Chương 1
Khi đông đảo công chúng biết tin Prétextat Tach chỉ còn hai tháng nữa sẽ tạ thế, các phóng viên từ khắp nơi trên thế giới liền khẩn khoản xin được trao đổi riêng với văn sĩ tuổi ngoài tám mươi này. Hẳn là nhà văn lão thành đã tạo dựng được một uy tín lớn, thế nhưng người ta vẫn không khỏi kinh ngạc khi thấy đổ xô đến đầu giường bệnh của tiểu thuyết gia sáng tác bằng tiếng Pháp các phóng viên thường trú của những nhật báo nổi tiếng như (chúng tôi xin mạo muội tạm dịch) Những tin đồn từ Nankin và Người quan sát Bangladesh. Như thế, hai tháng trước khi qua đời, Tach đã có thể hình dung đôi chút về danh tiếng của mình.
Thư ký riêng của nhà văn chịu trách nhiệm chọn lọc cẩn thận những đề nghị phỏng vấn: người này loại ra tất cả những tờ báo không sử dụng tiếng Pháp bởi vì người bệnh đang hấp hối chỉ nói ngôn ngữ này và không tin tưởng vào bất cứ phiên dịch nào; anh ta cũng từ chối những phóng viên da màu, bởi lẽ dần dà khi đã có tuổi, nhà văn bắt đầu có những phát ngôn mang tính phân biệt chủng tộc, những lời lẽ không trùng khớp với quan điểm thực sự của ông – các chuyên gia nghiên cứu về Tach hết sức lúng túng bởi họ nhìn thấy trong những câu chữ này biểu hiện của mong muốn gây công phẫn nảy sinh theo tuổi tác; cuối cùng, viên thư ký lịch sự từ chối lời đề nghị thiết tha của các kênh truyền hình, các tạp chí dành cho phái nữ, những tờ báo được đánh giá là quá thiên về chính trị và nhất là những tạp chí y khoa chuyên ngành muốn biết làm thế nào mà con người vĩ đại này mắc phải một chứng ung thư hiếm gặp đến vậy.
Tach không phải là không tự hào khi biết mình mắc phải hội chứng Elzenveiverplatz đáng sợ, tên thường gọi là “chứng ung thư sụn”, được đặt theo tên nhà bác học vào thế kỷ XIX đã tìm ra triệu chứng căn bệnh trên khoảng chục trường hợp bệnh nhân vốn là tù khổ sai tại Cayenne, chịu án giam vì phạm tội cưỡng dâm rồi thủ tiêu nạn nhân, và kể từ đó trở đi, người ta không còn phát hiện thêm một trường hợp phát bệnh nào nữa. Tiểu thuyết gia cảm thấy sự chẩn bệnh lần này giống như một sự phong tước vượt quá sức mong đợi: với cơ thể phì nộn không chút râu ria, ở ông hội tụ tất cả những đặc điểm nhận dạng của một viên quan hoạn, chỉ trừ có giọng nói, ông đang sợ sẽ phải chết vì chứng tim mạch ngớ ngẩn. Khi thảo ra những dòng rồi đây sẽ khắc trên mộ chí của mình, ông không quên nhắc đến cái họ quý tộc của vị bác sĩ người gốc Teuton, nhờ cái họ ấy ông mới có thể từ giã cõi đời này một cách hiển hách.
Nói đúng ra, việc lão già phì nộn cứ suốt ngày ru rú trong nhà thọ được đến tuổi tám mươi ba đã khiến giới y học hiện đại phải bối rối. Người đàn ông này béo đến nỗi từ nhiều năm nay, ông thú nhận là không còn khả năng đi bộ; ông đã lờ tịt những lời căn dặn của các bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng và ăn vô độ. Ngoài ra, ông còn hút chừng hai mươi điếu xì gà La Habana mỗi ngày. Nhưng ông lại uống rất điều độ và đã từ lâu không còn duy trì sinh hoạt tình dục: các bác sĩ không tìm ra cách giải thích nào khác cho sự vận hành trơn tru của trái tim bị mỡ bóp nghẹt ấy. Sự sống sót của ông không hề kém phần bí hiểm, cũng giống như nguồn gốc của chứng bệnh sẽ kết thúc nó.
Không một cơ quan truyền thông nào là không công phẫn khi cái chết kề cận này bị đem ra câu khách. Ý kiến phản hồi từ phía độc giả cũng hưởng ứng nhiệt liệt những nỗ lực tự phê bình ấy của báo chí. Chính vì thế, loạt phóng sự của một số ít phóng viên được chọn lựa lại càng được mong đợi hơn bao giờ hết, hợp với quy luật của thông tin hiện đại.
Các nhà viết tiểu sử chưa chi đã tỏ ra hết sức thận trọng. Giới xuất bản trang bị đầy đủ khí giới cho đội quân của mình. Hẳn cũng đã có một vài trí thức tự hỏi, phải chăng thành công lạ lùng này đã bị thổi phồng quá mức: phải chăng Prétextat Tach đã thực sự tạo ra một bước cách tân? Phải chăng ông không chỉ kế nghiệp tài tình một số nhà canh tân còn chưa được đánh giá đúng mức? Và để chứng minh, họ kể ra một vài tác giả mang những cái tên bí hiểm mà chính họ cũng chưa hề đọc trọn bộ tác phẩm, điều ấy cho phép họ luận bàn với vẻ am hiểu.
