← Quay lại trang sách

Chương 6

Một buổi chiều, đầu mùa cá thu. Ông Nhụ đang ngồi vá lưới. Ông gọi Nhụ lại:

- Mấy ngày?

Ấy là ông hỏi kể từ ngày mẹ Nhụ đi lộng đánh cá.

- Năm, ông ạ.

Ông giơ một ngón tay lên ngang miệng. Nhụ hiểu và nói:

- Trong chạn hết cái ăn rồi.

- Đến nhà ông Trương.

- Vâng.

- Mượn luôn cây đèn pin.

- Tối đi soi ạ? - Nhụ hỏi lại.

Ông phẩy tay một cái. Nhụ đi luôn. Ngang với hiên nhà là con đê nhỏ ngăn nước mặn, đắp rất xuềnh xoàng. Nước cạn, trơ mấy cái khung thuyền đắm, lởm chởm những chiếc đinh to han gỉ, trông gớm chết. Những con cáy bò lằng nhằng. Một con tôm rảo đang nấp sau một cái lá sú mục, bỗng bật càng đến tách một cái. Sao con tôm dại thế, Nhụ nghĩ. Sát chân đê, vài ba con thuyền lớn đã kê lên. Xung quanh thuyền để ngổn ngang những bó lá thông, những ôm ràng ràng. Chỉ lát nữa thôi, toàn bộ vùng cửa sông này sẽ rực đỏ lên trong những đám lửa hun thuyền.

Ông Trương có nhà. Bằng chứng là đám trẻ con rất đông đang xúm xít ở ngoài cửa nhà ông. Chúng bá vai nhau, nghển cổ vào nhà với vẻ thích thú và lo sợ. Còn chân chúng thì lại choãi ra. Có đứa cẩn thận hơn, tay còn xách sẵn guốc dép, để nếu cần thì có thể chạy cho thật nhanh. Nhụ lẳng lặng đến, đứng đằng sau và bất ngờ kêu to lên một tiếng. Thế là đám trẻ thét lên cả một loạt. Rồi nhận ra là Nhụ trêu, chúng nó quay lại thụi Nhụ, cười ầm ĩ đến chảy cả nước mắt.

Ở trong nhà, ông Trương đang bẻ răng lũ rắn độc. Và như có lần ông nói, ông đang kể cho lũ rắn nghe câu chuyện về mối tình của một anh chàng nào đó với một cô dân chài ngày xưa. Mẹ cô gái thách anh chàng phải sắm cho đủ một trăm cái ô cho cá mực, hai trăm cái váy cho cá ngừ, ba trăm cái dải thắt lưng xanh cho cá song. Anh chàng không biết tìm đâu ra tiền...

- Có nhắn gì cho bố mày không? Cu Cõn! - Trông thấy Nhụ, ông hỏi luôn, vẫn cái lối gọi cháu bằng tên tục của người ông.

- Nhắn gì... là thế nào ạ? - Nhụ ngớ người vì câu hỏi quá đột ngột của ông.

- Là vì tao sắp ra chỗ bố mày đây.

- Thật thế á? Ông.

- Ông kể tiếp đi. Kể tiếp đi. Đang đến chỗ hay quắt tai... - Một đứa trong đám trẻ lên tiếng, giọng nghe rất láu lỉnh.

- Đến đoạn nào rồi? - Ông bắt một con rắn khác rồi đặt nó nằm cuộn tròn ngoan ngoãn ở trong lòng mình. Tay ông bóp vào cái cằm bạnh của nó để nhổ răng.

- Đến đoạn anh chàng không biết kiếm đâu ra tiền. - Cô bé mặt trái xoan, tóc bỏ đuôi sam, nhanh nhảu nói.

Ông bỗng hát lên:

Hờ ơ... ơ... ơ...

Anh về bán gió mùa đông

Bán núi Yên Tử, bán sông Bạch Đằng

Anh về bán Cuội trên Trăng

Bán cây đa, với... Hờ ơ... ơ... ơ...

