép lạ, chống lại định mệnh ngặt nghèo.

Bài Lấp Biển Vá Trời này muốn có ngày rung được Trời Đất, để người chồng thoát được ngục thất, bay được lên trời, hay vượt biển khơi đến bên người vợ, gần nhau suốt đời. Vào lúc này, trong những bài hát của người lưu vong, tôi luôn luôn dựa vào Niềm Tin và Hi Vọng:

Nếu vẫn khó lòng vá được trời xanh

Phận hèn không thể lấp cạn đại dương

Xin được sống còn, giữ vẹn lòng son

Xin mãi yêu thương

Xin mãi yêu thương người nơi cuối đường.

Chúa sẽ thương tình vá lại hồn em

Bằng niềm Tin để lấp biển sầu thương.

Sống được trong đời, hi vọng còn nuôi

Nuôi mãi tin yêu,

Nuôi mãi tin yêu, gửi nơi cuối trời.

Còn niềm Tin mãi nơi ta

Thì rồi sẽ nối duyên xưa...

Biển và nạn hải tặc còn bắt tôi phải nói lên và chống lại số phận hẩm hiu của người phụ nữ Việt Nam đương thời. Bài Lời Người Thiếu Phụ Việt Nam đưa ra hình ảnh một phụ nữ, chồng chết ở trại tập trung, cha mẹ chết ở vùng kinh tế mới... Nàng bế con ra khơi, không may gặp hải tặc. Chúng hãm hiếp nàng và ném con nàng xuống biển. Hỏi tại sao người phụ nữ này không tự tử chết? Bà trả lời:

Xin đừng hỏi tôi vì sao tôi còn sống?

Vì sao tôi còn mong? Vì sao tôi còn ngóng?

Xin đừng hỏi tôi vì sao tôi mất chồng?

Vì sao tôi mất con? Mẹ Cha, tôi mất luôn.

Xin đừng hỏi tôi, khổ đau đã triền miên

Mà sao tôi chẳng điên? Mà sao tôi chẳng chết?

Lũ giặc Biển Đông làm thân tôi ố nhục

Làm con tôi chết trôi, chỉ còn tôi sống sót thôi!

Chồng tôi đã chết nơi trại tập trung

Mẹ Cha tôi chết ở vùng kinh tế

Tôi đã ra đi, ôm đứa con thơ

Trong chuyến ra khơi nửa giấc đêm mưa.

Hi vọng tìm được cuộc đời tự do

Nào ngờ bọn người ích kỷ đuổi xua

Thuyền nhân ốm đói, giặc chờ ngoài khơi

Chỉ một mình tôi sống thôi, để lên tiếng gọi...

Vâng! Người thiếu phụ Việt Nam này không thể chết được vì: Tôi còn phải sống để treo cao nợ máu, người Đông Dương khổ đau vì âm mưu đổi tráo... Tôi còn phải sống để khóc chồng khóc con, khóc cha khóc mẹ... Nhưng nếu tôi có buồn vì quê hương nát tan, lòng tôi chưa thể yếu hèn được:

Tôi còn phải sống để nuôi sâu thù oán

Kẻ gây nên lầm than, người vô tâm tàn nhẫn

Tôi còn phải sống để mang ơn những ai

Mở tay ôm những người

Nạn nhân trên cõi đời.

Kết luận: người thiếu phụ Việt Nam ở trong hoàn cảnh đáng lẽ phải chết này cần phải sống để cho thế giới phải lưu tâm tới số phận của nước Việt Nam.

Trên đường đi tìm tự do, biết bao nhiêu thiếu nữ, thiếu phụ trở thành nạn nhân của hải tặc. Để xoa dịu vết thương của những người xấu số, tôi có bài Giải Thoát Cho Em:

Giải thoát cho em, cá chậu chim lồng

Con chim Lạc Hồng bay đi mịt mùng

Con cá Tiên Rồng vượt sóng muôn trùng

Em đi tìm sống.

Giải thoát cho em, gánh nặng u buồn

Trên vai mỏi mòn, trong tim tủi hờn

Kiếp sống ngỡ ngàng, cay đắng trên đường

Xa cách quê hương...

Bài hát muốn giải thoát muôn vàn oan khiên, những tai nạn dọc đường, cho rằng người bị hãm hại là người thục nữ không may gặp phải hùm beo ác thú hay bị con chó cắn càn. Bài hát muốn giải thoát những nàng Kiều của thời đại, dù là kiếp bèo nổi trôi nhưng hồn thì chói lói, người con gái Việt Nam là cỏ núi, dù giông tố dập vùi nhưng vẫn mãi mãi xanh tươi...

