Chương 14
Hôm nay có tàu từ đất liền, chở người, vật liệu xây dựng và một số giống cây trồng, giống vật nuôi, ra đảo. Bố Nhụ và chú Thuận đã chuẩn bị những vạt đất có thể làm nhà, làm vườn. Chưa biết giờ nào thì tàu đến. Từ sáng sớm, một số người đã ra tận cầu cá ngóng trông. Chỉ thấy lảng vảng sa mù che kín cả đường chân trời.
Chả biết sinh ra từ đâu, những mảng sa mù cứ lớn dần, đầu tiên lất phất bay như những đám lông thỏ. Một vài đám bay vào đảo, rồi tan đi trong các ngọn cây cao. Rồi đậm dần, đặc dần, nặng dần, bỗng chốc ùn ùn như những quả núi xốp, táp vô hồi kỳ trận vào sườn đảo, lấp đầy các khe rãnh, các cầu cảng và bãi cát. Những vạt đồi xao xác hoa lau, những bông lau gầy còm, giã gạo chấp chới rồi chìm mất tăm trong biển khói màu mắt cá. Những vòm cây khép tán, thoi thóp, rồi ngạt thở trong những cái bao đục lờ lờ, trông lửng lơ như những cái trứng nhện khổng lồ. Đỉnh núi Miếu Ông Voi bồng bềnh trôi trong hư ảo. Cái đèn pin dài ngoẵng trong tay bố Nhụ chọc ra một tia sáng nhọn hoắt, rồi tù dần, rồi to bè ra, vàng vọt, rồi mất hết ánh sáng. Ngửa đèn pin lên nhìn, pha sáng vàng đặc và không có tia, tròn xoay, như mắt của con hổ ăn đèn trong đêm tối. Mọi hoạt động đều ngưng, trừ những mảng sa mù câm lặng và cuồng dại, cứ quay đảo cuồn cuộn. Đến chín, mười giờ, sa mù mới loãng dần, chảy thành dòng e dè và ngoằn ngoèo, theo kẽ nứt trên vỏ cây thông dại, thành vài giọt nước rơi vu vơ xuống mặt đất, từ cuối cái cuống đen của cành bồ kết đang rụng lá, thành mùi âm ẩm nhưng đến là nồng nàn trên má người, trên ngực áo người...
- Tiết trời này rồi sẽ có chuyện đây. - Bố Nhụ lẩm nhẩm.
- Chuyện gì hả bố?
Ông rướn cặp lông mày rậm, có những sợi to và dài quá cỡ lên nhìn con, gương mặt thẫn thờ, mệt mỏi.
Đến chiều vẫn chưa thấy có tàu ra. Nhụ lên văn phòng ủy ban xem sự thể thế nào, nhân tiện, nếu chú Thuận rỗi thì nhờ chú giải giúp cho bài toán khó. Văn phòng được quét dọn sạch sẽ. Phía tường hồi, sau tượng Bác Hồ đặt trang trọng trên bục gỗ, là phông vải màu xanh nước biển, làm nổi bật dòng chữ dán, cắt bằng giấy trắng, đặt ở phía tay phải Biển bạc của ta do dân ta làm chủ, lời Bác nói với ngư dân đảo Tuần Châu và Cát Bà ngày 1/4/1959, và phía tay trái Nhiệt liệt chào mừng đồng bào ra đảo xây dựng quê hương thứ hai. Cạnh tượng Bác Hồ, một cọc gỗ Bạch Đằng bảy trăm năm, cắm nghiêng trên đế xi măng hình sóng nước. Nhụ đã đặt vào đó, viên đất đáy sông Bạch Đằng mà nó nạo ra từ mỏ neo tàu. Giữa phòng là hai hàng bàn phủ vải cũng màu xanh nước biển, Nhụ biết là mượn từ đồn biên phòng. Chú Thuận ngồi ở gian bên, đang ghi chép gì đó trong sổ tay.
Còn đang băn khoăn nên vào phòng làm việc của chú Thuận hay không, thì trông thấy Đức đang đi xuống bãi cát cùng với con chó vàng đốm trắng. Nhụ đi theo.
Nước triều đã rút xuống lưng chừng. Bãi cát chênh chếch nghiêng, ngoằn ngoèo những cái rãnh nhỏ. Nước mặn ở trên vẫn ri rỉ chảy xuống, vừa chảy vừa đào cho rãnh sâu thêm. Những con cáy lớn màu hung hung, lông cứng đỏ tía dựng lởm chởm, hoảng loạn chạy loằng ngoằng. Trông thấy Đức, chúng chợt đứng sững lại, đồng loạt giương cao cái càng lên như chào, cái càng mập mạp và đỏ quạch. Con Róc cũng đứng sững lại, và sau vài giây thăm dò, nó bèn xông đến, và lập tức bị một con cáy cắp vào mũi. Nó kêu áy, áy... áy, áy... nhảy cẫng lên. Đức cũng phát hoảng chẳng biết làm gì để cứu con chó đang đeo con cáy ở trước mũi vừa chạy vừa kêu. Cuối cùng, Đức túm lấy con cáy, vặt càng, cái càng rời ra vẫn cắp chặt vào mũi con chó, làm con chó càng đau thêm. Khi bẻ gẫy được một nhánh của cái càng, thì con chó cũng bị rách một cánh mũi. Con chó đau quá, ngồi bệt trên hai chân sau, hai chân trước vờn vờn như vái như lạy, trông thật thương tâm, nó rên ư ử như người.
