← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II PHẢN BỘI VÀ RA ĐI

Một buổi sáng sớm, người Aleut mang đồ đạc của họ ra bãi biển. Đó là một ngày u ám và có gió mạnh đến từ phương Bắc. Chúng tôi chưa được nhận tiền về da rái cá. Do vậy người của chúng tôi vội vã băng qua khe chạy ra bãi. Đàn bà nấp trong các bụi cỏ cao trên bờ đá. Tôi và chị Ulape cũng nấp ở đấy.

Cả những chồng da rái cá nằm trên bờ đá. Phân nửa các tên săn bắt đã ở trên tàu. Số còn lại ném da rái cá lên trên xuống. Cha tôi đang nói chuyện với Orlov, tôi không nghe được lời họ nói. Đám người Aleut nói cười ầm ĩ.

Chiếc xuồng giờ đã đầy da rái cá, nó được chèo ra tàu. Orlov đưa bàn tay lên ra dấu. Trong một thời gian ngắn, chiếc xuồng từ chỗ tàu trờ lại cùng với một cái rương đen. Hai tên đi săn khiêng cái rương lên bờ.

Orlov giở nắp rương và lấy ra hai hay ba chuỗi hạt trai. Bầu trời không có nhiều ánh sáng, những hạt trai lấp lánh trên tay y. Ulape rất xúc động, tôi nghe có những tiếng trầm trồ của đám phụ nữ. Mọi người trong bọn họ đều yêu các hạt trai màu. Nhưng tiếng trầm trồ của họ im bặt khi cha lên tiếng.

“Một chuỗi hạt trai đổi lấy một tấm da rái cá là không đủ.” Cha nói.

“Một chuỗi hạt trai và một đầu ngọn giáo bằng kim loại.” Orlov nói.

“Một cái rương không đủ.”

“Còn nhiều rương khác ở trên tàu.” Orlov biện bạch.

“Vậy thì mang xuống đây. Có tất cả chín trăm tấm da rái cá ở trên tàu và năm mươi tấm ở đây. Chúng ta phải nhận được ba rương nữa cùng kích thước này.”

Orlov nói gì đó với các tên Aleut nhưng tôi không hiểu.

Bọn Aleut lại mang các tấm da lên xuồng. Cha tôi đứng giữa bọn chúng và chiếc xuồng.

Cha nói: “Các tấm da còn lại phải để lại đây. Các người có thể đem nó đi khi cái rương khác xuống đây.”

“Chúng tôi cần đem mọi thứ lên tàu.” Orlov nói, y nhìn lên trời. “Sắp có dông bão.”

“Đem rương xuống đây. Sau đó chúng tôi sẽ đưa xuồng giúp các ông.”

Orlov không nói gì. Y nhìn quanh, nhìn người của chúng tôi đứng trên bãi. Y nhìn lên bờ đá và nhìn cha tôi. Y nói gì với bọn Aleut. Sau đó y lên xuồng và đi về tàu.

Bọn đi săn di chuyển nhanh. Ulape và tôi chồm dậy, có tiếng la của đám đàn bà phía sau lưng chúng tôi. Cha tôi nằm gục trên đá, mặt ông đầy máu. Ông từ từ đứng dậy.

Dân làng nâng giáo lên và chạy xuống bãi về hướng Aleut. Một chùm khói trắng nhỏ bốc lên từ chỗ chiếc tàu. Chúng tôi nghe một tiếng nổ lớn, thế là năm người chúng tôi ngã xuống. Trận chiến diễn ra trên bãi. Người ta ngã xuống rồi lại đứng lên chiến đấu tiếp. Vài người ngã xuống không đứng lên nữa. Cha tôi là một trong những người không đứng lên.

Orlov từ tàu trở lại với nhiều tên Aleut khác. Dân làng chúng tôi bị đẩy lùi về phía dốc đá. Giờ phía chúng tôi không còn nhiều người nhưng họ tiếp tục chiến đấu.