Tất cả những nhân tố nói trên đều góp phần đảm bảo cho quãng thời gian trước khi từ giã cõi đời này một tiếng tăm đặc biệt lừng lẫy. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một thành công.
Tác giả, người đã có đến hai mươi hai cuốn tiểu thuyết thành công, sống trong căn hộ tầng trệt của một tòa chung cư giản dị: ông cần một chỗ ở nơi mà mọi vật dụng đều đặt ngang tầm với, bởi lẽ ông di chuyển bằng xe lăn. Ông sống đơn độc và không có lấy một con vật nuôi làm bạn. Ngày nào cũng vậy, một nữ hộ lý rất nhiệt thành đến tắm rửa cho ông vào lúc năm giờ chiều. Nhà văn không chịu để người khác đi mua sắm thay mình: ông đích thân tìm đến cửa hàng thực phẩm của khu phố để mua đồ ăn dự trữ. Viên thư ký riêng, Ernest Gravelin, sống cách căn hộ của ông bốn tầng nhà nhưng cũng hết sức tránh chạm mặt nhà văn; anh ta đều đặn liên lạc với ông chủ bằng điện thoại và Tach không bao giờ bỏ lỡ dịp để bắt đầu cuộc trò chuyện bằng câu: “Tiếc quá, Ernest thân mến, tôi hãy còn sống nhăn đây.”
Tuy nhiên, Gravelin vẫn nhắc đi nhắc lại với những phóng viên được chọn rằng nhà văn già vô cùng hào hiệp: chẳng phải năm nào ông cũng trích tặng nửa phần thu nhập của mình cho một tổ chức từ thiện đó sao? Chẳng lẽ người ta không mơ hồ cảm nhận được lòng độ lượng kín đáo này qua một vài nhân vật xuất hiện trong các tác phẩm của ông hay sao? “Tất nhiên rồi, ông ấy khiến tất cả chúng ta, mà nhất là tôi đây, phát hoảng, nhưng tôi khẳng định rằng vẻ hằn học bề ngoài này chỉ là một cách làm đỏm: ông ấy thích đóng vai một lão già phì nộn điềm tĩnh và khe khắt nhằm che giấu một tính cách nhạy cảm cực độ.” Vả chăng, những lời lẽ này không đủ làm yên lòng các phóng viên phụ trách mục thời luận đang không muốn từ bỏ một nỗi sợ vốn khiến kẻ khác phải phát ghen với họ: nỗi sợ ấy đem lại cho họ một vầng hào quang vẻ vang của những phóng viên thời chiến.
Tin tức về cái chết đang rình rập lan truyền vào ngày 10 tháng Giêng. Nhà báo đầu tiên có thể gặp nhà văn vào ngày 14. Anh ta bước vào giữa căn hộ tối om, tối đến mức phải mất một lúc anh ta mới nhận ra cái bóng hộ pháp đang tọa trên chiếc xe lăn ở chính giữa phòng khách. Giọng nói ồm ồm của ông lão tám mươi chỉ thốt lên một câu “Chào cậu” vô cảm để giúp anh ta thoải mái, câu nói ấy càng khiến anh chàng khốn khổ co rúm người lại.
- Hân hạnh được gặp ngài, ngài Tach. Đây là một vinh dự lớn đối với cá nhân tôi.
Chiếc máy thu âm chuyên dụng đã được bật lên, rình chộp lời lẽ của lão già đang câm bặt.
- Xin thứ lỗi, ngài Tach, tôi có thể bật đèn chứ? Tôi không nhìn rõ khuôn mặt ngài.
- Anh bạn, lúc này là mười giờ sáng, tôi không bật đèn vào thời điểm này trong ngày. Vả lại, cậu sẽ sớm nhìn thấy tôi thôi, ngay khi mắt đã quen với bóng tối. Vậy nên hãy tận dụng khoảng thời gian miễn xá được ban cho mình và bằng lòng với việc nghe thấy giọng nói của tôi, đó là thứ đẹp nhất tôi có được.
- Quả là ngài có một chất giọng đẹp.
- Đúng vậy.
Vị khách không mời mà đến chỉ còn biết im lặng bối rối, anh ta ghi vào sổ tay: “T. có một sự im lặng cay độc. Cố tránh hết sức có thể.”
- Ngài Tach, cả thế giới thán phục quyết tâm của ngài, quyết tâm từ chối không nhập viện điều trị, bất chấp lệnh bác sĩ đưa ra. Vậy nên câu hỏi đầu tiên nhất thiết phải thế này: ngài cảm thấy trong người thế nào?
- Cảm giác của tôi vẫn vậy từ hai chục năm nay.
- Nghĩa là sao?
- Tôi cảm thấy ít.
- Ít gì kia?
- Vâng, tôi hiểu.
- Tôi ngưỡng mộ cậu đấy.