Giải thoát cho em, ác mộng qua rồi

Dâng em cuộc đời, dâng em tình người

Tay đón tay mời, cuộc sống tơi bời

Cùng nhau vun sới

Giải thoát cho nhau, nối chặt tâm tình

Không ai hiểu mình hơn ta và mình

Những nỗi oan tình và những hận sầu

Giải thoát cho nhau.

Muốn vượt định mệnh ngặt nghèo của mình thì lòng phải sâu như biển, cao như núi, rộng như các thành phố Âu Mỹ. Và khi được sống với cả ba thứ đó mới thấy biển hoang vu, núi cô đơn, thành phố vắng lặng như thế nào?

Tôi soạn một bài hát nhan đề Như Là Lòng Tôi, cho rằng biển có nhức nhối, núi có buốt giá, thành phố có nặng nề đến đâu đi nữa thì cũng chỉ như là lòng tôi mà thôi:

Chiều nay ra đứng bên bờ đại dương

Biển âm u, vắng ngắt

Biển bao la một mầu tím ngát muộn phiền

Biển mênh mang niềm nhớ tiếc

Biển run lên từng đợt sóng biếc, ngỡ ngàng

Rủ nhau tới chết bên bờ biển hoang

Mặt trời cũng chết trong lòng biển sâu

Biển thương đau mấy kiếp

Biển đơn côi, biển còn nối tiếp cuộc sầu

Biển mông lung gào với gió

Biển hung hăng và làm bão tố nghiêng trời

Biển khơi nhức nhối như là lòng tôi.

Điệp Khúc là lời van xin:

Hãy lấp kín lại trùng dương

Cho tôi thôi buồn đại dương

Tái sinh làm con suối vắng...

Cho tôi xin là dòng sông

Nơi quê hương sạch và trong

Uốn quanh ngoài cánh đồng...

Đứng trước biển lòng tôi buồn như vậy... Còn nếu khi lên núi, thì:

Bình minh lên núi, tuyết phủ đầy vai

Vùi thân trong buốt giá

Nằm chơ vơ một hàng núi đá chập chùng

Rừng xanh xao và chết cóng

Trời không cao và trời vắng bóng mây ngời

Mặt hồ băng kín như là lòng tôi.

Rồi đi xuống phố không một người quen

Nhà xi măng cốt sắt

Mọc chênh vênh và làm khuất mắt người tình.

Đường tuy đông mà quá trống

Ngày đi qua chỉ là những bóng không lời

Đời nghe xa vắng như là lòng tôi!

Điệp Khúc này vẫn là một lời van xin:

... Hãy quét tuyết sạch mùa Đông

Cho non cao khỏi lạnh băng

Hãy về gặp nhau trên đất khách...

Ta ôm nhau mà hỏi han

Ta gây lại tình thương

Sẽ thấy vui ở cuối đường.

Kết luận, bài ca vẫn hướng về sự tích cực:

Biển xanh, núi biếc hay vỉa hè kia

Rồi đây thắm thiết như là lòng ta!

Thấy tôi rất chú ý tới phụ nữ, Nguyễn Ngọc Bích viết trong bài TỰA của nhạc tập THẤM THOÁT MƯỜI NĂM do Hội Văn Hóa Việt Nam Tại Bắc Mỹ, Tủ Sách Cành Nam và Tạp Chí Xác Định ở Washington DC ấn hành vào năm 1985:

'' Nét nổi bật của nhạc Phạm Duy trong lúc này là thế đứng và nhất là thân phận của người đàn bà, của phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Du viết: Đau đớn thay phận đàn bà và đau đớn như thế nào, ghê gớm như thế nào, có lẽ chưa bút nào tả siết. Phạm Duy đã thử qua nhạc của anh...''

Thân phận của người thiếu phụ được tôi chú ý có lẽ vì tôi luôn luôn bị huyền thoại Mẹ ám ảnh. Tôi còn lưu tâm tới người thiếu nữ Việt Nam trên đường tị nạn. Do đó có bài:

Người con gái Việt rời xa tổ quốc

Nàng như cánh đào trước gió phất phơ

Hoặc như chiếc thuyền lửng lơ ngoài sông nước

Hay phận liễu bồ trôi dạt phương xa

Người con gái Việt phải xa tổ quốc

Nàng vẫn giữ lòng son sắt như xưa.

