Tiếng Chuông Thiên Mụ
Sống thẳng một mạch mười năm có lẽ ở Huế, nhiều đêm mất ngủ, tôi nằm nghe tiếng chuông Thiên Mụ tựa như lời nói thầm âm hao mà lòng thổn thức nhớ quê. Một năm 365 đêm, đêm nào cũng thế, cứ vào giờ tí, sư trụ trì chùa Thiên Mụ lại cho thỉnh chuông. Mùa xuân, tiếng chuông nghe trong vắt như hơi gió heo may đi qua kẽ lá, làm bồi hồi đất trời, đâu đó những mầm sống cựa mình để đất nở hoa, cho hoàng mai rực vàng suốt một dãy phố chợ. Kể từ tiết lập hạ, tiếng chuông nghe thảnh thơi hơn, có nắng gió và sự trầm tĩnh của lòng người thỉnh chuông. Tiếng chuông như có bóng mát che chở mỗi đời người. Nhưng từ trong sâu thẳm vẫn sừng sững một nỗi cô đơn nhân từ của trời cao, và tiếng chuông lúc này nghe như đại ngã bao dung.
Vào giác thu, trời Huế tím cho đến tận nửa đêm, đường phố nhiều lá rụng, tiếng chuông Thiên Mụ vì thế cũng đã vàng xao xác. Cây cối rũ lá thanh thoát và tiếng chuông đi qua xương cây nghe mơ hồ như một hơi thở nhẹ, say say nắng. Đó cũng là thời khắc bịn rịn chia lìa của các tình nhân, họ ngậm ngùi trở về để mặc vai áo cho sương thu ướt đẫm. Tiết lập đông có tiếng chim sếu kêu khan ngoài sông lạnh, Huế rét mướt vô kể. Tiếng chuông Thiên Mụ nghe như buồn hơn bao giờ hết, để người xa quê nao nao nhớ một bếp lửa hồng.
Chỉ một tiếng chuông nhưng chao ôi đã đong bao buồn vui, khắc khoải của một đời người. Rằng nương theo tiếng chuông này, ta sẽ gặp ngày hội ngộ của bốn mùa.
Với những người am hiểu Huế, sở dĩ tiếng chuông chùa Thiên Mụ hay và vang xa nhất, không phải chỉ vì nhờ cấu trúc tinh xảo và chất đồng tinh luyện mà vì chuông còn được thỉnh bằng dùi gỗ mít nài xứ núi, tuổi trên một trăm, thớ gỗ đã chuyển cả từ vàng nghệ sang đỏ sẫm với vân hình cánh nhạn. Gỗ nài xứ núi khắc với đồng như thuỷ với hoả. Sự tương khắc để mà sinh sôi cho tiếng chuông kỳ diệu, nghe một đời mà không thấu trọn.
Còn với người Huế xa quê, tiếng chuông Thiên Mụ là nỗi nhớ dai dẳng như mưa dầm, buốt rức, suốt một đời ám ảnh những bước chân ai phiêu bạt mưu sinh. * Mùa Gió Huế
Giữa hai khối nhà tập thể tôi ở bây giờ có khoảng trống đầy gió. Mùa đông, gió bấc từ phía trước thổi ra đàng sau, hun hút lạnh. Trở gió bấc, hàng cây long não chuyển sang màu xanh tím tê tái. Lá rơi từng đợt làm vàng cả con đường rộng. Người đi dưới phố mặc áo mưa kín thân mà vẫn không khỏi rùng mình vì lạnh. Người mẹ Huế đưa con đến trường buổi sáng, cũng chỉ nhìn thấy hai khối người, mỏng manh trên chiếc xe đạp cọc cạch. Con đường như chỉ ấm lên vào buổi tối khi những ngọn đèn vàng được người thợ điện bật sáng. Những vầng sáng vàng vàng trên vòm cây long não trụi lá, dễ gây mũi lòng những tâm hồn đa cảm. Nhất là khi có một chiếc xe phở đi qua, tiếng gõ mời gọi lóc cóc trong tiếng mưa nhẹ hạt như tiếng người nói lao xao. Một tiếng gọi giật gấp gáp "phở". Chiếc xe phở dừng lại. Tiếng gõ biến mất. Người đàn ông Ba Tàu có mái đầu bạc lúi húi trụng phở với một chiếc vá dài. Mùi hương thơm từ nước phở nấu bằng xương bò bay ra, lan toả trong một không gian ấm áp kỳ lạ. Tô phở Tàu bưng trong mưa giá, toả hơi nghi ngút. Ở Huế bây giờ còn không đến chục chiếc xe phở dạo. Không biết rồi sau mười năm, hai mươi năm nữa liệu có còn không tiếng gõ lóc cóc như tiếng song loan nhịp ba, mang lại cho phố xá hơi ấm giản dị của cuộc đời.