Không có sự mỉa mai nào trong chất giọng đều đều vô cảm mà khắt khe của người bệnh. Người phòng viên gượng cười trước khi tiếp tục đặt câu hỏi:
- Ngài Tach, với một người như ngài, tôi sẽ không dùng lối nói lắt léo thường gặp trong nghề báo. Tôi cũng mạo muội được hỏi rằng suy nghĩ và tâm trạng của một nhà văn lớn khi biết mình sắp chết là như thế nào?
Im lặng. Thở dài.
- Anh bạn ạ, tôi không rõ.
- Ngài không biết sao?
- Nếu biết mình đang nghĩ gì, tôi cho rằng tôi đã không trở thành nhà văn.
- Ngài muốn nói rằng ngài viết rốt cuộc là để biết được mình đang nghĩ gì sao?
- Cũng có thể. Tôi không rõ, lâu nay tôi không còn viết lách nữa rồi.
- Sao kia? Nhưng cuốn tiểu thuyết gần đây nhất của ngài ra mắt độc giả cách nay mới có chưa đầy hai năm...
- Lấy từ ngăn kéo ra thôi, anh bạn. Những ngăn kéo tủ của tôi đầy ních bản thảo đến nỗi trong vòng một thập kỷ sau khi tôi qua đời, mỗi năm người ta có thể xuất bản một cuốn tiểu thuyết của tôi.
- Quái lạ! Ngài ngừng viết từ khi nào vậy?
- Từ tuổi năm mươi chín.
- Vậy là toàn bộ những tiểu thuyết của ngài xuất bản từ hai mươi tư năm qua đều được lấy ra từ ngăn kéo sao?
- Cậu tính nhẩm nhanh đấy.
- Ngài bắt đầu viết văn từ năm bao nhiêu tuổi?
- Khó nói lắm: tôi đã bắt đầu và tạm dừng nhiều lần. Lần đầu tiên là vào năm tôi lên sáu, tôi viết bi kịch.
- Viết bi kịch vào năm lên sáu tuổi ấy à?
- Đúng vậy, viết bi kịch bằng thơ cơ đấy. Ngu ngốc quá đỗi. Năm lên bảy thì tôi ngừng công việc viết lách. Năm chín tuổi, tôi lại có hứng sáng tác, cảm hứng đó mang lại cho tôi vài khúc tráng ca, vẫn bằng thơ. Ngày đó tôi xem thường văn xuôi.
- Thật ngạc nhiên khi nghe những lời này từ một trong những tác gia văn xuôi lỗi lạc nhất của thời đại chúng ta.
- Đến năm mười một tuổi, tôi lại ngừng viết lần nữa và không viết thêm được dòng nào cho tới tận năm mười tám tuổi.
Phóng viên ghi vào sổ tay: “T. tiếp nhận những lời khen ngợi không hề tỏ ý phản đối.”
- Thế vào năm mười tám tuổi?
- Tôi lại bắt đầu lại. Thoạt tiên, tôi viết khá ít, rồi mỗi lúc một nhiều lên. Đến năm hai mươi ba tuổi, tôi đạt được nhịp điệu ổn định sau thời kỳ thích ứng, và tôi duy trì nhịp điệu ấy trong suốt ba mươi sáu năm liên tiếp.
- Ý ngài là gì khi dùng cụm từ “nhịp điệu ổn định sau thời kỳ thích ứng”?
- Tôi không làm bất cứ việc gì ngoài sáng tác. Tôi viết không ngừng nghỉ; trừ những lúc ăn, hút thuốc và ngủ, tôi không có bất kỳ một hoạt động nào khác.
- Ngài không bao giờ bước ra ngoài chăng?
- Chỉ khi nào tôi buộc phải làm vậy.
- Thực ra, không ai biết ngài đã làm gì trong thời gian xảy ra chiến tranh.
- Tôi cũng đâu có biết.
- Ngài muốn tôi phải tin lời ngài như thế nào đây?
- Đó là sự thật. Từ năm hai mươi ba tuổi đến năm năm mươi chín tuổi, thời gian trôi qua đối với tôi ngày nào cũng giống ngày nào. Quãng thời gian ba mươi sáu năm trời này đọng lại trong tôi như một kỷ niệm dài thuần nhất và hầu như phi trình tự thời gian: tôi thức dậy để viết và chỉ ngủ lại khi đã viết xong.
- Nhưng rốt cuộc, ngài cũng phải chịu đựng cuộc chiến như tất cả mọi người. Thí dụ, ngài làm thế nào để cấp cho mình các nhu yếu phẩm?
Người phóng viên biết mình đang đề cập tới một vấn đề mấu chốt trong cuộc sống của kẻ béo phì.
- Đúng vậy, tôi còn nhớ mình đã phải ăn uống kham khổ trong những năm tháng đó.
- Ngài thấy rồi đấy!
- Tôi không khổ sở về chuyện đó lắm. Thời ấy, tôi phàm ăn chứ không sành khi thưởng thức. Và tôi có trữ lượng xì gà dồi dào đến khó tin.
- Từ khi nào ngài bắt đầu trở nên sành ăn?
