← Quay lại trang sách

CHƯƠNG X THẾ GIỚI LOÀI VẬT

Một buổi sáng ngay sau ngày bọn Aletu ra đi, tôi trông thấy một con rái cá nhỏ. Bọn người đi săn đã cố giết nó. Nó gần chết, nằm dài trên tảo biển. Thật ra thì Rontu trông thấy nó trước. Có một vết đâm sâu bằng giáo trên lưng nó.

Con rái cá có đôi mắt to, những con rái cá còn trẻ đều có đôi mắt thật to.

Trông nó rất sợ hãi. Đôi mắt nó to đủ thấy cả gương mặt tôi trong đó. Nó đã không cố lội đi khi tôi ôm nó lên. Tôi mang nó đến chỗ hố nước phía sau tảng đá. Tôi không sờ đến vết thương trên lưng nó bởi vì nước biển mặn đã rửa sạch vết thương.

Mỗi ngày tôi mang đến hai con cá và thả xuống hồ. Con rái cá không ăn cá. Khi tôi đứng nhìn. Sau đó tôi mang đến bốn con, và nó ăn hết cả. Sau cùng tôi mang đến sáu con, con số này đúng là vừa đủ.

Con rái cá lớn dần lên, nhưng nó không rời hồ nước. Nó đã quen dần với tôi, nó ăn cá từ trên tay tôi. Biển không xa chỗ hồ nước. Nếu nó muốn, nó có thể ra biển dễ dàng. Nhưng nó lại ở lại chỗ hồ nước và ngủ tại đó. Vào mỗi buổi chiều, nó đợi phần cá của nó. Giờ nó đã dài bằng cánh tay tôi, da nó trở nên rất đẹp. Đôi mắt nó rất, rất to. Lúc đầu tôi gọi nó là “Rái cá”, nhưng sau tôi quyết định đặt cho nó cái tên đẹp hơn. Tên “Mon-a-nee”. Nghĩa của chúng tôi là “Cậu bé với đôi mắt to”.

Bắt cá cho Mon-a-nee là một công việc làm khó nhọc. Một ngày nọ có gió to, tôi chỉ bắt được hai con cá. Tôi thả nó vào hố, Mon-a-nee ăn hết nhanh chóng. Nó chờ được cho thêm. Nó tỏ vẻ không vui khi tôi không cho nó được thêm nữa.

Sau đó dông tố càng tệ hại hơn. Trong ba ngày liền, tôi không bắt được con cá nào.

Hết dông gió tôi trở lại, cái hồ nước vắng lặng. Tôi biết, lẽ dĩ nhiên, một ngày nào đó, Mon-a-nee sẽ ra đi. Tôi cảm thấy buồn vì một người khác đã ra đi. “Mình sẽ không còn được bắt cá cho nó nữa!” Tôi tự nhủ “Giờ nó đã to lớn, khỏe mạnh. Nó giống như những con rái cá khác nằm trên tảo biển. Mình sẽ không nhận ra nó khi gặp lại nó.”

Sau khi bọn Aleut ra đi, tôi trở lại chỗ đồi.

Ngôi nhà vẫn như cũ. Tôi chỉ phải sửa lại cái hàng rào. Tôi đã ném cua sò và dầu cá khi bọn Aleut tới. Nhưng Rontu và tôi dễ dàng tìm kiếm lương thực để ăn. Đêm về thật tối, do vậy tôi chỉ làm việc ban ngày. Mùa đông này tôi kết sợi dây khác cho cây giáo của tôi.

Vào những ngày đẹp trời, tôi mang xâu chuỗi hạt trai mới của tôi và mặt cái váy bằng lông chim. Khi mang chuỗi hạt và mặc cái váy lông chim tôi lại nhớ Tutok. Tôi như có thể nghe giọng nói của cô ấy bằng tiếng dân tộc cô. Tôi cũng nghe tiếng trả lời tôi bằng tiếng dân tộc tôi nữa.

Màu xuân là mùa của hoa lá và chim chóc. Nước chảy từ vực ra biển.

Tainor và Lurai xây tổ trên cái cây mà chúng đã sinh ra. Chúng xây tổ chủ yếu bằng tảo khô và lá khô. Chúng cũng lấy lông trên lưng của Rontu nữa. Rontu không thích điều đó tí nào. Nó đã tìm cách né tránh cho đến khi hai con chim làm xong tổ.

Lurai đẻ ra hai cái trứng màu nâu. Tôi đã đúng khi đặt tên cho nó là tên con gái. Tainor phụ Lurai trong việc ấp trứng. Hai con chim nhỏ xấu xí chẳng mấy chốc trở nên đẹp đẽ. Tôi cũng đặt tên cho chúng. Tôi cũng tìm thấy một con hải âu trên bờ đá. Nó bị gãy chân. Tôi bó chân gãy của nó bằng ba que cây nhỏ. Nó chưa đủ lớn để bay, do vậy nó đi lòng vòng trong nhà.