Bỗng Orlov và thủ hạ của y quay người lại và chạy ra chỗ xuồng. Người của chúng tôi không đuổi theo. Bọn đi săn ra đến tàu. Chúng giương những cánh buồm đỏ, chiếc tàu chạy giữa hai dãy đá ra khỏi Ghalas-at. Chúng tôi nhìn theo chiếc tàu đi xa dần. Một chùm khói trắng từ tàu bốc lên, một tiếng hú lạ bay qua đầu của chúng tôi. Giống như tiếng một con chim lớn đang bay.

Cha tôi đã chết. Mọi người đều cho rằng lý do cái chết của cha là do lỗi của người. Cha đã nói cho Orlov biết tên bí mật của ông. Trong khi đánh nhau, không ai còn có sức mạnh nói ra tên bí mật của mình.

Trước khi đánh nhau, chúng tôi có bốn mươi hai người đàn ông. Giờ chỉ còn mười lăm, trong đó hết bảy ông lão. Mỗi người đàn bà mất một người cha hoặc một người chồng, một người anh hay một đứa con trai. Trong mười lăm ngày đầu tiên, cả làng nghe vắng lặng.

Chúng tôi không thường đi xuống bãi. Khúc cây nằm ở đây, nhưng không ai muốn làm cho xong chiếc xuồng. Mọi người quên lửng cái rương đựng hạt trai và đầu mũi giáo. Chúng tôi chỉ đi tìm lương thực.

Chúng tôi chọn thủ lĩnh mới. Tên ông là Kimki, ông rất già. Nhưng ông là người tốt, trong thời ông còn trẻ, ông là người săn bắt giỏi. Kimki triệu tập toàn thể chúng tôi lại và nói:

“Trong quá khứ, đàn ông của chúng ta đi săn bắt cá để phục vụ chúng ta. Đàn bà nấu ăn, may vá quần áo. Giờ phần lớn đàn ông đã chết, do vậy đàn bà phải học làm công việc của đàn ông. Sự thay đổi này không bình thường lắm, nhưng là cần thiết. Tất cả chúng ta sẽ chết nếu các người không đồng ý.”

Kimki phân công cụ thể cho mỗi người đàn ông, đàn bà và trẻ con. Ông bảo chị Ulape và tôi.

“Công việc của các cháu là bắt cua ốc trong các kẻ đá. Còn em các cháu có trách nhiệm giữ cua ốc không bị chó và chim ăn.”

Công việc của Ramo thật là khó khăn bởi vì trên đảo có rất nhiều chim, và cả nhiều chó nữa. Một số chó là của dân làng. Khi chủ của chúng chết, chúng bỏ làng vào rừng. Sau đó chúng trở về làng để ăn cắp thực phẩm. Mỗi buổi chiều, tôi và chị Ulape giúp Ramo bỏ cua ốc vào bao. Sau đó chúng tôi đem về làng.

Mùa thu và mùa đông lá mùa tôi rất đau buồn. Cha tôi là một người vóc dáng cao, khỏe mạnh và tử tế, tôi không thể quên người. Mẹ tôi đã mất, tôi và Ulape luôn làm công việc của bà. Giờ chúng tôi chỉ còn Ramo và thật khó mà trông chừng nó.

Vào mùa xuân, Kimki quyết định đi khỏi đảo.

“Tôi sẽ dùng một chiếc xuồng.” Ông nói, và đi đến xứ sở ở phía Đông. “Tôi đã đến đó một lần khi tôi còn là một đứa trẻ. Giờ tôi sẽ đi một lần nữa và sẽ xây nhà cho các người tại đó. Tôi sẽ đi một mình vì tất cả đàn ông đều cần có mặt ở nơi đây. Tôi sẽ trở lại sau một thời gian.”

Chúng tôi đi ra ngoài và thu gom trái cây, tôm cua cho ông. Ông rời Ghalas-at vào một ngày đẹp trời. Ông đi trên một chiếc xuồng to nhất. Xuồng chở nước và thực phẩm cho chuyến đi. Ông chèo chầm chậm giữa những khối đá và qua các bãi tảo. Mặt trời buổi sáng tạo một vệt sáng trên mặt nước. Ông chèo theo con đường đó về phương Đông cho đến khi chúng tôi không còn thấy ông nữa.

Một tháng sau, chúng tôi bắt đầu trông ra biển. Mỗi ngày, ngay cả những ngày bão tố, cũng có người đứng trông và chờ đợi ông Kimki trở về.