- Khi đã ngừng viết. Trước đó, tôi không có thời gian dành cho việc ăn uống.
- Và tại sao ngài ngừng viết?
- Ngày tôi tròn năm mươi chín tuổi, tôi cảm thấy rằng chuyện đến đó là kết thúc.
- Ngài cảm thấy chuyện gì kết thúc kia?
- Tôi không biết. Nó thình lình đến hệt như kỳ mãn kinh vậy. Tôi đang viết dở một cuốn tiểu thuyết liền bỏ đấy. Làm vậy rất đúng đắn: một sự nghiệp thành công mỹ mãn buộc phải có một cuốn tiểu thuyêt còn dang dở để được chấp nhận. Néu không, người ta sẽ coi cậu không bằng một tay bồi bút hạng xoàng.
- Vậy là ngài đã trải qua ba mươi sáu năm trời viết không ngừng nghỉ, thế rồi chỉ trong một sớm một chiều lại gác bút, không viết thêm một dòng nào nữa ư?
- Chính thế.
- Vậy thì ngài đã làm gì trong suốt hai mươi tư năm tiếp theo?
- Tôi đã nói với cậu rồi, tôi trở thành kẻ sành ăn.
- Toàn thời gian ư?
- Gọi là toàn chế độ thì đúng hơn.
- Thế ngoài việc đó?
- Việc đó tiêu tốn khá nhiều thời gian, cậu biết đấy. Ngoài việc đó, hầu như chẳng còn gì khác. Tôi đọc lại các tác phẩm kinh điển. À, suýt thì quên, tôi đã mua vô tuyến.
- Sao kia, ngài thích truyền hình, ngài ấy à?
- Quảng cáo, chỉ những đoạn phim quảng cáo thôi, tôi như bị chúng hút hồn.
- Không có gì khác sao?
- Không, ngoài những đoạn quảng cáo ra, tôi không thích truyền hình.
- Kỳ lạ thật: vậy là ngài đã trải qua hai mươi tư năm trời để ăn và để xem truyền hình sao?
- Không, tôi còn ngủ và hút thuốc nữa chứ. Và dành chút thời gian đọc sách.
- Thế mà công chúng không ngừng nghe nhắc đến ngài.
- Lỗi này lại quy về viên thư ký của tôi, cái gã Ernest Gravelin tốt nết ấy. Chính hắn ta đã lo dốc sạch bản thảo từ ngăn kéo bàn của tôi, lo gặp gỡ các nhà xuất bản, lo gây dựng truyền thuyết về tôi và nhất là lo khuân về đây hàng tá những luận điệu của các bác sĩ, với hy vọng sẽ ép được tôi kiêng khem.
- Vô ích.
- Thật may là như vậy. Hắn ta quá ngốc nếu tước đoạt của tôi thú vui ấy, bởi xét cho cùng, nguồn cơn căn bệnh ung thư của tôi đâu phải ở chế độ ăn uống.
- Vậy thì nguồn cơn là do đâu?
- Vẫn trong vòng bí mật, nhưng không phải do chế độ ăn uống. Theo Elzenveiverplatz (lão già béo phục phịch phát âm rành mạch cái họ này với vẻ vô cùng thích thú), cần nhìn nhận chứng bệnh này như một tai biến về gen được lập trình từ khi đứa trẻ còn nằm trong bụng mẹ. Vậy nên tôi đã có lý khi tọng vào mồm bất cứ thứ gì.
- Ngài sinh ra đã phải mang trong mình căn bệnh đó sao?
- Đúng thế, anh bạn ạ, hệt như nhân vật chính trong một vở bi kịch vậy. Thế mà người ta vẫn còn tìm gặp để nói với tôi về quyền tự do của con người.
- Dẫu sao thì ngài vẫn cứ được hưởng án treo trong suốt tám mươi ba năm qua.
- Án treo, chính xác là vậy.
- Ngài sẽ không phủ nhận rằng bản thân mình đã được tự do trong tám mươi ba năm qua chứ? Thí dụ, ngài đã có thế không viết văn...
- Phải chăng cậu đang trách cứ tôi vì đã viết văn?
- Ý tôi không phải thế.
- A, tiếc thật, tôi vừa mới bắt đầu quý mến cậu.
- Dẫu sao, ngài cũng không hối tiếc vì đã cầm bút chứ?
- Hối tiếc ấy à? Tôi không có khả năng hối tiếc. Cậu có muốn một viên kẹo caramel không?
- Không, cám ơn.
Tiểu thuyết gia đút tọt viên kẹo vào miệng và nhai, tạo nên một thứ tiếng động ầm ĩ.
- Ngài Tach này, ngài có sợ chết không?
- Không hề. Cái chết không nhất thiết phải là một sự thay đổi lớn. Trái lại, tôi sợ đau. Tôi kiếm được những liều morphin dự trữ, tôi có thể tự tiêm cho mình. Nhờ thế, tôi không còn sợ đau.
- Ngài có tin là tồn tại cuộc sống sau khi chết?
- Không.
- Vậy ngài có tin cái chết là một sự triệt tiêu hoàn toàn không?