Tôi có trong nhà hai con chim con, con hải âu trắng và Rontu. Gia đình tôi sống vui vẻ nhưng tôi không thể quên Tutok. Tôi cũng nhớ đến chị Ulape. Tôi không biết giờ chị ấy ở đâu. Chị đã vẽ một lằn xanh trên mặt trước khi rời đảo. Giờ chị chắc đã có chồng. Chị có thể cùng anh Nanko có mấy đứa con. Tôi luôn mong ước có những đứa con của riêng mình nó không giống những đứa trẻ khác.

Một ngày nọ, trong lúc tôi đi bắt ốc, bắt cua, tôi thấy một nhóm con rái cá nằm trên tảo. Tôi đưa mắt tìm Mon-a-nee, nhưng tôi không thấy nó. Bỗng có một con lội theo tôi khi tôi chèo xuồng đi. Nó lội vòng vòng trước mũi xuồng. Tôi tin chắc đó là Mon-a-nee. Do vậy tôi đưa con cá lên. Con rái cá lội đến rất nhanh. Chỉ thoáng chốc nó đã ngậm con cá vào mồm.

Nhiều tuần sau đó tôi không thấy nó. Nhưng vào một buổi sáng, khi tôi săn bắt cá, bỗng thấy nó từ đám tảo lội đến. Hai con rái cá con chậm rãi lội theo nó. Mon-a-nee đến gần chiếc xuồng. Tôi ném một con cá xuống nước. Nó muốn con nó có cá, nhưng chúng bận ngó tôi. Mon-a-nee không đụng đến con cá cho đến khi con cá lội đi. Mon-a-nee bắt lại và đặt cá trước mặt con của nó.

Tôi ném cho nó con cá khác và nó cũng làm như thế. Hai con rái cá con chỉ đùa với con cá. Sau khi chơi đùa đã đời, chúng lội đến chỗ Mon-a-nee. Lúc đầu tôi tưởng nó là cha. Nếu mẹ rái cá chết, cha chúng thường chăm chúng. Nhưng hai con rái cá con này đến bú sữa mẹ. Bấy giờ tôi biết Mon-a-nee là mẹ chúng.

Tôi nhìn xuống cái gia đình bé nhỏ. “Mon-a-noo” tôi nói “Tao sẽ đặt cho mày tên mới.” Tên đó là “Mon-a-noo”. Đó mới đúng là tên của “Cô gái có đôi mắt to”.

***

Bọn rái cá con lớn nhanh, và chúng đã lấy cá từ tay tôi. Mon-a-noo thích cua ốc hơn, nó ngậm viên đá vào miệng. Đoạn nó nằm ngửa ra, để con sò trên ngực. Nó đập con sò cho đến khi vỏ sò vỡ ra.

Mấy con rái cá cũng làm như thế. Tôi xem chúng làm không ngăn được tiếng cười to. Dường như chúng làm thế để con tôi vui. Nhưng tôi không biết bọn rái cá ăn sò ốc bằng cách nào.

Mùa hè năm đó, tôi vui chơi với Mon-a-nee và gia đình của nó. Kể từ sau đó, tôi không bao giờ giết rái cá nữa. Tôi dùng áo khoác bằng da rái cá cũ, không bao giờ làm cái mới nữa. Tôi không bao giờ giết chim, giết chó và hải tượng. Dân tộc chúng tôi giết chim chóc và thú vật một cách rất vô tư. Nhưng chúng đều là bạn của tôi. Và tôi hiểu rằng thế giới sẽ tốt đẹp hơn khi có chúng sống trong đó!

Chân của con chim hải âu dần khỏe hơn. Nó có thể bay khi tôi lấy đi mấy que bó chân. Một ngày nọ nó bay đến chỗ các con chim hải âu khác nên trên dốc đá. Tôi leo lên chỗ đó, trên đó có nhiều trứng chim.

Có hàng mấy trăm con chim ở đây, tôi không tìm ra con chim của tôi.

Bọn Aleut không bao giờ trở lại đảo. Mỗi mùa hè tôi chờ đợi họ. Và mỗi mùa xuân, tôi bắt sò ốc và phơi khô. Tôi để chúng vào trong hang nơi chiếc xuồng. Tôi cũng cất giữ cây giáo mới, cung tên cũng ở nơi đây. Nếu bọn đi săn trở lại, tôi đã sẵn sàng.

Bọn rái cá cũng sợ người Aleut. Cứ mùa hè đến con rái cá già lại nhớ đến cây giáo của người Aleut nên dẫn đàn đi nơi khác. Chúng lội đến các bãi tảo ở Đá Dựng. Chúng ở đây cho đến khi có những cơn dông của mùa đông.

Đến một mùa hè, bọn rái cá không đi nữa. Tôi biết không một con nào trong bọn chúng nhớ đến bọn sẵn bắt. Tôi cũng hay nghĩ đến họ, ngay cả những người da trắng nữa.