Dòng Tiên giống Rồng, Nàng mang tình yêu nước

Mang cả linh hồn nữ kiệt Trưng Vương.

Tôi xưng tụng người thiếu nữ với gia tài là Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Bao năm ly loạn làm quê hương tơi bời mà người con gái Việt không hề đổi thay thì bây giờ...

... người con gái Việt ngày xa lìa nước

Dù vắng bóng chồng hay vẫn bên nhau

Dù đang sống cùng tự do nhiều hơn trước

Tinh thần gái Việt giữ gìn cho lâu.

Tôi mong rằng, dù phải chung đụng với văn hoá của các nước Âu Mỹ, xin các em vẫn giữ lòng trong trắng như hoa, đã thờ cha, kính mẹ lại thờ luôn tình yêu nước và giữ đạo yêu chồng, xây dựng con thơ. Rồi bởi vì xã hội Hoa Kỳ là sự tự do quá trớn nên ngay từ lúc này tôi mong mỏi người con gái Việt Nam đi tị nạn ở Âu Mỹ gìn giữ hộ tôi nguyên vẹn cả tinh thần lẫn thân thể qua bài Xin Em Giữ Dùm Anh:

Trong đôi mắt em, anh nhìn thấy mặt trời xa

Nắng quê Cha, bốn nghìn năm rôi đời ta

Nắng êm vui từng đón anh vào đời

Đi theo cuộc tình thăm thẳm xa vời

Em có đôi môi thơm mùi cốm vàng ngày xuân

Môi ngọt ngào như ngụm sữa Mẹ, hiền ngoan

Miếng môi ngon từng vướng dăm giọt lệ

Cho anh hôn vào, vui buồn mải mê.

Nhớ ngày mới khởi sự sáng tác, sự nguyên vẹn hình hài nằm trong cái chết. Bây giờ nó là sự sống:

Ôi đôi tay! Như sóng Biển Đông say

Hay gió rừng lay trên dẫy núi miền Tây

Đôi tay tròn, nếu được em ẵm ôm

Anh rồi sẽ chôn biết bao nhiêu tủi hờn

Ôi đôi chân, em mang đi đằng đẵng

Những dặm đường trường, trên con đường cái quan

Đôi chân son, chân ngát hương Saigon,

Đôi chân u buồn, đôi chân vượt trùng dương.

Xưng tụng môi mắt, tay chân của người con gái Việt Nam, tôi còn muốn bơi trong làn tóc của em, những làn tóc xanh như nước sông bồng bềnh của quê mình. Tôi muốn em gìn giữ hộ tôi một góc quê bàng hoàng đã in trong tâm hồn và trong thân thể nở nang của em:

Xin em giữ dùm anh mắt rực lửa hồn

Em soi sáng hộ anh Đại Lộ Hoàng Hôn

Xin em giữ hộ anh môi mềm lời nguyện

Ru anh chết một đêm, tuyết phủ mộ êm

Em hãy giữ hộ anh tay ngà nhỏ ngọn năm nhánh.

Anh say giấc ngàn thu, hơi Mẹ còn nồng mộng mơ

Em đi tới ngày mai, chân dài vượt vạn nẻo đời

Anh nơi suối vàng vui, ngỡ mình miệt mài chẳng ngơi.

Xin em giữ dùm anh, người con gái đồng trinh.

Theo gót Nguyễn Du, nói tới thân phận đớn đau của người đàn bà, sau những lời ca của thiếu phụ Việt Nam khi gặp cảnh thủy ngục đại dương, tôi có thêm bài Trả Lại Chồng Tôi ghi lại hình ảnh điển hình nhất của thời đại là người đàn bà ở trong địa ngục quê hương:

Trả lại chồng tôi, chồng của tôi

Trả lại người yêu qúy của tôi

Bao năm chinh chiến đã xa vời

Hoà Bình về nơi quê hương rồi

Mà người chồng tôi vẫn bặt hơi

Hình dạng người yêu vẫn bặt khơi.

Người thiếu phụ Việt Nam có chồng bị bắt giam ở trại cải tạo, cất tiếng hỏi:

Cũng là anh em hai miền ruột thịt

Mà sao nỡ bắt đem đầy xa?

Cũng là con dân máu đỏ da vàng

Mà sao nỡ giết nhau, hại nhau, gây thương đau?

.........