- Làm sao người ta có thể triệt tiêu cái sẵn đã bị triệt tiêu?
- Đó thực là một câu trả lời rất chúa.
- Đó không phải một câu trả lời.
- Tôi hiểu.
- Tôi phục cậu đấy.
- Tóm lại, ý tôi muốn nói là... (phóng viên cố phịa ra điều mình muốn nói, vờ như đang gặp vướng mắc trong cách diễn đạt) tiểu thuyết gia là một nhân vật chuyên đặt những câu hỏi mà không đưa ra câu trả lời cho những câu hỏi đó.
Im lặng chết chóc.
- Tóm lại, đó vẫn chưa hẳn là điều tôi muốn nói...
- Không à? Tiếc thật. Tôi vừa mới ngẫm ra điều đó quả là đúng.
- Hay là chúng ta bàn sang các tác phẩm của ngài?
- Nếu cậu thấy nhất định phải làm vậy.
- Ngài không muốn nói đến các tác phẩm của mình, phải thế không?
- Quả là không gì qua nổi mắt cậu.
- Như tất cả những nhà văn lỗi lạc khác, ngài tỏ ra rất ngại ngùng khi bàn đến tác phẩm của mình.
- Ngại ngùng, tôi ấy à? Chắc cậu nhầm.
- Dường như ngài thích thú khi tự hạ thấp bản thân. Tại sao ngài không nhận là mình ngại ngùng?
- Bởi vì tôi không như thế, anh bạn.
- Vậy thì tại sao ngài không muốn nói đến những cuốn tiểu thuyết của mình?
- Bởi vì bàn về một cuốn tiểu thuyết chẳng có ý nghĩa gì cả.
- Thế mà được nghe một nhà văn nói về sản phẩm sáng tạo của mình, kể rõ ông ta viết thế nào, tại sao viết và viết để chống lại cái gì lại là điều vô cùng lý thú.
- Nếu một nhà văn có thể hứng thú đối với chủ đề này thì chỉ có hai khả năng: hoặc hắn ta bê lại nguyên xi những gì đã viết trong cuốn sách của mình, và đó đích thị là một con vẹt; hoặc giải thích những cái hay ho mà hắn ta đã không nói đến trong cuốn sách ấy, trong trường hợp này, cuốn sách được nhắc đến ở đây kể như đã thất bại, bởi bản thân nó chưa hoàn thiện.
- Nhưng dù sao cũng có rất nhiều nhà văn lớn đã nói về tác phẩm của họ mà vẫn tránh được những rào cản này.
- Những lời cậu nói tự chúng đã mâu thuẫn nhau rồi: vừa cách đây hai phút, cậu bảo rằng mọi nhà văn lỗi lạc đều rất ngại ngùng khi nổi về các tác phẩm của họ đấy thôi.
- Nhưng người ta có thể giới thiệu riêng một tác phẩm nào đó mà vẫn giữ được bí quyết.
- Vậy hả? Cậu đã từng thử rồi sao?
- Không, mà tôi đâu có phải là nhà văn.
- Vậy thì cậu nhân danh cái gì mà nói những lời nhảm nhí này?
- Ngài không phải là nhà văn đầu tiên tôi phỏng vấn.
- Phải chăng cậu dám so sánh tôi với những hạng nhà văn xoàng cậu vẫn quen phỏng vấn?
- Họ không phải là hạng nhà văn xoàng!
- Nếu họ có thể kể lể dông dài về những cái mình viết ra, rồi cùng lúc tỏ ra ngượng ngùng và hứng thú thì chắc chắn đó là một lũ văn sĩ xoàng xĩnh chứ còn gì nữa. Làm thế nào cậu lại muốn một nhà văn phải ngượng ngùng cơ chứ? Đó là thứ nghề ngỗng trơ trẽn nhất trên đời: thông qua văn phong, ý tưởng, cốt truyện, tìm tòi, giới văn sĩ mãn kiếp chỉ nói về bản thân họ mà thôi, và lại nữa, nói bằng ngôn từ. Giới họa sĩ và nhạc sĩ cũng nói về mình, nhưng với một ngôn ngữ ít sống sượng hơn nhiều so với ngôn ngữ của chúng ta. Không, anh bạn ạ, mọi nhà văn đều là hạng phàm phu tục tử; bằng không, họ sẽ là nhân viên kế toán, lái tàu, nhân viên trực điện thoại, họ sẽ trở nên đáng kính.
- Được. Vậy thì hãy giải thích cho tôi hiểu tại sao ngài lại ngượng ngùng đến thế?
- Cậu lại nói tầm bậy gì nữa thế?
- Nhưng đúng thế mà. Tính đến nay đã sáu mươi năm ngài chính thức là nhà văn và đây là cuộc trả lời phỏng vấn đầu tiên của ngài. Ngài không bao giờ xuất hiện trên báo chí, cũng không tham gia một diễn đàn văn học nào hay các loại đoàn hội khác, nói đúng hơn, ngài rời khỏi căn hộ này chỉ để đi mua hàng. Người ta cũng không biết đến một người bạn nào của ngài. Nếu không phải là thẹn thì là cái gì đây?