Đức quyết trả thù, đuổi bắt từng con cáy nhưng không sao bắt được.
- Tớ phải bẻ càng một trăm con cho bõ tức.
Nhụ bảo:
- Tức cái con cáy làm quái gì cho mệt. Nếu mình đến sớm, mình sẽ bảo cậu cứ ấn cái mũi con chó xuống cát. Chạm cát, cáy sẽ rời càng ra và chạy biến ngay. Cậu trông đây này...
Nhụ bẻ một cành dương, móc trong túi quần ra một sợi ni-lông, buộc vào đầu cành làm cần câu, rồi thả cái đầu dây vào trước hai con mắt thô lố của con cáy. Cáy chỉ chờ cái đầu dây đến là giơ càng cắp ngay.
Nhụ nhấc cành lên, con cáy đã treo lủng lẳng.
- Nó cắp chắc lắm. Nếu cắm cành dương này xuống đất, con cáy sẽ chết khô trên dây cho mà xem. Nhưng này...
Nhụ thả con cáy xuống cát. Chạm cát, con cáy nhả càng ra và lập tức biến mất trong đám rác khô...
- Cậu thấy không, câu cáy đơn giản quá nên mình cũng chả thích. Mình thích câu cá cơ. Hôm nào mình sẽ đưa cậu đi câu cá biển
Tâm trí Đức vẫn còn luẩn quẩn với cái mũi sứt của con chó.
- Sẽ lành ngay thôi mà. Chó liền da, gà liền xương. Mai là nó chạy nhảy lung tung cho mà xem. Nhà cậu có cần câu không?
- Không.
- Tớ sẽ cho cậu một bộ xịn. Câu cá thú lắm. Có loại cá chỉ cắn khi nước lên. Có loại cá chỉ cắn khi nước xuống. Còn nước dừng và khi nào trời nổi gió tây, thì dù nước xuống hay nước lên, cá cũng không bao giờ cắn mồi.
- Thế à?
- Mồi cũng có nhiều loại, câu cá dìa thì dùng bánh dày hay bột mì, câu cá song, cá vược, thì phải có tôm sống, tốt nhất là tôm he. Còn câu các loại cá tráp thì phải lấy gan của con sam...
Gương mặt Đức đã dãn ra, tròn dần lại. Ánh trong hai con mắt hơi xa nhau, đã nheo cười, có vẻ tò mò thích thú.
- Nhà tớ có bột mì và tôm he đấy.
- Được. Mình sẽ làm cả mồi cho. Cậu phải nhớ là cá cắn mồi không giống nhau đâu nhé. Đớp mồi mà lao chúi xuống là cá song, phải giật ngay, kẻo nó lẩn vào hốc đá dưới đáy sâu là mất cả cá lẫn dây câu. Cắn mà chạy ngay, phóng cứ thẳng băng là cá vược, nếu mồi là tôm sống, hoặc cá tráp đen, nếu mồi là gan sam. Cá tráp đen thì không có thủ đoạn gì. Còn cá vược thì phải chú ý. Nó có cái mang phụ sắc như lưỡi dao bào. Dây thả cho nó phải căng, rồi khi giật cần và kéo lên, cũng phải căng. Nếu trùng dây một chút, nó lập tức quay lên, giương cặp mang phụ cắt đứt dây cước luôn đấy, thế là tong. Còn thấy mồi mà mổ, mổ, là cá tráp trắng. Cứ để cho nó mổ chán đi, rồi nó mới cắn mồi. Còn thấy mồi không động mà dây câu cứ bị hun hút kéo đi, thì đích thị cá tráp vàng rồi. Con tráp vàng thường cắp mồi vào vây, cứ thả cước cho nó, tuyệt đối không được động cần. Cước chạy chừng dăm ba mét thì thôi. Cái mồi rời ra, tráp vàng ta, tưởng con mồi chuồn mất, nên quay lại, đớp luôn. Thế là nó bị tóm.
Đức ôm con chó vào lòng và bây giờ thì quên cả vuốt ve nó. Đức đã bị lũ cá trong chuyện của Nhụ cuốn hút. Đức tháo cặp kính ra nhìn Nhụ trân trân, với vẻ thán phục không giấu giếm:
- Sao cậu biết lắm thứ thế?
- Mình là dân chã mà. Mấy năm trước, ông mình thường đưa mình đi câu. Mình câu cũng vào loại sát cá đấy. Mình còn biết lặn hà. Cạnh nhà mình, có một chị lặn xuống sông Bạch Đằng đánh hà. Con hà bám vào chân cột đèn biển, nó chỉ bằng ngón chân cái. Chị vô ý để nó kẹp chặt vào đầu một ngón tay. Chị không sao rút ra được. Thế là chị chết. Người nhà lặn xuống tìm, một đầu ngón tay chị, con hà vẫn còn cặp chặt và chị cứ thế bập bềnh lửng lơ, vạt áo phất phơ bay trong nước biển.
Nhụ thoáng thấy Đức rùng mình.