- Thế thì vẫn không có tiền rồi! - Một đứa bé đầu cắt móng lừa nhận xét, giọng rõ ràng là thương tiếc, pha một chút buồn rất dễ dãi của con trẻ.

- Chuyện bịa đấy mà. Cá ngừ làm sao mà mặc được váy. - Cô bé đứng bên cạnh nói, tóc cô cài một đóa hoa to tướng, tết bằng khăn mùi soa. Mắt cô đưa rất nhanh sang các bạn, tỏ ý chê bai sự ngây thơ, cả tin của cậu bé tóc cắt móng lừa.

Bây giờ Nhụ mới nhớ ra là mình đến đây để làm gì. Nó hỏi ngang khi ông Trương ngẫm nghĩ, lấy hơi hát tiếp câu khác.

- Ông cháu bảo ông có chả rắn thì cho ông cháu mấy cái.

- Ờ, có. Nhà mày có mỡ không?

- Có. Nhưng toàn mỡ cá thiều.

- Cũng được. Tao mới băm thôi. Vào chạn lấy về mà rán. Cứ xẻ một nửa, già nửa cũng được.

Nhụ nhìn chằm chằm vào lũ rắn, (con to, con nhỏ, con tròn, con dẹt, con đen lừ, con khoang...) bò loằng ngoằng, chồng chéo lên nhau ở sân sau, được chắn vuông vức bằng những phiến gỗ xẻ khá rộng bản. Ông Trương bảo:

- Cứ vào. Cứ vào. Rắn nhà tao ngoan lắm!

"Rắn mà lại ngoan!" Nhụ thầm nghĩ như thế và mỉm cười một mình.

Nhụ về đưa bọc thịt rắn và cái đèn pin cho ông.

- Lão già bông phèng đấy mà. Ai người ta cần lão ra đảo Mõm Cá Sấu. - Ông Nhụ nhận xét khi nghe Nhụ nói chuyện.

Chờ cho Đé ngủ say, Nhụ buông màn, vặn nhỏ đèn, rồi dong con lẵng đến bên bậc cửa.

- Phải nhanh nhanh lên, kẻo trăng mọc là hỏng ráo. - Ông Nhụ nói, giọng như thì thào.

Phải trông thấy ông buộc cái giỏ vào ngang lưng bằng một sợi dây ni-lông gỡ ra từ một tấm lưới rách và nhảy xuống cái lẵng con, trong đêm nhờ nhờ sáng vì lửa hun thuyền ở bên kia đê, mới thấy ông già tám mươi tuổi này vẫn còn trẻ lắm. Ông khỏa nhẹ tay vào nước. Con lẵng trôi thẳng, êm ru và rất mềm. Dường như con lẵng không phải đóng bằng gỗ mà bằng chất dẻo.

- Phải nhanh nhanh lên, kẻo trăng mọc là hỏng ráo. - Ông Nhụ nhắc lại, giọng rất thanh thoát.

- Cháu đưa chìa khóa cửa cho ông nhé.

- Cứ cầm.

- Cháu chưa cầm chìa khóa nhà bao giờ.

- Tập cho quen đi.

Ông nói, dứt khoát và rắn rỏi.

Con lẵng đã vượt qua chân cột đèn biển. Tiếng nước rẽ roan roát. Đêm tối sẫm và đặc quánh. Chả nhẽ trăng sắp lên rồi sao? Bây giờ là mấy giờ rồi?

- Ông ơi, ta ra núi hay lên cồn? - Nhụ hỏi.

Ông già im lặng. Vậy Nhụ phải tự đoán lấy thôi. Có thể là ông đang mải bơi lẵng không nghe thấy tiếng Nhụ hỏi. Cũng có thể là ông tập cho Nhụ sự im lặng và óc phán đoán, là những đức tính cần thiết cho bất cứ một người đi biển nào.

Ánh lửa hun thuyền từ chân đê in một màu hồng nhạt, mờ ảo trên lưng áo xanh bạc của ông. Mái đầu chỉ còn lơ thơ tóc của ông lặng lẽ cúi xuống, đầy vẻ kiên trì và tự tin. Hai cánh tay khoát nước nhẹ và đều. Gió phân phất thổi, liếm môi cũng thấy vị mặn. Nhụ thõng tay, nhúng mấy ngón xuống nước. Lập tức, bên mạn lẵng, lóe lên những vệt lân tinh sáng, sắc lạnh và trơn, như vệt kim cương cắt trên mặt kính.