- Mắt cậu quen với bóng tối chưa vậy? Giờ thì cậu nhìn rõ mặt tôi rồi chứ?
- Vâng, thấy lờ mờ.
- Như thế càng hay cho cậu. Anh bạn, cậu nên biết rằng nếu diện mạo tôi đẹp đẽ, tôi sẽ không ru rú nơi xó nhà này. Mà thực ra, nếu diện mạo tôi đẹp đẽ, tôi sẽ không đời nào trở thành nhà văn. Có lẽ tôi đã trở thành nhà thám hiểm, kẻ buôn bán nô lệ, người phục vụ quầy, kẻ hám vợ giàu.
- Vậy là ngài thiết lập mối quan hệ giữa thể xác và thiên hướng của mình sao?
- Đó không phải là một thiên hướng. Chuyện đó đã xảy ra với tôi khi tôi nhận ra vẻ ngoài xấu xí của mình.
- Ngài nhận ra điều ấy từ khi nào?
- Rất nhanh. Trước giờ tôi vẫn xấu mà.
- Nhưng ngài đâu đến nỗi quá xấu.
- Ít ra cậu cũng được cái nết tế nhị đấy chứ nhỉ.
- Nói cho cùng thì ngài thuộc tạng to béo, chứ không xấu.
- Cậu còn muốn sao nữa? Cằm bốn ngấn, mắt ti hí, mũi hao hao củ khoai tây, tịnh không có cả râu lẫn tóc, gáy xếp nếp hàng ngấn thịt, hai má xệ xuống – mà theo ý cậu, tôi chỉ phì nộn mỗi khuôn mặt thôi hay sao?
- Trước đến giờ ngài vẫn luôn to béo thế này sao?
- Năm mười tám tuổi tôi đã như vậy rồi – cậu có thể gọi là béo phì, tôi không phật lòng đâu.
- Vâng, béo phì, nhưng nhìn ngài có đến nỗi rùng mình đâu.
- Đồng ý với cậu rằng tôi có thể trông còn đáng ghê tởm hơn nữa: tôi có thể mắc chứng mặt sùi đỏ, nổi mụn cóc...
- Thế mà da ngài lại rất đẹp, trắng trẻo, trơn nhẵn, tôi đoán là chạm vào sẽ rất mềm mịn cơ đấy.
- Nước da của hoạn quan, anh bạn thân mến ạ. Có cái gì đó thật lố bịch khi sở hữu một làn da như vậy trên mặt, đặc biệt là trên một gương mặt béo phính và râu ria trụi thùi lụi: thật ra, mặt tôi trông giống như một cặp mông, mềm và trơn láng. Đó là một bộ mặt dễ khiến người đối diện cười hơn là nôn mửa; đôi khi, tôi những muốn có bộ mặt khiến người khác phát nôn mửa hơn. Như thế xem ra lành hơn.
- Tôi không đời nào tin là ngài chịu đựng vẻ bề ngoài của mình.
- Tôi đâu có chịu đựng nó. Sự chịu đựng dành cho kẻ khác, cho những ai nhìn thấy tôi kia. Còn tôi thì không tự nhìn mình. Tôi không bao giờ soi gương. Tôi sẽ đau khổ nếu chọn một cuộc sống khác; còn đối với cuộc sống tôi đang có, cơ thể này là phù hợp.
- Ngài đã muốn chọn một cuộc sống khác sao?
- Tôi không biết. Tôi vẫn nghĩ mọi cuộc đời đều có giá trị ngang nhau. Có một điều chắc chắn, đó là tôi đã không hề hối tiếc. Nếu trở lại tuổi mười tám và vẫn mang vẻ bề ngoài này, tôi sẽ làm lại từ đầu, tôi sẽ tái hiện chính xác những gì mình đã trải nghiệm – trong chừng mực mà tôi đã trải nghiệm.
- Viết văn, đó không phải là sống sao?
- Thật bất tiện cho tôi nếu phải trả lời câu hỏi này. Tôi chưa từng biết đến cái gì khác.
- Hai mươi hai tiểu thuyết của ngài đã được ra mắt công chúng và theo những gì ngài vừa nói thì đây vẫn chưa phải con số cuối cùng. Trong số đông đảo các nhân vật làm nên sự nghiệp đồ sộ ấy của ngài, liệu có nhân vật nào đặc biệt giống ngài không?
- Không có ai cả.
- Thật chứ? Xin thú thật, tôi thấy trong những nhân vật ấy có một người giống hệt ngài.
- Chà.
- Đúng thế đấy, tay bán sáp ong hành tung bí hiểm trong Đóng đinh câu rút không đau.
- Nhân vật đó ấy à? Ý tưởng này mới thật vô lý làm sao.
- Tôi sẽ nói ngài biết lý do: trong lời thoại dành cho nhân vật này, ngài luôn viết “đóng đinh câu rút”.
- Thế thì sao?
- Thì anh ta không dễ bị lừa chứ sao. Anh ta biết rằng đó là chuyện hư cấu.
- Độc giả cũng biết điều đó. Thế nên nhân vật ấy không giống tôi.