Thôi những đợt gió bấc, văng vẳng tiếng ve sầu dưới vòm long não, tim phượng nở bập bùng, Huế chuyển dần sang mùa hạ và khoảng trống ở khu tập thể nhà tôi đầy gió đông nam. Lần này gió lại thổi từ phía sau ra đàng trước. Huế vẫn còn sương mù và lạnh về sáng nhưng lại nóng ấm lúc ban trưa. Trong bữa ăn của nhiều gia đình đã có dĩa rau muống luộc xanh ngắt. Rau muống Huế được trồng chủ yếu ở các hồ trong thành nội, ven các hộ thành hào, hộ thành hà. Nói trồng nhưng thật ra là cấy. Cây rau muống Huế cũng khá đặc biệt. Thường nhỏ sợi, thân mỏng và lá vừa phải. Khi luộc cần đổ nhiều nước, rồi trở rau bằng đũa tre bảng to (người Huế gọi là đũa bếp), giữ cho rau xanh mướt, như khi rau còn nằm trong lòng hồ. Một dĩa rau muống luộc, một bát nước rau muống nhỏ có đánh một tí ruốc và nặn ít chanh tươi đặt bên cạnh chén nước chấm được pha chế công phu, đã là một bữa ăn thịnh soạn của văn hoá ẩm thực Huế. Sành điệu hơn thì kèm theo bữa ăn một dĩa nhỏ cà pháo đã chẻ lòng, ươm ươm đỏ. Vị cà hăng hăng cay cay lẫn với vị rau muống ngòn ngọt vẫn còn chát nhẹ, gợi lên trong tâm thức phong vị quê hương không dễ gì quên được.
Khi những cành phượng đỏ tắt lửa, trái phượng dài ra chừng một gang tay người lớn, màu trời chuyển sang tai tái bầm bầm, Huế bắt đầu đón gió phơn tây nam mà người ta gọi là gió Lào. Gió cực khô và cực nóng khiến mồ hôi cứ tươm ra, rít rát như ướp muối. Cổ họng khát bỏng, nhiều khi nóng quá phải thở ra đằng miệng. Hàng cây long não trên phố, lá đang xanh bỗng dày ra, co lại như những chiếc vỏ hến vàng vọt. Lúc này trên bàn ăn của nhiều gia đình Huế đã có một bát canh rau má thơm mát. Ở Huế, cây rau má mọc nhiều ở vùng đồi phía tây thành Huế. Một số người thích ăn rau má núi, một số khác chỉ thích ăn rau má đồng mềm và ít đắng. Gần đây rau má còn được trồng ở vườn, ven các nguồn nước. Rau má trồng không bao giờ có được vị ngon của rau má rài (rau má dại). Rau má hợp nhứt là nấu với tôm rằn nước lợ. Một bát canh rau má ngon là bát canh vừa phải. Tỉ lệ tôm, rau má, nước phải hài hoà. Quá nhiều tôm sẽ mất vị rau má, ngược lại quá nhiều rau má sẽ làm ôi bát canh. Với một bát canh rau má tôm rằn trong bữa ăn ngày gió phơn tây nam, người Huế có thừa sự chăm chút để bát canh ở lại mãi trong lòng người thưởng thức.
Khi những cánh sếu đầu mùa bay từ nội thành Huế qua bờ nam sông Hương, rồi đi mải miết đến chân đèo Hải Vân, Huế đón mùa thu với gió heo may. Gió rít nhẹ, thoảng thơm như hương cau. Khoảng trời trên sông Hương xanh ngắt, điểm vài cụm mây trắng đuôi gà. Lúc này, những quán cà phê Huế dọc hai bờ sông Hương gần kín người. Uống cà phê khi gió heo may về, cũng là một thói quen của người Huế thị dân đi tìm một chút tĩnh lặng cho đời sống tâm hồn. Mùa thu cũng là mùa thành phố Huế đẹp nhất. Sông Hương mang gương mặt của bầu trời, như chưa bao giờ xanh đến vậy. Ven sông, lá mùa thu rơi vàng như nắng chiều. Đường phố thưa người đi, thỉnh thoảng trong những con hẻm vắng còn đọng lại một ít sương mù.
Nhiều năm sống ở Huế, với bao nhiêu buồn vui. Có lúc phấn khích, có lúc mỏi mệt, bực dọc chuyện đời thường. Nhưng khi nghe bất chợt một tiếng sấm mùa thu xa tận thượng nguồn, rồi những hạt mưa ngâu đầu tiên rơi xuống lòng bàn tay, sao thấy lòng như ấm lại. Gió heo may nhen nắng về trên phố. Có con sếu lẻ nào đó kêu khan, khiến lòng ta rưng rưng bởi một tình yêu quá đỗi.