Trả lại chồng tôi, chồng của tôi

Trả lại quyền dân sống thảnh thơi

Cho quê hương ấm no yên lành

Trả lại thương yêu cho gia đình

Trả lại Việt Nam những tình thiêng

Của triệu đàn con giống Rồng Tiên.

Sau ngày 30-4-75, những bà vợ quân nhân công chức của chính quyền quốc gia là những nhân vật oanh liệt nhất của thời đại khốn khổ này. Biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam, dù phải sống khổ nhục dưới chế độ mới, vẫn tận tụy nuôi con sau khi chồng bị bắt. Rồi lặn lội đi thăm nuôi chồng ở những nơi rừng sâu núi thẳm. Sau thời gian tù đầy dài như thiên thu, chồng vừa được thả về là có sẵn bãi, sẵn thuyền để đưa chồng vượt biên.

Lũ nhạc sĩ chúng tôi cứ luôn luôn thích xưng tụng người Mẹ. Bây giờ trong cơn quốc nạn của Việt Nam, tôi thấy người vợ mới thật là quả cảm, tinh khôn, bền chí, nhẫn nại, trung thành, chân chính.

Nói thêm về huyền thoại biển...

.... Hơn các nước lân cận như Ai Lao, Cao Miên, Thái Lan, Miến Điện... với biển cả mênh mông từ biển Bắc tới biển Nam (gọi chung là biển Đông), nước ta mở ra với thế giới để đón nhận hay để tung đi muôn phương. Chỉ có điều buồn là sau cuộc Nam Tiến, tiền nhân chưa có dịp đưa nước Đại Việt ra biển thì nước ta bị bế môn toả cảng do lỗi lầm của một triều đại (Tự Đức) hẹp hòi, do nạn ngoại xâm dài gần một thế kỷ, do cuộc kháng chiến, nội chiến 50 năm và do sự mù quáng của một chính quyền, chỉ mới he hé ''mở cửa'' cho tiền đô-la đi vào Việt Nam với người về thăm quê hương mà chưa hề ''cởi trói''cho quốc gia và dân tộc.

Trong việc xưng tụng quê hương, tổ quốc, tôi đã có lần đả động tới biển ở nước mình. Qua bài Mẹ Trùng Dương (trong trường ca Mẹ Việt Nam), biển được tôi coi là nơi luôn luôn cung cấp cá lớn thơm tho đầy thuyền, nếu biết khai thác kỹ thì ngành thủy sản là một nguồn lợi kinh tế rất lớn lao, ngoài lúa gạo xuất cảng. Qua bài Mừng Xuân, tôi nói tớivàng đen tức là dầu lửa, thì ở dưới thềm lục địa của nước ta (rộng khoảng 1 triệu 300 ngàn km2), cứ cắm mũi khoan thăm dò là gặp ngay dầu khí.

Thi sĩ Bắc Phong ở Gia Nã Đại cho rằng biển mở đường đi biển lấp đường về. Nhưng vì anh cũng nói biển hẹn tương lai nên tôi ước mong biển Đông mau mau thoát ra khỏi huyền thoại về sự chết để vĩnh viễn là Mẹ Việt Nam vĩ đại với nguồn sinh lực dồi dào nuôi nấng lũ con, một ngày nào, giống như trong câu ca:

Lũ con lạc lối đường xa

Có con nào nhớ Mẹ ta thì về...

Nhân đây, xin nói thêm tới tác dụng của các chương trình tiếng Việt tại những Đài VOA, BBC và Đài Úc...2 Đó là mối liên lạc độc nhất và hiệu quả nhất giữa nghệ sĩ ở ngoài nước và dân chúng ở trong nước. Chính quyền có thể kiểm soát chặt chẽ thư từ, sách báo nhưng bất lực trước làn sóng âm thanh. Trong suốt hai chục năm qua, tôi không bỏ lỡ một cơ hội nào để được phỏng vấn bởi các đài phát thanh vừa kể.

Tôi mang ơn các vị phụ trách chương trình tiếng Việt của các đài đó. Vì ở cách xa nhau năm châu bốn bể, sự truyền thông giữa người Việt ở hải ngoại rất khó khăn, đồng hương có thể không biết rõ những sinh hoạt của tôi, nhưng ở trong nước, qua các Đài phát thanh VOA, BBC... đồng bào theo rõi tôi trong bất cứ một bài hát nào của bất cứ một xu hướng nào.

--------------------------------

1Vì nghĩ tới hoàn cảnh gia đình mình nên tôi có câu hát này.

2Sẽ có thêm Đài RFI (Radio internationale Francaise) của Pháp.