- Thế còn thói gàn khiến anh ta đúc ra những cái khuôn sáp ong mang nét mặt kẻ chịu khổ hình đóng đinh câu rút – đó chính là ngài, không phải thế sao?
- Tôi không bao giờ đúc khuôn những kẻ bị đóng đinh câu rút, tôi cam đoan với cậu.
- Dĩ nhiên, nhưng đó là phép ẩn dụ cho việc ngài đang tiến hành.
- Anh bạn trẻ, cậu thì biết gì về phép ẩn dụ nào?
- Nhưng... cái mà mọi người ai nấy đều biết.
- Câu trả lời xuất sắc. Mọi người chẳng biết gì về phép ẩn dụ hết. Đó là một từ ăn khách, bởi vì nó mang vẻ đĩnh đạc. “Ẩn dụ”: kẻ dốt nát đến tột bậc cũng nhận thấy từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp. Một sự lịch thiệp quá mức, những từ nguyên giả mạo – giả mạo, thực vậy: khi biết tính chất đa nghĩa kinh khủng của giới từ meta và những tính khách quan chủ thể của động từ phero, trong thực tâm người ta hẳn phải kết luận rằng từ “ẩn dụ” nhất thiết tống đạt bất cứ thứ gì. Ngoài ra, khi nghe đến cách dùng thông dụng, người ta cũng đi đến các kết luận tương tự.
- Ý ngài là gì?
- Là điều mà tôi đã nói, hết sức nghiêm túc. Tôi thì không phát biểu ý kiến của cá nhân mình thông qua các ẩn dụ.
- Thế còn những cái khuôn sáp ong?
- Những cái khuôn sáp ong là những cái khuôn sáp ong, anh bạn.
- Đến lượt tôi thất vọng đó, thưa ngài Tach, bởi lẽ nếu loại trừ hoàn toàn diễn đạt ẩn dụ thì những tác phẩm của ngài chỉ còn là một thứ vô vị.
- Bản thân sự vô vị cũng có kiểu này kiểu khác: có kiểu vô vị lành mạnh và mang tính phục hưng ở chỗ nó tạo ra những điều xấu xa tục tằn cho những mục đích tốt đẹp, thanh lọc, linh hoạt và cương quyết như một trận nôn được kiểm soát tốt; và rồi có sự vô vị kiểu khác, sặc mùi đạo đức giả, vì bị che lấp sau trận nôn hay hớm kia nên cần một bộ đồ không thấm nước để tự khai thông một lối đi. Tay thợ lặn này, chính là phép ẩn dụ, cho phép kẻ sử dụng nó nhẹ nhõm mà thốt lên: “Mình đã xuyên thấu Tach mà không hề vấy bẩn!”
- Nhưng ngay cả điều này cũng là một ẩn dụ kia mà.
- Dĩ nhiên: tôi đang cố gắng phá vỡ phép ẩn dụ với những vũ khí riêng của nó. Nếu muốn chơi trò Chúa cứu thế, nếu phải kích động đám đông, tôi hẳn đã hét lên: “Này các lính mới, hãy tập hợp tại phòng nguyện của ta; hãy cùng ẩn dụ hòa những ẩn dụ, hãy gom những ẩn dụ lại, đánh bông chúng lên, hãy biến chúng thành một bong bóng khí và làm cho bong bóng khí này phình tướng lên, phình một cách tuyệt hảo, phình đến cực độ - và cuối cùng, nó nổ tung, lính mới ạ, nó rớt xuống, xịt dần và khiến những thực khách thất vọng trong niềm vui khôn tả của chúng ta!”
- Một nhà văn căm ghét những phép ẩn dụ, điều ấy cũng vô lý như một chủ nhà băng căm ghét tiền vậy.
- Tôi chắc chắn rằng những chủ nhà băng lớn đều ghét tiền. Chuyện này chẳng có gì là vô lý cả, trái lại thì có.
- Ấy thế mà ngài lại thích ngôn từ ư?
- Ồ, tôi tôn thờ ngôn từ, nhưng chuyện đó thì có gì liên quan. Ngôn từ, đó là những chất liệu đẹp, những nguyên liệu thiêng liêng.
- Vậy thì ẩn dụ chính là nghệ thuật chế biến món ăn – và ngài thích nghệ thuật chế biến món ăn.
- Không đâu, anh bạn, ẩn dụ không phải là nghệ thuật nấu nướng – nghệ thuật nấu nướng chính là cú pháp. Ẩn dụ, đó là sự giả dối; cũng tương tự như việc cắn một quả cà chua rồi cả quyết rằng quả cà chua ấy có vị mật ong, tiếp đó, nếm mật ong và nói chắc như đinh đóng cột rằng mật ong ấy có vị gừng, rồi nhai rau ráu củ gừng và khẳng định rằng gừng ấy có vị của cây thổ phục linh, sau rồi…
- Vâng, tôi hiểu rồi, nói thêm cũng chả ích gì nữa.