Vào cuối mùa hè năm đó, Rontu chết. Nó đã quá già, quá mệt mỏi, và thích nằm sưởi ấm dưới mặt trời. Nó không cùng tôi đi đến xuồng nữa.

Một ngày nọ, nó đứng cạnh hàng rào. Tôi cho nó ra ngoài và nó đã không trở lại. Tôi chờ nó cho đến chiều hôm sau. Dấu chân của nó dẫn tôi đến cái hang nơi xưa khi bọn chó đã sống. Tôi tìm thấy nó ở đây, nằm một mình ở tận cùng hang. Nó nằm yên, không cựa quậy. Giờ trời đã tối, do vậy tôi quyết định ở lại với nó. Tôi ngồi bên cạnh nó và nói chuyện với nó suốt đêm. Sáng hôm sau, tôi ôm nó lên và rời khỏi hang. Nó rất nhẹ. Tôi nghĩ một phần cơ thể nó đã ra đi.

Nó vểnh tai nghe tiếng chim hải âu kêu trên dốc đá. Đôi mắt nó nhìn về hướng đó, nhưng nó không rên một tiếng. Tôi đặt đầu nó nằm xuống, và nó không ngước đầu lên nữa. Tôi đặt tay lên ngực nó. Tim nó hai lần vang lên âm thanh giống như tiếng sóng vỗ bờ. Sau đó ngừng hẳn.

“Rontu” tôi khóc lớn “Ôi, Rontu!”

***

Tôi đào một cái hố sâu ở trên đồi và mang Rontu lên đó. Tôi đặt vài đóa hoa và món đồ chơi ưa thích của nó lên nấm mồ. Đó là một cây gậy mà chúng tôi thường chơi chung với nhau. Tôi ném cây gậy ra xa và nó nhặt lại cho tôi. Nó không bao giờ chán trò này.

Những khi dông bão vào mùa đông, tôi không bao giờ đi xa khỏi nhà. Tôi chặt cây và kết lại với nhau làm thành một cái bẫy. Tôi muốn nuôi một con thú thân yêu khác. Tôi nhớ đến một con chó nhỏ giống như Rontu. Lông nó dày và mắt nó có màu vàng giống hệt như Rontu. Cách nó chạy cũng giống như Rontu. Tôi tin chắc chúng là cha con. Tôi hi vọng sẽ bắt được con chó đó.

Sau khi Rontu chết, bọn chó thường chạy lên đồi. Tôi đặt vài con cá vào trong bẫy cây và để bên ngoài hàng rào. Tôi bắt được ba con nhưng không có con mắt vàng. Tôi thả chúng ra, thế là bọn chúng không mắc bẫy nữa.

Một đêm nọ tôi bắt được một con cáo nhỏ lông màu đỏ. Nó cắn tôi khi tôi lôi nó ra khỏi chuồng. Tôi thử nuôi nó, nó rất thích được ở trong nhà. Những khi nào tôi bỏ nó một mình, nó lại ăn vụng thực phẩm khô. Do vậy tôi thả nó đi. Nhưng nó luôn trở lại, đứng ở ngoài hàng rào để chờ thức ăn.

Tôi không bắt được chó ở trong bẫy nhưng tôi nảy ra một ý khác. Tôi nhớ đến thức uống mà đàn ông hay dùng. Thức uống này được làm bằng vỏ sò, nước và một loại cỏ, Bọn đàn ông sau khi dùng đều ngủ mê ngủ mệt.

Tôi lấy vỏ sò giần nhỏ ra, hòa với nước và dược thảo. Sau đó tôi đặt chất hỗn hợp đó xuống chỗ hố nước nơi mấy con chó thường đến uống. Tôi núp sau một bụi cây và chờ đợi.

Chiều tối bọn chó đến. Chúng đánh hơi và quay đi. Các con chó ngó chừng nhau. Một con trong bọn chúng thử uống, sau đó cả bọn cùng uống. Uống xong, chân bọn chúng như rả ra. Sau đó chúng nằm dài ra ngay say như chết.

Tôi đếm được chín chú chó ngủ gần hố nước. Trời tối sẫm. Tôi phải tìm cho ra con chó tôi mong muốn. Sau cùng tôi cũng tìm ra nó. Tôi ôm nó lên và mang về đồi.

Tôi kéo nó qua cái lỗ chỗ hàng rào và cột nó lại. Nó tỉnh dậy không lâu sau đó, đoạn uống một ít nước mát. Nhưng nó kêu ầm suốt cả đêm cho mãi đến sáng.

Tôi đặt cho nó là Rontu-Aru, có nghĩa là con của Rontu. Chỉ sau một thời gian ngắn, chúng tôi đã trở thành đôi bạn thân. Cũng như cha nó, nó thích rượt đuổi theo chim. Và tôi quên hẳn nó không phải là Rontu.

Mùa hè là một mùa vui sướng. Nhưng tôi luôn nhớ tới Tutok và chị Ulape của tôi. Đôi khi dường như tôi nghe tiếng của họ vang trong gió!