- Đừng nghịch. Xem lại đèn pin đi. - Ông Nhụ nhắc.

Nhụ xoay đèn. Một luồng sáng lóe trên mặt sông, loang loang bằng cái nia. Cái khoảng sáng ấy hắt lên cao, lòa lòa ngang mặt người, trông rõ từng sợi hơi nước bay rối loạn như khói: "Đèn bắt rắn đây, tốt thật!" Nhụ nghĩ.

- Lia trái. - Ông Nhụ ra lệnh.

Nhụ lia ngang đèn và cái luồng sáng vàng hung như bị chặt gẫy, chỉ còn một nửa thông thống sáng ở ngang đầu, một nửa mất hút vào đêm đen. Đúng là lên cồn soi cua thôi. Con lẵng này làm sao mà ra núi trước khi trăng mọc được.

Khi con lẵng cập vào bờ kè và Nhụ nhảy tót lên cái hiên nhà mình, đã non hai giờ sáng. Nhụ mở cửa. Đé vẫn ngủ say. Ông Nhụ luồn dây lẵng vào cái lỗ thoáng bàng bạc ánh trăng suông của hàng lan can cụt, rồi vắt chéo dây, trông rất qua loa. Nhưng ngay cả bão cũng không lôi con lẵng của ông trôi đi được. Ông để xuống hiên nhà chiếc giỏ nặng trịch, ướt át và đầy những tiếng rì rào. Một vệt nước dẻo quánh và trơn tuột từ dưới đáy giỏ chảy ngoằn ngoèo xuống sông.

- Cái giống cua rất thích chơi bời vào tuần trăng. Cứ tàn con trăng, thì cua nào cua ấy, đều xác như vờ...

Ông xách giỏ cua vào trong bếp, lấy cái thớt vuông to tướng đậy lên.

- Rặt một bọn nhãi ranh cả. - Ông lẩm nhẩm nói tiếp.

Nhụ hiểu là ông nói về đám cua mà ông cháu Nhụ vừa soi được. Thực ra trong giỏ có một cặp cua to, ông đã bảo Nhụ, mai bắt biếu ông Trương. Còn lại đều là những con nhỡ. Chúng đang sồn sột bò tìm nhau trong những vũng nước sấp sảnh trên cồn, nửa đất mỡ, nửa đất cát và khẽ khàng phát ra những tín hiệu ri-ri-cri-cri... Bỗng ánh đèn lòa lòa rọi tới, chúng cứ giương hai con mắt lồi ra, càng giơ lên trời, như vô cảm. Đó là ánh đèn định mệnh mà đời nọ truyền cho đời kia, chúng vẫn không ý thức được cho nhau...

Đúng như Nhụ dự đoán, ông Trương đi đảo Mõm Cá Sấu thật. Ông đi nửa đêm qua, theo đoàn tàu của Quốc doanh đánh cá. Ông mang theo một can rượu trắng loại cắm tăm được, hai viên thuốc gia truyền và "tập đoàn rắn" của ông, nói theo lời cô cháu gái.

Biết tin đó, ông Nhụ thừ người ra.

Một lát sau, ông mới nói:

- Đi thật rồi hầy!

- Vâng.

- Nhắn gì không?

- Chắc là có. Tối qua ông Trương có đến nhà mình.

Ông nghển cổ ra, có ý chờ đợi xem ông Trương nhắn gì. Nhụ phải nói luôn:

- Nhưng cửa nhà mình lại khóa...

Ông ậm à ậm ừ ở trong cổ họng, rồi đứng dậy, đi ra võng nằm. Cánh tay hơi dài, cứng và dẹt như cái bơi chèo của ông túm lấy đầu võng. Chân ông đạp rất mạnh vào tường. Cái võng chao đi, chao lại một cách bứt rứt qua hàng lan can cụt.