- Không, cậu đâu có hiểu: để nói cho cậu hiểu được một phép ẩn dụ thực sự là thế nào, tôi phải tiếp tục trò chơi nhỏ này hàng tiếng đồng hồ, bởi vì những kẻ sử dụng ẩn dụ, chính chúng, cũng không bao giờ ngừng lại, chúng cứ tiếp tục như thế mãi chừng nào vị cứu tinh chưa dần cho chúng một trận.
- Tôi đoán chừng vị cứu tinh ấy chính là ngài?
- Không. Trước giờ tôi luôn có xu hướng hơi quá nhu nhược và tử tế.
- Tử tế, ngài ấy à?
- Tử tế kinh khủng ấy chứ. Tôi chưa từng thấy ai tử tế như tôi. Lòng tử tế ấy kinh khủng bởi vì tôi chưa bao giờ tử tế vì bản thân điều đó, mà vì chán nản và nhất là vì sợ sẽ phải phẫn nộ. Tôi rất dễ bị phẫn nộ và không dễ chịu đựng nó, vậy nên tôi tránh nó như tránh dịch hạch.
- Ngài xem thường sự tử tế chăng?
- Cậu chẳng hiểu gì điều tôi đang nói cả. Tôi ngưỡng mộ sự tử tế bắt nguồn từ lòng tử tế hoặc tình yêu. Nhưng mấy ai có được sự tử tế đó nào? Trong phần lớn các trường hợp, khi con người tỏ ra tử tế, hành động đó nhằm để được yên thân.
- Cứ cho là thế đi. Điều ấy vẫn chưa giải thích được tại sao người bán khuôn sáp ong lại đúc ra những khuôn sáp mang hình nạn nhân bị đóng đinh câu rút.
- Tại sao lại không nhỉ? Làm gì có nghề nào ngu ngốc. Cậu đang là nhà báo đấy thôi. Tôi có nên hỏi tại sao cậu lại làm nghề đó không?
- Ngài có thể hỏi chứ. Tôi là nhà báo bởi vì có một nhu cầu, bởi vì mọi người quan tâm đến những bài báo tôi viết ra, bởi vì người ta bỏ tiền ra để mua và đọc chúng, bởi vì điều đó cho phép tôi chia sẻ một thông tin.
- Nếu ở vào vị trí của cậu, tôi sẽ không huênh hoang về chuyện đó.
- Thời nào, ngài Tach, người ta cũng phải sống chứ!
- Cậu thấy thế sao?
- Đó là điều ngài đang làm, phải không nào?
- Điều đó còn cần phải chứng minh.
- Dù sao đi nữa thì đó cũng là điều nhân vật người bán khuôn sáp ong của ngài đang làm.
- Cậu vẫn cứ khăng khăng bám vào người bán khuôn sáp ong tử tế đó à. Tại sao anh ta lại tạo ra những cái khuôn sáp ong có hình Chúa ư? Vì những lý do mà tôi đoán là hoàn toàn trái ngược với những lý do của cậu: bởi vì không có nhu cầu về mặt hàng đó, bởi vì nó không khiến mọi người quan tâm, bởi vì người ta không trả tiền cho anh ta để mua chúng, bởi vì điều đó không cho phép anh ta chia sẻ thông tin nào cả.
- Vậy thì là một sự diễn đạt về cái phi lý chăng?
- Không phi lý hơn chuyện cậu đang làm đâu, nếu cậu muốn biết ý kiến riêng của tôi – nhưng cậu muốn biết nó đấy chứ?
- Tất nhiên, tôi là nhà báo mà.
- Chính thế.
- Vì đâu lại có thái độ khiêu khích này nhằm vào các nhà báo?
- Không phải nhằm vào các nhà báo mà là nhằm vào cậu.
- Tôi đã làm gì mà đáng phải chịu như vậy?
- Thật là quá lắm. Cậu không ngừng lăng nhục tôi, không ngừng đối xử với tôi như một kẻ sử dụng phép ẩn dụ, cho là tôi vô vị, nói rằng tôi không đến nỗi “quá” xấu, quấy rầy người bán khuôn sáp ong và, tệ hơn cả, là dám khoe rằng đã hiểu được tôi.
- Nhưng… tôi phải nói gì khác cơ chứ?
- Đấy là nghề của cậu, không phải của tôi. Một khi đã đần độn như cậu, người ta sẽ không đến quấy rầy Prétextat Tach.
- Ngài đã cho phép tôi đến gặp ngài đấy chứ.
- Chắc chắn là không. Lại vẫn là tay Gravelin đần độn không có lấy một chút khả năng suy xét.
- Ban đầu, ngài nói đó là một người tốt bụng.
- Chuyện ấy không loại trừ sự ngu đần.
- Thôi nào, ngài Tach, đừng tỏ ra khó chịu hơn bản chất vốn có của ngài.
- Đồ thô bỉ! Cút ngay!
- Nhưng… cuộc phỏng vấn chỉ vừa mới bắt đầu.
- Nó chỉ kéo dài quá lâu rồi, đồ mất dạy! Biến đi! Và nói với các đồng nghiệp của ngươi là các người có bổn phận phải tôn trọng Prétextat Tach!
Tay phóng viên tiu nghỉu lỉnh mất.