Nhiều tháng trôi qua, chúng tôi trông ngóng và chờ đợi.

Mùa đông đi qua và mùa xuân lại đến, nhưng mặt biển vẫn vắng bóng người. Mùa xuân chấm dứt, mùa hè bắt đầu. Ông Kimki vẫn không về.

Đã đến mùa bọn Aleut đi săn rái cá. Dân làng chúng tôi trông chừng xem các cánh buồm màu đỏ của bọn chúng có đến hay không. Giờ đây chúng tôi chỉ có tám người đàn ông khỏe mạnh để bảo vệ chúng tôi.

“Nếu như bọn Aleut đến, chúng ta không thể ngăn cản bọn chúng.” Dân làng nói. “Chúng sẽ giết chúng ta.”

Chúng tôi quyết định sẽ rời đảo nếu như chúng tôi thấy tàu của bọn chúng.

Cá muối, trái cây và nước được để trong xuồng. Chúng tôi giấu xuồng dưới những dốc đá cao. Khi tàu của bọn Aleut đến, chúng tôi sẽ chèo đi. Chúng tôi hi vọng sẽ đến miền đất ở hướng Đông.

Mỗi đêm, vài người chúng tôi canh chừng bờ biển. Một đêm nọ, tiếng la của một người canh đánh thức tất cả mọi người.

“Bọn Aleut, bọn Aleut!”

Chúng tôi nhanh chóng choàng dậy và gói ghém một ít đồ đạc. Tôi chụp lấy cái váy bằng cỏ và cái áo khoác bằng da rái cá. Cái váy rất đẹp. Tôi cần cái áo khoác vì nó sẽ giúp tôi khỏi bị lạnh khi đi xuồng.

Một lúc sau đó, Nanko, người la báo động trên bờ đã theo kịp chúng tôi. Anh nói chuyện với Matasaip. Matasaip là thủ lĩnh mới của chúng tôi. Anh được chọn khi ông Kimki không trở về. Anh nói:

“Tàu đã đến gần bờ. Không phải tàu của bọn Aleut. Tàu này nhỏ hơn tàu bọn chúng, những cánh buồm màu trắng.”

Matasaip nói với Nanko: “Tôi sẽ trở lại bãi biển với anh.” Sau đó anh nói với chúng tôi: “Ra chỗ chúng ta giấu xuồng và chờ đợi tôi.”

Trời lạnh ngắt, nhưng chúng tôi không phải chờ đợi lâu. Đã có người chạy đến chỗ chúng tôi. Đó là Nanko, anh đến với lời nhắn của Matasaip. Gương mặt anh trông tươi vui. Chúng tôi biết không có chuyện gì nguy hiểm.

“Nói nhanh lên!” Chúng tôi la to.

“Tôi mệt quá!” Anh nói. “Nói không ra hơi.”

“Thì đang nói đó!” Có ai nói.

“Nào nói đi, Nanko, nói đi.” Nhiều người khác la lên.

Nanko khoái chí bởi vì nhiều người trông chờ anh nói. Anh nhìn vào mặt mọi người đoạn mỉm cười.

Sau đó anh chậm rãi nói: “Chiếc tàu của bạn bè chúng ta. Có những người da trắng trên tàu. Họ đến từ chỗ ông Kimki đến.”

“Vậy ông Kimki có trở lại không?”

“Không, nhưng ông nói với những người da trắng chúng ta ở đây.”

“Trông bọn họ ra sao?” Chị Ulape hỏi.

“Có thằng bé nào trên tàu không?” Ramo hỏi.

Mọi người đều lên tiếng hỏi, Nanko đưa bàn tay anh lên. Anh nói:

“Tàu đến để đưa chúng ta đi. Đó là lý do duy nhất.”

“Nhưng đưa chúng ta đi đâu?” Tôi hỏi.

“Tôi không biết.” Nanko nói. “Nhưng Kimki biết, và người da trắng sẽ đưa chúng ta đến đó.”

Chúng tôi bèn quay trở lại làng. Mọi người đều e ngại sự thay đổi trong cuộc sống. Nhưng chúng tôi cũng vui mừng.